Thứ
Ba, 6 tháng 3, 2018
Khi
nghe tin hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson vào Đà Nẵng tháng
Ba, 2018, tôi tự hỏi: tại sao không phải Cam Ranh mà là Đà Nẵng, và tại sao lại
tháng Ba?
Nhìn
lại lịch sử thì ta thấy cái địa danh Đà Nẵng hay gắn liền với những bước ngoặt
của chiến lược Mỹ tại Biển Đông.
Mà
kể cũng lạ, những bước ngoặt ấy lại có một sự trùng hợp: đó là nó thường hay xảy
ra vào tháng Ba:
·
Tháng
Ba, 1965 sau bao nhiêu thẩm định, cân nhắc, Washington đi tới quyết định đưa
quân tác chiến vào Việt Nam. Đà Nẵng được chọn làm nơi để bắt đầu. Quyết định
này phản ảnh một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến
lược từ chiến tranh du kích, chống nổi dậy tới chiến tranh quy ước.
·
Tháng
Ba, 1973: sau Hiệp định Paris, lễ chính thức hạ cờ Mỹ để kết thúc vai trò của
quân đội tác chiến tại Việt Nam lại được tổ chức tại sân bay Đà Nẵng.
·
Tháng
Ba, 1975: Tòa Lãnh Sự Mỹ - bộ phận dân sự còn lại của Mỹ - đóng cửa hoàn toàn
và rút đi trên con tầu cuối cùng rời cảng Đà Nẵng.
Bây
giờ - tháng Ba, 2018 – siêu hàng không mẫu hạm cập cảng Đà Nẵng. Liệu nó có
đánh dấu một bước ngoặt khác hay không?
Trước
hết ta nhìn lại những mốc lịch sử của Đà Nẵng liên hệ tới chiến lược của Mỹ:
Tháng
Ba, 1965: đổ bộ Đà Nẵng
Sau khi TT John F. Kennedy bị sát hại vào tháng 11, 1963,
Phó TT Lyndon B. Johnson lên kế vị. Tuy có lập trường cứng rắn về Việt Nam, ông
cố gắng kìm hãm, không leo thang cuộc chiến vì đã đặt ra mục tiêu ưu tiên cho
chính quyền ông là War on Poverty– chiến đấu để khắc phục sự nghèo
khó của lớp người thiểu số ở Mỹ.
Cuối năm 1964, dù sau khi đã đại thắng trong cuộc bầu cử
tổng thống vào tháng 11, nhiều người khuyên ông nên có hành động mạnh ở Việt
Nam nhưng ông vẫn tiếp tục tự chế.
Nhưng rồi biến cố Pleiku đã thay đổi hẳn
lập trường của ông. Cuộc tấn công vào doanh trại cố vấn Mỹ tại Pleiku
và căn cứ trực thăng Holloway (cách đó khoảng bốn dặm) vào
lúc 2:00 giờ sáng ngày 7 tháng 2, 1965 đã gây nên thiệt hại lớn : trong số
137 quân nhân Mỹ ở căn cứ này thì 9 người bị tử thương và 76 người bị trọng
thương. Những tổn thất về thiết bị cũng rất nặng nề: 16 trực thăng và 6 máy bay
các loại khác bị hư hại. Đó là cuộc tấn công lớn nhất vào các cơ sở của Mỹ tại
miền Nam Việt Nam cho tới thời gian đó.
Nó đã đưa tới một quyết định mau lẹ của Tổng thống
Johnson để trả đũa. Ông nhóm họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và nói:
“Tôi
đã gác khẩu súng ở phía trên lò sưởi và cất đạn ở dưới hầm nhà từ lâu rồi,
nhưng địch quân đang giết hại người của ta... Hèn nhát đã đưa chúng ta vào nhiều
cuộc chiến hơn là trả đũa: nếu như Hoa kỳ đã mạnh dạn hơn ngay từ đầu thì đã
tránh được Thế Chiến I và II.”
Sau
đó ông cho khởi động chiến dịch Rolling Thunder: từng lớp máy bay
khu trục bay xuyên qua những đám mây dầy đặc tới oanh tạc các doanh
trại Bắc Việt cách Vĩ tuyến 17 khoảng 40 dặm về phía bắc tại Đồng Hới. Việc trả
đũa này đã bắt đầu một chiến dịch oanh tạc kéo dài với Linebacker I và
Linebacker II.
Đưa
nhiều máy bay oanh tạc vào tham gia cuộc chiến thì phải bảo vệ phi trường Đà Nẵng
và khu vực chung quanh phi trường để tránh bị pháo kích như ở Pleiku. Vì vậy
Washington tính đến việc mang quân vào để đáp ứng.
