Hoàng
Nhất Phương
Posted on September 9, 2014 by editor
— 0 Comments
Trong trái tim của mỗi người mặc nhiên cưu mang tình
yêu quê hương – một tình yêu không thể nào cắt nghĩa được nhưng rất sâu đậm.
Khi còn thơ ấu, đọc qua những bài học lịch sử người dân Việt ai cũng xao xuyến
và hết sức ngưỡng mộ lòng yêu nước của tiền nhân.
Quê hương vụn vỡ. Nguồn: Viện Việt Học.
Từ đó quê hương giống hệt vòng tay của người mẹ ân
cần ôm ấp, che chở đàn con. Biên giới địa lý rào chắn chung quanh lãnh thổ
chính là gia đình chung, của những người sinh ra và lớn lên trong cùng một tổ
quốc. Chiến tranh bộc phát, quê hương bị du vào định mệnh khắc nghiệt. Chiến
tranh biến thị trấn, thôn trang thành vùng hỏa tuyến. Không thể kể hết những
phế tích mà chiến tranh để lại trong từng khu phố, từng quận lỵ, từng xóm làng.
Những nơi xưa kia là vùng định cư sầm uất, phồn thịnh, náo nhiệt, một sớm một
chiều bị bom đạn phá tan thành bình địa hoang vu. Sau chính biến ngày 30 tháng
4 năm1975, nhiều người dân Miền Nam Việt Nam dù không muốn cũng phải bỏ quê hương
ra đi. Vốn liếng tình cảm thiêng liêng của một đời người gửi gấm cho quê hương
tưởng như chỉ còn trong hoài niệm, bất ngờ hiện hiển trong tâm hồn khi nghe
tiếng chửi của bà hương giáo Hải, “ngọt như tiếng ca của mấy cô danh ca Ba
Bé, Tư Sạng trong đĩa hát Asia…”
“Cao cao chi tổ, viễn viễn chi tông, thúc bá đệ
huynh, cô nhi tỷ muội nhà bây ra nghe tao chửi thơ nè… ‘Tư bề yên lặng’. Sóng
bủa thuyền câu lướt dập, nhà xập bìm bìm leo, đéo mẹ tổ… chó đẻ nó cũng leo
theo…Tổ cha ông bà nó…chơi với khỉ, khỉ vỗ đít, chơi với con nít, con nít lờn
mặt, không bằng tuổi lẻ của tao mà bây bày đặt nói ra nói vô để gia đình tao
hục hặc xáo xào…”
“Mỗi lần bà Hương trổ tài là mỗi lần tôi và bàn dân thiên hạ ở đây khoái
chí tử: Vừa giải trí vừa đổi thay không khí nhàm chán của một nếp sống trầm
trầm – trong vùng đất nhỏ bằng bụm tay lọt giữa con sông rộng – kéo dài trước
đó. Sồn sồn người nhưng du dương giọng, bà Hương có tiếng chửi không khác mấy
tiếng hát ru em trưa nắng, mùi mẫn như bài ca dạ cổ hoài lang từ phu tướng lên
đường, đã điếu còn hơn nghe mấy con nhỏ xóm dưới kéo vuốt lên cao ngất, nhọn
lễu như kim chích nhè nhẹ, nhột nhột vô tim, lăn tăn tới từng sợi dây thần kinh
trên khắp cùng thân thể, mấy tiếng chót của một câu hò ruột. Nói có hơi quá,
nhưng còn khoái hơn nghe trai gái mèo mỡ đối đáp trửng giỡn lúc giã gạo đêm
trăng.” [1]
Cả một làng quê thoải mái cười khi nhắc đến tài chửi
đầy vần điệu của bà hương giáo Hải, của một thời sông nước bình an. Những địa
danh quen thuộc như Sài Gòn, Ông Tạ, Cầu Ông Lãnh, Mỹ Tho, Tây Ninh, Bến
