Nguyễn Huệ Chi
15/09/2013
Nguyên
đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên “Cuộc kháng chiến trường kỳ
chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về
sau” viết năm 1980, in trong công trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ
góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi (NXB Giáo
dục, 2013) đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo chí trong
nước thời gian gần đây. Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi đã
cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh đặc
biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch đánh
chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ trương
rất bài bản và “cao tay”... là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn hóa tinh
thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như nước lũ. Hầu
hết cứ liệu để cập trong bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc – cuốn Việt
kiệu thư 越 嶠 書 của
sử thần Lý
Văn Phượng 李 文 鳳, soạn
năm 1540.
Bauxite
Việt Nam
--------------------------
Vào
năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra một
bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành lập một triều đại
mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử chế độ phong kiến
Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị của đế quốc Nguyên
– Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên Chương nhảy lên
ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế quốc Minh. Trước
sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã lần lượt thế chân
các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi một chút nào mối
quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những gì trong quá khứ
vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được “ngôi trời” – cảm
thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh đất giàu có phương
Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc “chinh phục” Đại Việt
mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các vua nhà Hồ, cố nhiên họ
hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”. Ngay khi vừa lên ngôi, họ đã tích cực
chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào ngày 19 tháng 11 năm 1406,
chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ thất sách về chính trị và sai
lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm sau đành lâm vào thất bại. Vua
Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô
hộ lên khắp nước ta.
Nhưng
nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù
phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi
việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một
phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết
phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo
dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi.
*
Điều
cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với tất cả vẻ khốc liệt
và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức gay gắt của nó quyết
định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong kiến Tống, Nguyên chẳng
cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt, và về so sánh lực lượng,
lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng như áp đảo kinh hồn?
Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm thực hiện một mưu đồ
còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông thường, của một tên “Đại
Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại của y có thể đứng vào
loại nhất nhì thế giới. Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy tất cả những kinh
nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những mánh khóe ranh ma
mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy, nguy cơ của cuộc xâm
lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu thức tỉnh toàn diện để
có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu tranh giành lại chủ
quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong vòng hơn 20 năm
(1406 - 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả đã tạo ra một
bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV
chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi thay lịch
sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia chưa từng
thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân của
những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng
lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức
mạnh hồi sinh.
Ngón
đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây
hấn đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút
nào so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của
rất nhiều cuộc “Nam chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được
“thiên triều” chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức,
phải tìm ra một cái cớ thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải làm sao
dò thật trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này thường vẫn
gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm thầm của họ.
Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị “con trời”, ông vua Minh
đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc
thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi... “tội” (!). Nhung “hỏi tội”
một vị vua vì “chống nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước lời lẽ cứng rắn
của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải cử người
sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan đem thi
thố phen này(1). Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ hẳn, mà
chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi. Tháng 9 năm
1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn đòi
nước ta cấp lương cho đạo quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng. Rồi các năm
1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp
hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để “thiên triều”
mang đi đánh trận. Năm 1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang
xin ta giúp 5 vạn quân, 50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ
giả của ta để kiếm chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước,
vì thế ta đã kịp thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút
về ngay chứ không cấp lính và voi.
Một
vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất
lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ
thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn phải kéo dài việc
chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2).
Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm
quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ “đi trước” đã không khỏi
làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng
xưa kia đã là quận huyện của Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức ta không còn
chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để
tiếng chê cười cho hậu thế”(3). Đấy là lời thú nhận của Minh Thành
Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên cầm quân
sang đánh Đại Việt theo lệnh của y – đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4
(1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên
nhân thất bại của Tống và Nguyên: “Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh
An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế
mà không thành”(4). Sự thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên
mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn
bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt Nam. Năm 1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã
cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và bế tắc trong tập đoàn phong kiến
Trần – Hồ không những không giải quyết được mà còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn
đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng
là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn đoạt được ngôi từ trong tay cháu
ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho
bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng,
ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng làm hiệu. Thế rồi, phải ba năm sau
nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một
trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ
bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công. Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên
rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các
vị vua Trần và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy
năm về trước!): “Bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ
lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc
vương, tàn sát người trong dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong
vòng thảm khốc, bị hãm vào chỗ chết. Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến
gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường”(5). Mặt
khác, với ngón bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra
điều ta đây bất nhẫn, không định gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá
lắm nên phải động binh; song động binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả
bằng cách cho cha con họ Hồ “đem trăm vạn lạng vàng và một trăm con voi ra
chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc bảo bối thế vào cho đủ. Có
thế đại quân mới không tiến sang”(6). Kỳ thực, có đúng thế hay
không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng viên Tổng binh Chu Năng –
gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây – Minh Thành Tổ đã
thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công văn của
Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu của chúng
buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi, trẫm từng gặp
mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày chưa xong thì
cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang tiếp sang nộp
cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân phải tức khắc xuất
phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì cứ bắt giữ lại để
tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị bắt... Nay bọn Chu
Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai biết”(7).