Nhưng
nếu mang quân tác chiến vào thì vi phạm Hiệp định Geneve và có khả năng là chiến tranh sẽ leo thang.
Bàn đi bàn lại thật kỹ nhưng rồi Washington đi tới kết luận
phải chấp nhận mọi rủi ro.
Ngày
23 tháng 2 năm 1965, tại Sài Gòn, Tướng Westmoreland đề nghị với Tư lệnh Thái
Bình Dương và Bộ Tổng Tham Mưu:
“Đưa
một Lữ đoàn Viễn chinh Thủy Quân Lục Chiến MEB (Marine Expeditianory Brigade) để
giữ an ninh cho Đà Nẵng. Việc đưa quân vào tiếp theo sẽ được triển khai theo từng
giai đoạn, tùy thuộc vào sự đồng ý của thượng cấp trên căn bản chính trị. Đại sứ
Taylor cũng sẽ đề nghị đưa một đội Tiểu Đoàn Đổ Bộ BLT (Battalion Landing Team)
vào Đà Nẵng ngay.”
Ngày
26 tháng 2 năm 1965, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Sứ quán tại Việt Nam:
“Thượng
cấp đã có quyết định tiến hành đổ bộ cùng một lúc một đơn vị MEB, một đơn vị
BLT, và một phi đội trực thăng... rồi sẽ thêm BLT thứ hai, tất cả đều trong Khu
vực Đà Nẵng ...”
Ngày
8 tháng Ba, bốn con tầu USS Henrico, Union, and Vancouver đưa một lữ đoàn
3,500 TQLC vào đổ bộ ở bãi biển “Red Beach.”
Hành
động này là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược
từ trợ giúp, cố vấn trong chiến tranh du kích, chống nổi dậy
(counterinsurgency) tới chiến lược đem đại quân tác chiến (combat troops), tham
gia trực tiếp vào cuộc chiến.
Lữ
đoàn TQLC Viễn chinh Số 9 đã là đội tiền phong dẫn đường cho trên một nửa triệu
quân nhân Mỹ vào Việt Nam.
Tháng
Ba, 1973: rút khỏi Đà Nẵng
Theo
Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1, 1973 thì Mỹ phải đơn phương rút khỏi Miền
Nam.
Điều
5 quy định:
“Nội
trong 60 ngày sau khi bản Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự,
và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội... phải được hoàn toàn triệt thoái
khỏi miền Nam Việt Nam...” Vì Hiệp định được ký ngày 27 tháng 1 cho nên ngày 27
tháng Ba là hạn chót của việc rút quân. Vào thời điểm ấy thì một số quân đội Mỹ
còn đóng ở Đà Nẵng.
Điều
6 của Hiệp định quy định thêm: “ Các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam
của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Một, phải được giải tỏa trong hạn
60 ngày, sau khi Hiệp định được ký kết.” Đà Nẵng là căn cứ không quân quan trọng
nhất yểm trợ hai Quân Khu I và II. Nó đã được chọn để tổ chức một nghi lễ biểu
tượng quan trọng: lễ hạ lá cờ Mỹ và mang đi, đánh dấu việc chấm dứt sự có mặt của
quân đội tác chiếnMỹ tại Miền Nam.
Lễ
nghi được diễn ra rất trang trọng với sự hiện diện của Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng. Việc “Cuốn Cờ” (Flag Folding) đã theo đúng thủ tục gồm năm bước, bắt đầu
bằng việc trải lá cờ ra cho thật thẳng và gấp lại theo chiều dài lần thứ nhất
(độc giả vào mạng xem để tìm hiểu thủ tục cầu kỳ và đầy ý nghĩa này).
Tháng
Ba, 1975: Lãnh sự cuối cùng rời Đà Nẵng
Tuần
lễ cuối tháng Ba, sau khi có tới gần một triệu người dân từ Huế, Quảng Trị và
vùng lân cận di tản đổ dồn và tràn đầy Đà Nẵng, thành phố này bị tràn ngập và hỗn
loạn trước sự tiến quân của quân đội Bắc Việt. Tình hình an ninh trở nên tuyệt
vọng.
Mỹ
điều động hai con tầu Pioneer Contender và Miller tới hải cảng Đà Nẵng để giúp
di tản những nhân viên Mỹ làm ở Tòa Lãnh sự với hàng trăm ngàn người Việt.
Ngoài số tầu biển còn có chiếc máy bay Boeing 727 của hãng hàng không Air
America đã hạ rồi cất cánh trong cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.
Sau
cùng thì viên lãnh sự Mỹ, ông Al Francis đã ra đi bằng đường biển.
Sự
tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam đến đây đã chấm dứt hoàn toàn.