Tre…Những nhân vật bình dân như bà hương giáo Hải, thằng Quang, con Nhàn, con
Bông, anh Bảy Nhành, Tư Chịu, Út chột, thằng Đẹt, thằng Hai Biệt Động Quân,
thằng Ba du kích, con Út vượt biên…Những hình ảnh quen thuộc như chiếc xe thổ
mộ, những người lính Việt Nam Cộng Hòa, những người thương phế binh điển hình
là chú Tư Cụt, những tay anh chị như i>“thằng Tư mặt thẹo” – một kẻ bắt chó
chuyên nghiệp từng tuyên bố “mỗi ngày phải đập đầu chừng một chục con thì
uống rượu mới ngon…” [2] Tất cả đều được mô tả trong tuyển tập “Quê Hương
Vụn Vỡ”, làm sống dậy khung cảnh của xã hội Việt Nam trước và sau năm 1975. Ai
cũng biết trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, người dân lao động Miền Nam Việt Nam
sống đạm bạc, tuy không giàu sang nhưng có đủ ngày ba bữa ăn. Sau năm 1975
chính thể và hoàn cảnh đất nước thay đổi, một số người dân phải bỏ xứ sở ra đi,
trong đó có những quân nhân những công chức bị chế độ mới bỏ ra ngoài “biên
chế”, dòm ngó kiểm soát gắt gao. Những người còn lại là sĩ quan hay công chức cao
cấp của Việt Nam Cộng Hòa phải đi học tập, bị đối xử nghiệt ngã, bất công;
nhiều người đã chết trong những trại giam của chế độ cộng sản. Dân chúng ở
thành thị cũng như thôn quê đều khốn khó vì những lần đánh tư sản, đổi tiền,
trưng thu nhà đất khốc liệt; nhiều người bị bắt giam vì can tội làm dân oan
khiếu kiện, rồi chết vì kiệt sức.
Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm sinh năm 1940 tại Sài Gòn.
Ông từng giảng dạy tại các trường Nguyễn Đình Chiểu – Mỹ Tho, Petrus Trương
Vĩnh Ký, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, và các trường Đại Học Vạn Hạnh; Đại Học Cao
Đài; Đại Học Hòa Hảo, Cần Thơ. Ông định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1979, vẫn sống
bằng nghề dạy học, cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học và các tạp chí Việt
Ngữ của người Việt hải ngoại. Trước năm 1975 ông chuyên viết về biên khảo văn
học. Các tác phẩm đã in “Văn Học Nam Hà [1971-1973], Văn Chương Tranh Đấu
Miền Nam [1969], Văn Chương Nam Bộ và Cuộc Kháng Pháp [1972].” Sách in tại Hoa
Kỳ “Câu Hò Vân Tiên [1985], Ngày Tháng Bồng Bềnh [1987], Khói Sóng Trên Sông
[2000]…” Những năm sau này Giáo sư Nguyễn Văn Sâm chuyên nghiên cứu các
tuồng hát bộ, truyện thơ viết bằng Chữ Nôm chưa từng được phiên âm – nguyên bản
hiện còn đang nằm trong các thư viện lớn tại Châu Âu, như: “Tam Quốc Diễn
Nghĩa, Lôi Phong Tháp, Sơn Hậu Diễn Truyện, Trương Ngáo”, v.v.. Giáo Sư
Nguyễn Văn Sâm là thành viên Ban Biên Tập Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, Trưởng Ban
Văn Chương của Viện Viện Học ở Nam California, USA.