Gớm
ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”! Duy có điều là
ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào
là “nước An Nam giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ tất
có phòng bị trước”, nào là “cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo
quyệt”, tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh
Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc
nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng
quân mãi trên sông giằng co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý
Ly] nhằm giữ chân quân ta thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được
mưu này thì phải thần tốc không được trì hoãn”(9).
Rõ
ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết
sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược
của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân
dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của “thiên triều” phải mang tính chất hai
mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là
vì vậy.
*
Tuy
nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta,
thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và
hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để
tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh toả xuống phía Nam, được thi
hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi
miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến. Và một chính sách
chém giết thẳng tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng. “Trương
Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người
quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua
vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để
tính làm hai mạng người”(10).
Có
thể nói, nói đến đặc điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ
XV là nói đến hình ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn
giết người – trị người – dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham
hiểm. Sau nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,...
nhưng đều thất bại, vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi
Thiên Cầm. Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công
trường lao dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức ngon của
quý. Ngay trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn
chinh đã nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết
giấy tờ, sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ
thuế khóa trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ
vàng. Kể cả những mỏ nằm trên biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất
bên nào, cũng được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư thực(11).
Hai cơ quan Kim trường cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền
biển và miền núi vào mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn
chế độ lao dịch ở đồng quê, ở thành thị... Đâu đâu cũng cái cảnh “bị người Minh
sai khiến mà mất cả gia thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển
bán đi mà tan tác bốn phương” (13).
Đẩy
nhân dân Đại Việt đến chân tường, giặc Minh phải đâu đã thoả. Chúng còn tìm
cách thâu tóm vào tay mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn
sống sót những ai thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước
ta có thầy hay, thợ giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem “tiến” về
Yên Kinh. Các loại người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ
tuyệt sắc, thầy bói và thầy địa lý;...
Mỗi
năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại
lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về.
Nhưng
cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc
tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh
biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách “mặt trái” rất khôn khéo:
chính sách mỵ dân. Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ
người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải
tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có
một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến) nhất là đối
với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu
đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!
Đặc
biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ
xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt
người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách
lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo
sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói
là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là
một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những
người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng
Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,... chính vua Minh trực tiếp
chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá
Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu
cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh
nghiệm về việc “dùng người” và than thở không thôi(17). Sự chu đáo
trong chính sách “chiêu hồi” này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả
đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại
cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi
sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).
Nhưng
thủ đoạn mỵ dân mà nhà Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều
nhiệm vụ phức tạp cho cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược – chính là một
phương sách hai mặt: vừa triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược
trong quá khứ, lại vừa làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai. Ngay
trong đạo sắc 10 điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4
(21.8.1406) gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường y cất quân sang Đại
Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng chú ý: “Hỏi xem cột
đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài đường, để cho nguời
trong nước đều trông thấy”(19). Chắc ai cũng phải lấy làm lạ: một
bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một dấu vết
của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất tích,
ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại dột, hay ngông cuồng, hay
thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh Thành Tổ coi đây là một
việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông ta còn nhắc
lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả “sự nghiệp” vênh vang của “tiền
nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một
bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất “một đồng một
cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành? Có lẽ! Nhưng chắc chắn
còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại Hán
thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những tưởng
nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc “chiến bại”, thì rốt cuộc
cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ cột mốc hình thức
kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều tên xâm lược cũng phải đành
lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “... dù có cướp được nước họ thì
rồi cũng không thể giữ được”(21). Có nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà
quả là khó, là làm sao biến được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh
viễn họ không còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của
“thiên triều”? Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một
cách lý giải mới đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng
buộc vô hiệu bề ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những
trói buộc nghiệt ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên
chế, độc đoán về sinh hoạt tinh thần.