Tháng
Ba, 2018: hàng không mẫu hạm vào Đà Nẵng
Mỹ
đi rồi Mỹ lại về... vào Đà Nẵng?
Lich
sử sẽ ghi nhận sự kiện này thế nào?
Ta
có thể tạm thời nhận xét như sau:
Thứ
nhất, về
chiến lược ở Biển Đông : Mỹ đang xúc tiến cho thật nhanh diễn tiến ‘Xoay
Trục.’ Như chúng tôi đã đề cập trong cuốn ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’: hoàn
cảnh lịch sử hiện nay hết sức khó khăn. Nó khác hẳn với hoàn cảnh trong những
thập niên 60 và 70. Trong hai thập niên ấy, chiến lược của Mỹ là “ngăn chận
Trung Quốc,” còn bây giờ là phải “trực diện đối đầu với Trung Quốc.”
Từ
khi Mỹ rút khỏi Đài Loan, rồi mặc kệ, không giúp Miền Nam Việt Nam trong việc bảo
vệ Hoàng Sa chống Trung Quốc, và sau đó là bỏ rơi Miền Nam, TQ hết bị ngăn chận
nên đã thực sự tràn xuống Biển Đông và đang thâu tóm trọn vẹn khu vực này, tiến
trình theo đúng như thuyết Đôminô.
Nhưng
Xoay Trục khó có thể hoàn thành mau lẹ và thành công nếu không có sự cộng tác của
Việt Nam, vì đây là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như
Bộ Quốc Phòng Mỹ đã xác định ngay từ đầu thập niên 50 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy
Vào,’ Chương 2).
Vì
vậy Mỹ muốn thúc đẩy hợp tác quân sự chặt chẽ hơn đối với Việt Nam.
Thông
cáo chung về chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump tháng 11, 2017 xác định
hai điểm:
·
Hai
bên “khẳng định kế hoạch hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ trong giai
đoạn 2018-2020.” Ta thấy giai đoạn 2018-2020 là trùng hợp với
khung thời gian Mỹ đặt ra cho mục tiêu hoàn thành bước đầu của chiến lược
Xoay Trục khi 60% của hải lực Mỹ sẽ có mặt ở Thái Bình Dương.
·
Hai
bên “hoan nghênh hàng không mẫu hạm Mỹ lần đầu tiên tới
thăm một hải cảng của Việt Nam trong năm 2018.”
Lưu
ý độc giả một điểm có ý nghĩa: cho tới nay, chúng tôi thấy tất cả truyền thông
quốc tế đều loan tin sai lầm rằng “đây là hàng không mẫu hạm đầu tiên cập bến
Việt Nam kể từ năm 1975” hay “kể từ sau cuộc chiến,” hay “kể từ khi chiến tranh
kết thúc cách đây hơn 40 năm.”
Không
đúng, đây là lần đầu tiên kể từ trước tới nay. Trong Chiến
tranh Việt Nam, nhiều hàng không mẫu hạm Mỹ như USS Constellation, Hancock,
Ticonderoga có tham chiến, nhưng chỉ đậu ở Subic Bay (Phi Luật Tân), Yokosuka
(Nhật Bản) hay thả neo ở ngoài khơi, chưa bao giờ vào Đà Nẵng (hay Cam Ranh).
Năm 1964 chỉ có một hàng không mẫu hạm USS Card chở quân
trang, quân cụ và thiết bị vào Sài Gòn (và bị đánh bom). Nhưng tầu này nhỏ, thuộc
vào loại hộ tống Bogue, cũ kĩ vì sản xuất từ năm 1941.
Đưa
nhiều hàng không mẫu hạm, chiến hạm vào Biển Đông thì cần phải có cơ sơ hỗ trợ
từ đất liền – hải cảng, sân bay, bảo trì, tiếp vận xăng nhớt, thực phẩm, tiện
nghi. Những cơ sở ấy thì thực tế nhất, tiện lợi nhất là vùng duyên hải của Việt
Nam – đặc biệt là Cam Ranh và Đà Nẵng. Đây là hai nơi mà Mỹ đã xây cất, xử dụng
trong nhiều năm nên đã quá quen thuộc.
Nhưng
tại sao Mỹ không đưa hàng không mẫu hạm vào Cam Ranh có vịnh nước sâu mà lại
đem vào Đà Nẵng? Về phương diện logistic, tầu Carl Vinson quá lớn, khó mà thả
neo ở Hải cảng Quốc Tế Cam Ranh.