Tuyển tập “Quê Hương Vụn Vỡ” của Giáo sư
Nguyễn Văn Sâm gồm 20 truyện ngắn viết theo thể loại hồi ký, do Viện Việt Học
phát hành năm 2012 với chủ đề quê hương và dân tộc, dẫn đưa độc giả trở về thời
quá khứ của Miền Nam Việt Nam bằng những câu chuyện vẫn còn ghi đậm dấu ấn
trong tâm hồn tác giả. Hình ảnh những ngôi chùa thời thơ ấu, kỷ niệm về “cái
cốc của sư bác”, lời giảng dạy hành phải đi đôi với hạnh nguyện Bồ Tát; âm vang
của làn điệu “nói thơ ca vè”; tiếng rao bán chó, tiếng chửi thề trong khu xóm
lao động…, được mô tả bằng nghệ thuật tả chân với giọng văn đặc sệt “miệt vườn”
của người lục tỉnh. Câu chữ tự nhiên, nhiều chỗ sai chánh tả vì ghi lại theo
lối phát âm của các nhân vật, càng khiến tình tiết của từng câu chuyện thêm
chân thực, sinh động. Chẳng hạn như đoạn mô tả lò làm bánh tráng sau đây:
“Đi qua một lò làm bánh tráng, làm bún mùi chua nồng vậy mà còn dễ thở
hơn đi ngang qua chỗ làm lạp xưởng, hay làm đồ lòng, ở đây ruồi vô số và mùi
thịt thúi bay dính vô quần áo đi xa cả cây số mùi vẫn còn phưởng phất, ác nhứt
là mùi thứ nước màu đỏ đỏ họ dùng để tẩm ướp thịt, nghe như mùi sơn ở cái trại
hòm, làm mình liên tưởng đến mùi người chết để qua ngày hòm bị xì. Đi qua chỗ
làm nước tương thì còn ghê hơn, thùng bọng chất tràn đầy ra tới sân, chất đen
ngòm đó được sang qua sớt lại, được vô chai vô thùng, thường là không bao giờ
được rửa cẩn thận hay khử trùng, tẩy uế, giòi bọ đầy đất.” [2]
Chợ nổi Cái Bè, Nguồn: www.nhommua.com
Đọc xong rồi độc giả vừa thích thú vừa sợ hãi, như
tận mắt chứng kiến cảnh tượng “ghê rợn” nói trên. Cách viết-như-nói và sử dụng
những thuật ngữ địa phương “một lúc hèn lâu, phủi đít cái rẹt, độ chừng ăn dập
bã trầu, dằn ba hột cơm chiên hồi tưng bửng sáng, quơ đại quơ đùa”, hay những
hình ảnh “ông bà già cúp bình thiếc, tô cơm bự chảng, quẹt mỏ, lỗ mũi ăn trầu
cái đầu xỉa thuốc”, càng làm nổi bật tâm tánh và sinh hoạt đời thường của người
Miền Nam. Những từ láy như “bự xộn, lẽo lự, tòn ten, kẽo kẹt, lu lú, xa lơ xa
lắc, lạ lạ, hay hay, xứ lai xứ đế”, v.v., trở thành tiếng nhạc đồng quê ngân
dài trong “Quê Hương Vụn Vỡ”.
Bên cạnh những hồi ức về đất cũ người xưa, “Quê
Hương Vụn Vỡ” còn là khúc ca thương cảm của một người cao niên, nhận biết
nỗi buồn tha hương của bản thân khi đứng trên bến bờ hiu quạnh, khi chứng kiến
cái chết của người thân, của bằng hữu tại đất khách quê người, khi thấy rõ
những mê lầm, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo, đã làm hại đời của người ta.
Tác giả cũng vạch ra chuyện tranh chấp vùng lãnh hải ở Biển Đông, đã tạo thành
“những hố chưn voi” chia cắt người Hoa và người Việt – những người từng chung
sống nhiều đời. Tất cả những điều ấy đã vụn vỡ tan nát, hay chỉ là những mảnh
loang lổ dấu đạn bom còn sót lại ở quê nhà, trong tâm hồn của tác giả và của
người đọc. Nhưng cho dẫu đã lỡ mòn và tan nát, tình yêu quê hương luôn thường
trú trong ký ức của những người xa quê, nhất là khi họ sống ở hải ngoại, hằng
ngày phải dùng một ngôn ngữ khác để giao tiếp, không phải là “tiếng nước tôi
tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi, thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, Nước ơi!”
[3]
Hoàng
Nhất Phương
5:57 am Thứ Bảy ngày 21 tháng 6 năm 2014
Nguồn:
Điểm sách “Quê Hương Vụn Vỡ” của Nguyễn Văn Sâm. Hoàng Nhất
Phương. Blog Nam Kỳ Lục Tỉnh.
[1]. Trích từ truyện ngắn “Như Nước Trong Nguồn.”
[2]. Trích từ truyện ngắn “Người Đổi Chó.”
[3]. “Tình Ca” của nhạc sĩ Phạm Duy
[2]. Trích từ truyện ngắn “Người Đổi Chó.”
[3]. “Tình Ca” của nhạc sĩ Phạm Duy
No comments:
Post a Comment