Lần
đầu tiên, trong lịch sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung
Quốc, tên xâm lược nhà Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với
xã hội Việt Nam. Trong bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm
xong nước ta, Minh Thành Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng,
một trong những tội trạng của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không “chinh
thảo”, là họ Hồ đã tự coi “đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế,
cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng Tử
không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di],
Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp”(22),
v.v. Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ hiểu, bởi một nước tự xưng là “thần tử” của
Hoa hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn
thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới
dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng
là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há
miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.
Dù
sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy đạo Nho để thống
trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn. Cuồng vọng bá chủ
sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất là làm sao cho
nước “man di” kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng, tinh thần. Y muốn
xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà trong lòng nhiều
thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về quá khứ lịch
sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là cách cắt
đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt tối tăm,
phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy phải làm thế
nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc tất cả những
gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa.
Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên,
bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự “hoả khí” lợi hại của cha con
họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá
cột đồng trụ,... còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: “Một khi binh lính
vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu
hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý
dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất
dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do
Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam
dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn”(23).
Thử
lần tìm cái động cơ chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả
những gì thuộc nền văn hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách kinh của Phật và
Lão, đều được giữ lại đầy đủ. Trái lại, bao nhiêu trước tác thuần túy Việt Nam
thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y chẳng phải là đạo Nho hay một
hệ tư tưởng chính thống nào cả. Đối với người Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị
y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy
bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả
trong quá trình tiếp nhận những gì là vốn liếng tinh thần của “nước mẹ Đại
Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt các dân tộc thôi đừng có tự mình tư
tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa là... không tồn tại.
Thế
rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày đêm lo theo dõi,
đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có một bộ phận quân
lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay sách vở cướp được
của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai nhắc lại đúng
những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt ngay tại chỗ
chứ không nên giữ lại: “Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất
thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ,
như loại “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt
hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy
là phá hủy lập tức, chớ để sót lại. Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt
được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông
không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều.
Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy
sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại”(24).
Dĩ
nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng cảm thấy một chủ
trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến làm nổ bùng lòng
căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây chuyền của sự
bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế, đi kèm với
những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín chủ trương
của mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá hoại về căn
bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), y lại gửi
một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải cấp tốc thu
hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định xong; [...]
trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư
thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công đã
lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm kê,
đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có
một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện”(26).
Tưởng
cũng khó có thể chê trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt
đâu ra đấy từng bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi hành động tàn phá
kinh khủng nhất của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy
đối tượng bị tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ
cũng không còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”, thì nghệ thuật xóa dấu
vết của y cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng
rằng bị cướp đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm
lược Đại Hán ở thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của
nhiều thế hệ cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh
động hơn những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà
nay đã bị xem là quá cổ lỗ và thật thà.
N.H.C.
---------------
Chú
thích:
Những
chú thích dưới đây, so với bản in lần đầu của bài này (ngày 14.9.2013), đã được
chỉnh sửa theo chỉ dẫn của tác giả, thống nhất theo bản Việt kiệu thư của viện
Viễn Đông bác cổ thời Pháp, nay là Thư viện Viện Khoa học xã hội (xem chú thích
số 1., bài Sách
Việt kiệu thư trong con mắt giới sử học đương đại). Diễn Đàn.
(1)
Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã
hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189.
(2)
Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền
cướp lấy mà
lập ra triều đại
thứ ba của nhà
Minh (1402 - 1424), tức Minh Thành Tổ.
(3)
Lý Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư
越
嶠
書
(1540). Đây là một
tài liệu quý, ghi chép khá đủ theo trật tự thời gian
những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn (thường là vài ngày một đạo)
đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1406-1407. Trước đây
chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất cuốn sách này của Thư viện Viện Khoa học xã
hội vốn là sách của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cũ, ký hiệu: 1731, (nay thay đổi
ký hiệu là: VH. 000276 - HV. 000281), nhưng năm 2001, sang làm việc ở Thư viện
Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam Kinh,
1996. Tuy vậy, trong bài này, vẫn xin ghi chú số quyển và trang và theo bản của
Thư viện Viện Khoa học xã hội để cho thống nhất. VH. 000276, Q. 2, tờ 19a: 今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力 不 能 制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy
tại hải tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế.
Lịch Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế).
(4)
Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 20a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản
kèm theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên
giai phát binh chinh thảo An Nam, tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ
thử bất năng thành).
(5)
“Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh
Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟 為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬 弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ thần [Lê ]
Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ chi, cử thí
kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm khốc, bồi
khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái lộ).