Lại
nữa, có thể vì lý do Thành phố Đà Nẵng có giá trị tượng trưng cho vai trò
của người Mỹ ở Việt Nam trước đây - qua các biến cố như đã đề cập. Ngoài ra,
còn có khả năng là sẽ có đông dân chúng Việt Nam chào đón USS Carl Vinson, giống
như thời xưa (1965) có các thiếu nữ ra bãi biển choàng hoa lên cổ các chiến sĩ
thuỷ quân lục chiến Mỹ, hay gần đây nhiều người Việt leo lên chiến hạm Mỹ do hạm
trưởng người Mỹ gốc Việt lái tới Đà Nẵng, hoan hỉ đón tiếp.
Và
như vậy là để nêu cao sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc thăm viếng hữu
nghị này?
Xác định xong về cuộc viếng thăm là có hành động cụ thể ngay: tại Hà Nội ngày 25 tháng 1, Bộ trưởng Quốc Phòng Jim Mattis đã chính thức tuyên bố là sự việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba.
Trong mấy năm vừa qua, đã có tầu ngầm và chiến hạm Mỹ ra vào Cam Ranh, nhưng đây là lần đầu tiên một Hàng Không Mẫu Hạm tiến vào hải phận và cập cảng Đà Nẵng.
Thứ hai, phô trương lực lượng: hàng không mẫu hạm là tiêu biểu cho sức mạnh hải và không lực Mỹ. Nó được gọi là một “không quân nhỏ” (small air force) lưu động.
USS Carl Vinson thuộc loại “Nemitz,” một siêu mẫu hạm loại mới (2009), chạy bằng nguyên tử. Nó chính là tầu chỉ huy của Đội Mẫu Hạm Tấn Công Số I (Carrier Strike Group 1) mới thành lập, có trụ sở tại San Diego. Đây là một phần của Đệ Tam Hạm Đội, mạnh mẽ nhất thế giới, thường thả neo ở các đại dương khác chứ không phải ở Thái Bình Dương (trách nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội). Tầu này thực sự chứa những khí giới gì ngoài những phi đội khu trục thì còn là một bí mật quân sự - nhưng có thể Trung Quốc cũng đã biết.
Hiện tại tất cả thế giới chỉ có 19 hàng không mẫu hạm đang hoạt động (và 6 cái đang được sản xuất). Trong số 19 tàu này thì Mỹ đã chiếm tới 10 cái, tức là hơn một nửa. Số còn lại thì hầu hết thuộc các nước đồng minh của Mỹ như Anh Quốc (4 cái), Pháp (2), Ý (1). Nước Nga chỉ có một cái còn đang hoạt động là Admiral Kuznetsov. Nga có 4 cái khác nữa nhưng thuộc vào loại Kiev (như Minks, Novorossiysk): tất cả đều đã “về hưu."
Như vậy, nếu số mẫu hạm của Mỹ cộng với của các đồng minh thì hải lực tổng hợp này thực sự bá chủ cả bốn đại dương.
Thứ ba, gửi tín hiệu cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã lên hàng cường quốc, nhưng về mặt hải lực thì còn rất yếu kém. Đó là vì chỉ mới có được một con tầu cũ tên là Varyag mua lại của Ukraine năm 1998 rồi đưa về tân trang tại xưởng đóng tầu Đại Liên (Dalian) ở đông bắc TQ, đổi tên là Liêu Ninh. Tầu được đưa vào hoạt động năm 2012, mục đích là để tập luyện.
Xác định xong về cuộc viếng thăm là có hành động cụ thể ngay: tại Hà Nội ngày 25 tháng 1, Bộ trưởng Quốc Phòng Jim Mattis đã chính thức tuyên bố là sự việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba.
Trong mấy năm vừa qua, đã có tầu ngầm và chiến hạm Mỹ ra vào Cam Ranh, nhưng đây là lần đầu tiên một Hàng Không Mẫu Hạm tiến vào hải phận và cập cảng Đà Nẵng.
Thứ hai, phô trương lực lượng: hàng không mẫu hạm là tiêu biểu cho sức mạnh hải và không lực Mỹ. Nó được gọi là một “không quân nhỏ” (small air force) lưu động.
USS Carl Vinson thuộc loại “Nemitz,” một siêu mẫu hạm loại mới (2009), chạy bằng nguyên tử. Nó chính là tầu chỉ huy của Đội Mẫu Hạm Tấn Công Số I (Carrier Strike Group 1) mới thành lập, có trụ sở tại San Diego. Đây là một phần của Đệ Tam Hạm Đội, mạnh mẽ nhất thế giới, thường thả neo ở các đại dương khác chứ không phải ở Thái Bình Dương (trách nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội). Tầu này thực sự chứa những khí giới gì ngoài những phi đội khu trục thì còn là một bí mật quân sự - nhưng có thể Trung Quốc cũng đã biết.
Hiện tại tất cả thế giới chỉ có 19 hàng không mẫu hạm đang hoạt động (và 6 cái đang được sản xuất). Trong số 19 tàu này thì Mỹ đã chiếm tới 10 cái, tức là hơn một nửa. Số còn lại thì hầu hết thuộc các nước đồng minh của Mỹ như Anh Quốc (4 cái), Pháp (2), Ý (1). Nước Nga chỉ có một cái còn đang hoạt động là Admiral Kuznetsov. Nga có 4 cái khác nữa nhưng thuộc vào loại Kiev (như Minks, Novorossiysk): tất cả đều đã “về hưu."
Như vậy, nếu số mẫu hạm của Mỹ cộng với của các đồng minh thì hải lực tổng hợp này thực sự bá chủ cả bốn đại dương.
Thứ ba, gửi tín hiệu cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã lên hàng cường quốc, nhưng về mặt hải lực thì còn rất yếu kém. Đó là vì chỉ mới có được một con tầu cũ tên là Varyag mua lại của Ukraine năm 1998 rồi đưa về tân trang tại xưởng đóng tầu Đại Liên (Dalian) ở đông bắc TQ, đổi tên là Liêu Ninh. Tầu được đưa vào hoạt động năm 2012, mục đích là để tập luyện.
Hè
1974 chúng tôi có dịp thăm viếng Trung Tâm Hành Quân của Đệ Thất Hạm Đội ở
Honolulu và được chỉ dẫn về các hoạt động chính yếu của một hàng không mẫu hạm.
Các chuyên gia cho thấy: việc điều khiển một hàng không mẫu hạm trên đại dương,
nhất là giữa một cuộc chiến là hết sức phức tạp, nó đòi hỏi
nhiều kỹ năng và kinh nghiệm. Nguyên công tác “roping” (buộc giây, thả neo) đã
rất phức tạp. Rồi đến việc điều khiển từng lớp khu trục cất cánh, hạ cánh, đến
công tác phòng không, chống tầu ngầm, điều hợp với các tầu hộ tống, với trung
tâm hành quân và các lực lượng hỗ trợ từ trên bờ.
Ngoài
số lượng, TQ chưa bao giờ có kinh nghiệm về hải chiến lớn chứ
chưa cần nói tới hàng không mẫu hạm. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953),
khi đoàn quân của Tướng Mỹ Douglas MacArthur từ ngoài khơi đổ bộ vào hải cảng
chiến lược Inchon (phía tây của Nam Hàn, khoảng 100 dặm về phía nam vĩ tuyến 38
và 25 dặm từ Seoul) vào ngày 15/9/1950, quân đội TQ và Bắc Hàn phải vội vã cuốn
gói rút về qua vĩ tuyến 38.
Tới
Trận Hoàng Sa: tuy là nhỏ mà TQ cũng đã bị Hải Quân VNCH gây tổn thất nặng nề.
Ngược lại, Mỹ thì đã có kinh nghiệm về đại hải chiến và xử dụng hàng
không mẫu hạm từ cả một thế kỷ: trong Đệ Nhất, rồi Đệ Nhị Thế Chiến, tới
chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, và ngày nay, chiến tranh vùng
Trung Đông. TQ có nhiều tiền, có thể mua tất cả những khí giới tối tân trên thế
giới này nhưng không thể nào mua được một thế kỷ kinh nghiệm về đại hải chiến.
Mở
ra một chương lịch sử mới?
Như
chúng tôi đã có dịp đề cập trước đây, trong chuyến công du tại Hà Nội năm 2016,
TT Barrack Obama đã gợi ý về trang sử mới này khi ông trích Nguyễn Du
trong truyện Kiều:
"Rằng
trăm năm cũng từ đây.
Của
tin gọi một chút này làm ghi"
Tiếp
theo, TT Trump đã đi thẳng vào vấn đề và phát biểu “Chúng ta đã gắn kết
dần với nhau để tìm được những mục tiêu chung, những lợi
ích chung. Và đó là điều đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để tái
khẳng định những gắn kết đó.”
Thông
cáo chung cũng xác định việc“mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa
hai nước trên cơ sở ...các lợi ích chung và mong muốn chung.”
Tại
Hà Nội ngày 25 tháng 1 vừa qua, Bộ trưởng QP Jim Mattis đã cám ơn Việt Nam về sự
phát triển của quan hệ đối tác ấy, qua việc hàng không mẫu hạm
tới Đà Nẵng (nguyên văn: “Thank you for increasing partnership, with our
aircraft carrier coming into Danang here in March” ).