(6)
Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 18a. Nguyên văn: 今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪 本 難 容 。 今 既 改 過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。 以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之 。以 足 其 數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim Quảng Tây
tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản nan dung.
Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng nhất bách
chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối đại chi, dĩ
túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến).
(7) Điều
thứ 10 trong 10 điều căn dặn trong đạo sắc chỉ bí mật, xếp sát ngay sau đạo sắt
đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd,
Q. 2; tờ 17b: 今 遣 朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨 行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內
措
辨不
足
。
許
隨
多
少
先
將
來
。
後
卻
差
人
納
足
。爾
待
朱
勸
等
人
去
。大
軍隨
後亦
進
。
若
遇
差
出
納
金
象
之
人
就
執
之
。訖
問
聲
息
。
須
勿
令彼
知
差
來
被
執
。今
朱
勸
等
到
處
。爾
事
機
切
不
可
令
人
知
之
(Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ tu văn vãng An Nam sách kỳ kim
tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi chân thực ý dã. Chu Khuyến đẳng lâm
hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ nhật. Nhược ngũ nhật nội
thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu khước sai nhân nạp túc.
Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai
xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh tức. Tu vật linh bỉ tri
sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự cơ thiết bất khả linh nhân
tri chi).
(8)
Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Q. 2,
Sđd tờ 20a: 安 南 自 我 朝 以 來 [。。 。] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中 富 庶 (An Nam tự ngã
triều dĩ lai, [...] sổ thập niên bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung phú thứ).
(9)
Sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407), Việt kiệu thư,
Sđd; Q.2, tờ 24a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴 在 神 速 。不 宜 遲 緩 (Đốn binh giang
thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát.
Phá chi quý tại thần tốc, bất nghi trì hoãn).
(10)
Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 262.
(11)
Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 22a đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而 界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占 城 有 請 亦 不 可 擬 還 (An Nam kim
trường, ngân trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương
tranh dĩ cửu, diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi
chuẩn. Túng nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là:
Từ xa trẫm nghe nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai
bên tranh chấp đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa
giới mà mình trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả.
(12),
(13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr.
250, 262.
(14)
Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 23b. Nguyên văn: 大 軍 入 安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者 。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập
An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch giả, sát chi. Nhược hữu năng khí giáp
khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả võng sát).
(15)
Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 22b. Nguyên văn: 其 有 年 少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以 克 使 令 (Kỳ hữu niên
thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn kỳ mệnh,
tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh).
(16)
Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Q. 2, Sđd; tờ 37b.
(17)
Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 29b. Nguyên văn: 敕 傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能 成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之 法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu
ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng
dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân
chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm quan cố sắc).
(18)
Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư,
Q. 2, Sđd; tờ 25b - 26a. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續 遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印 信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam
quan lại lai quy hàng giả, tức lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ,
cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử
trí, bất khả chấp nhất).
(19)
Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4
(21.8.1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17a. Nguyên văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。 委 之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng vấn cổ
thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân).
(20)
Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 9 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5
(1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 25b.
(21)
Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm 1427. Một viên
quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua Minh những lời
tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch, NXB
Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47.
(22)
“Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh
Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝 。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為 盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺 聖 欺 天 。無 倫 無 理 (... tự dĩ vi
đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp, Chu Công
Khổng Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi
phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý).
(23)
Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, xếp thứ tự ngay sau đạo
sắc đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406). Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 16a - 17b. Nguyên văn: 兵 入 。除 釋 道 經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其 境 內
中
國
所
立
碑
刻
則
存
之
。
但
是
安
南
所
立
者
悉
壞
之
。
一
字
不
存
(Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư
bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi
loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi
khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn).
(24)
Điều khoản bổ sung vào sắc chỉ đề ngày 21 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt
kiệu thư, Q. 2, tờ 33a. Nguyên văn: 屢 嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。 如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞 軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必 檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人 多 不 識 字 。 若 一 一 令 其 如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便 焚 毀 。 毋 得 存 留 (Lũ thường dụ
nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở
tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự cập
bỉ xứ tự lập bi khắc, kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn quân trung sở
đắc văn tự bất tức lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi.
Thả quân nhân đa bất thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền
đệ di thất giả đa. Nhĩ kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ
bỉ xứ sở hữu nhất ứng văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu).
(25)
Chỉ người Việt.
(26)
Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25.6.1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 32a. Nguyên văn: 今 安 南 已 平 [。 。 。] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶 去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來 。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ
bình [...] Trừ chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành
Quốc công lĩnh đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối,
mật phong kiểu lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện).
No comments:
Post a Comment