Thứ
tư,
tác động vào đồng minh: qua hành động này, Mỹ cũng muốn gián tiếp trấn an các
quốc gia đồng minh tại Á Châu . Họ đang lo ngại về quyết tâm của Mỹ. Lại nữa,
cho tới nay chính sách ngoại giao của TT Trump chưa rõ ràng về Biển Đông. Bây
giờ, với việc tầu USS Carl Vinson cập bến Đà Nẵng - lần đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam (nhắc lại, lần đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam chứ không phải từ khi cuộc chiến kết thúc năm 1975 như truyền thông thế giới
đã loan tin) - bất chấp sự phản đối của TQ, đồng minh Á Châu sẽ thấy – từng bước
một - chính quyền Trump có lập trường bảo vệ Biển Đông - bằng hành động -
và cứng rắn hơn thời TT Obama nhiều.
Đã
không phải là ngẫu nhiên mà TT Trump lại tăng thuế mạnh tới 25% vào nhập cảng
thép (phần lớn là từ TQ) cùng một thời điểm với sự có mặt của siêu hàng không mẫu
hạm ở Đà Nẵng - ngay sát Hoàng Sa và chỉ cách căn cứ hải quân lớn của TQ trên
400 km.
Thứ
năm: lợi
ích chiến thuật:
đó là để chính thế hệ trẻ của hải quân Mỹ - những quân nhân mới vào cuộc sau
chiến tranh Việt Nam, gồm cả trên hai lữ đoàn trên USS Carl Vinson có dịp làm
quen với bãi biển, hải cảng và sân bay Đà Nẵng.
Cách
đây 6 năm, khi thấy Mỹ trực tiếp giúp Việt Nam dọn dẹp, làm sạch chất độc da
cam tại sân bay Đà Nẵng vào mùa hè 2012 (mà không phải trên dẫy Trường Sơn),
chúng tôi cho rằng Mỹ khó mà quên được cái địa danh Đà Nẵng.
Rõ
ràng là bang giao mang tính chiến lược và tiến tới toàn diện Việt - Mỹ đã đi được
một bước đáng ghi nhận.
Tuy
nhiên, bước ấy dài hay ngắn thì còn tùy thuộc vào việc có hay không những hành
động có thực chất tiếp theo. Cụ thể, ta có để đặt câu hỏi liệu sẽ có những cuộc
tập trận giả, thao diễn quân sự Việt - Mỹ có tầm cỡ lớn với sự tham gia của Hải
Đội Tấn Công USS Carl Vinson trong năm 2018 hay không?
Thay
lời cuối: hôm
nay, ngày 6/3/1018 thấy trên mạng chiếu cảnh người dân Đà Nẵng bắt nhịp với ban
nhạc Hạm Đội 7 hát bài “Nối VòngTay Lớn” tôi không thể không
nghĩ tới khả năng rằng: biết đâu biết đâu đấy, một trang sử mới của bang giao
Việt-Mỹ đã thực sự bắt đầu - như cựu TT Obama đã có dịp gợi ý: “Rằng trăm
năm cũng từ đây?”
Muốn
cho chương lịch sử này kéo dài và bền vững thì nó phải dựa trên căn bản dài lâu
và vững chắc.
Căn
bản ấy chính là quyền lợi hỗ tương của cả hai nước: chống lại tham vọng chiếm
trọn Biển Đông của Trung Quốc và bảo vệ tuyến hàng hải vào hàng quan trọng nhất
thế giới ($3,000 tỷ lưu thông mỗi ngày) – hai mục tiêu hoàn toàn là tự vệ chứ
không phải khiêu khích hay tấn công. Tuyến hàng hải này nằm chỉ cách vùng duyên
hải của Việt Nam 12 hải lý.
Việt
Nam, lại một lần nữa có cơ hội đóng vai trò địa chính trị chiến lược trên thế
giới, nhờ vào vị trí nhìn ra Biển Đông của Đà Nẵng./
----------------
Phụ
Lục
Thủy thủ Mỹ Emily
Kershaw hát "Nối vòng tay lớn" tại Đà Nẵng
Tối
ngày 5-3-2018, các thủy thủ thuộc ban nhạc Hạm đội 7 có buổi biểu diễn ngoài trời
ngay đầu cầu Rồng, thành phố Đà Nẵng và được nhiều người dân hoan nghênh.
Nữ
ca sĩ của ban nhạc này còn trình bày nhạc phẩm "Nối vòng tay lớn" của
cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát này từng gây bất ngờ vào tháng 4-2017, khi Cục
Nghệ thuật Biểu diễn cho hay bài hát của cố nhạc sĩ sáng tác trước năm 1975
chưa được cấp phép.
(theo
RFA)
---------------------------------
LIÊN QUAN
Thứ
Ba, 6 tháng 3, 2018
Trưa
Thứ Hai, giờ Việt Nam, hải đội Hàng Không Mẫu Hạm Tấn Công số 1 (Carrier Strike
Group 1) của Hải Quân Mỹ gồm hàng không mẫu hạm Carl Vinson (CVN-70), tuần
dương hạm USS Lake Champlain (CG-57) và khu trục hạm USS Wayne E. Meyer (DDG
108) đã vào vịnh Đà Nẵng khởi đầu chuyến thăm Việt Nam 4 ngày.
Các
chiến hạm Mỹ nhỏ hơn đã nhiều lần đến Việt Nam trước cũng như sau 1975 nhưng
đây là lần đầu tiên, một hàng không mẫu hạm chủ lực của Hải Quân Mỹ vào bến Việt
Nam.
Tháng
Năm, năm 1964, ba tháng trước khi xảy ra biến cố Vịnh Bắc Bộ mở đầu các chiến dịch
oanh tạc của máy bay Mỹ ở Việt Nam, chiếc hàng không mẫu hạm nhỏ USS Card
(CVE-11) chỉ được dùng như một tàu vận tải đã vào cảng Sài Gòn chở máy bay và
trực thăng đến cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi bị người nhái Việt Cộng
đặt chất nổ đánh chìm xuống sông Sài Gòn, tàu Card được trục lên kéo qua
Philippines và Nhật sửa chữa để sử dụng trở lại.
Từ
1964 đến 1975, hơn 20 hàng không mẫu hạm được luân phiên điều phái đến thi hành
nhiệm vụ ở Việt Nam chỉ hoạt động ngoài khơi cách bở biển khoảng 100 hải lý, tại
hai khu vực Yankee Station ngang Đồng Hới và Dixie Station ngang Bình Thuận,
không bao giờ vào cảng.
Hơn
40 năm sau, hàng không mẫu hạm Carl Vinson bây giờ đến Việt Nam bằng một chuyến
thăm viếng hữu nghị, tuy nhiên không đơn giản là một chuyến thăm viếng ngoại
giao bình thường của chiến hạm hải quân đến các cảng nước ngoài.
Điểm
đáng chú ý ở chỗ Mỹ và Cộng Sản Việt Nam đã là cựu thù, đến nay mau chóng trở
thành đối tác do có những lợi ích và mối quan tâm chung trước ý đồ bành trướng
của Trung Quốc.
Cọng
Sản Việt Nam chưa thể là đồng minh của Mỹ theo đúng nghĩa, không phải vì hận
thù quá khứ mà vì vị thế địa lý chính trị của mình. Nằm sát bên một nước có uy
lực kinh tế và sức mạnh quân sự quá lớn, Việt Nam phải tìm cách tránh tổn hại
chắc chắn do xung đột, trong khi cố bảo vệ được chủ quyền và độc lập của mình bằng
đường lối ngoại giao khôn ngoan cân xứng với tất cả các nước.
Dù
cho hải đội mẫu hạm Carl Vinson có sức mạnh lớn lao thế nào, chuyến thăm viếng
Đà Nẵng không nhắm mục tiêu quân sự và không hề có ý nghĩa là sự hiện diện quân
lực quy mô nhất của Mỹ ở Việt Nam kể từ 1975.
Đại
sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink diễn tả được giá trị chính xác của sự kiện:
“Chuyến thăm là cột mốc quan trọng mang
tính biểu tượng trong mối quan hệ song phương của hai quốc gia chúng ta và thể
hiện sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng và độc lập.”
Nếu
thực tế quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh luôn luôn là rất phức tạp thì mối quan
hệ đối tác toàn diện giữa Mỹ và Việt Nam đã tăng cường đều đặn. Người ta nhận
thấy Tổng Thống Trump tìm cách thay đổi hay xóa bỏ hầu hết các chính sách và
thành quả của chính quyền tiền nhiệm nhưng điều ấy không xảy ra với trường hợp
Việt Nam. Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc được mời đến tòa Bạch Ốc cuối
Tháng Năm năm ngoái và chuyến thăm viếng đúng thời điểm thuận lợi ấy dễ dàng
góp phần hiệu quả vào việc thúc đẩy phát triển quan hệ đối tác toàn diện đã được
xác lập năm 2013 dưới thời chính quyền Obama.
Ý
kiến đưa một hàng không mẫu hạm Mỹ vào thăm Việt Nam được đề ra từ ngày đó và
được thực hiện theo thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước nêu trong tuyên bố
chung Việt Mỹ Tháng Mười Một năm ngoái khi Tổng Thống Donald Trump gặp Chủ Tịch
Trần Đại Quang ở Hà Nội. Sau này Bộ Trưởng Quốc Phòng James Mattis chỉ thỏa thuận
lại các chi tiết để công bố chính thức trong chuyến đến Việt Nam hồi Tháng
Giêng năm 2018. Nhưng chính quyền Việt Nam đã biết chắc chắn việc này từ lâu.
VNExpress dẫn lời bà Lê Thị Thu Hạnh, phó giám đốc Sở Ngoại Vụ thành phố Đà Nẵng:
“Suốt 6 tháng qua, các cơ quan trung ương cũng như địa phương đã phối hợp chặt
chẽ, xây dựng kế hoạch chi tiết đón tiếp đoàn Hải Quân Mỹ hơn 5,000 người của
ba chiến hạm.”
Nữ
phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Lê Thị Thu Hằng nói: “Chuyến thăm tiếp tục thúc đẩy
quan hệ hai nước phát triển phù hợp với khuôn khổ quan hệ đối tác toàn diện,
đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển của
khu vực.”
Mọi
người đều thấy việc hải đội Carl Vinson đến Đà Nẵng là một phần trong nỗ lực
chung của hai nước nhằm ngăn chặn bành trướng Trung Quốc ở Biển Đông và
có thể Bắc Kinh khó chịu với hành động này. Nhưng AP dẫn nhận định của ông Lê Hồng
Hiệp thuộc viện nghiên cứu Đông Nam Á Yusof Ishak ở Singapore thì Bắc Kinh sẽ
không coi chuyện này là quá trầm trọng: “Trung Quốc hiểu rất rõ chiến lược xích
gần giữa Mỹ và Việt Nam là do thái độ quyết đoán quá đáng của họ ở Biển Đông.
Nhưng Trung Quốc cũng hiểu rằng khó có thể Việt Nam dám hợp tác quân sự với Mỹ
để chống họ.”
Theo
ông Hiệp: “Mặc dù chuyến thăm của hàng không mẫu hạm Carl Vinson đa phần có ý
nghĩa tượng trưng và không đủ để làm Trung Quốc thay đổi thái độ, nhưng vẫn là
cần thiết để chuyền đi tín hiệu rằng Mỹ vẫn còn có mặt tại Biển Đông.”
Quan
điểm này đã được Giáo Sư Carl Thayer chuyên gia về Việt Nam đã từng làm việc tại
Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia Úc nêu ra trong môt cuộc phòng vấn của BBC.
Giáo
Sư Thayer tóm tắt hai ý nghĩa chính trong chuyến thăm Đà Nẵng của mẫu hạm USS
Carl Vinson: “Thứ nhất, Mỹ đang chứng tỏ sự hiện diện của Hải Quân trong khu vực
để trấn an các quốc gia trong vùng rằng nước Mỹ dưới thời Tổng Thống Trump
không tách rời khu vực. Thứ hai, Việt Nam ủng hộ sự hiện diện của Hải Quân Mỹ ở
Biển Đông, miễn là sự hiện diện đó góp phần vào hòa bình và ổn định khu vực.
Nói cách khác, có sự đồng thuận về lợi ích chiến lược của hai bên trong việc bảo
đảm tự do hàng hải và hàng không.”
Greg
Poling thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế CSIS đồng ý kiến với dự
doán của Giáo Sư Thayer cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố sự kiểm soát của
họ trên 7 đảo nhân tạo ở Trường Sa. Ông Poling cảnh báo rằng Mỹ sẽ bị “đứng
ngoài cuộc chơi” ở Biển Đông nếu không có gì hơn việc thực hiện các chuyến hải
hành bảo đảm tự do hàng hải (FONOP). Chuyến thăm của tàu USS Carl Vinson như vậy
phần nào thể hiện hành động tích cực hơn.
Bộ
Ngoại Giao Việt Nam cho biết một đoàn cán bộ liên ngành gồm 15 người thuộc Bộ
Ngoại Giao, Quốc Phòng và chính quyền thành phố Đà Nẵng, theo lời mời của Tòa Đại
Sứ Mỹ, đã lên thăm tàu. Xuất phát từ sân bay Đà Nẵng đoàn đã xuống thăm hàng
không mẫu hạm USS Carl Vinson trong hai ngày 3 và 4 Tháng Ba khi đang ở hải phận
quốc tế gần quần đảo Hoàng Sa ngoài vùng biển Đà Nẵng.
Trong
những ngày lưu lại Đà Nẵng, hải đội Carl Vinson có nhiều hoạt động cộng đồng,
tham dự các trận đá banh, bóng chuyền và trình diễn âm nhạc tại Cầu Rồng và
công viên Biển Đông. Hai chiến hạm hộ tống, tuần dương hạm USS Lake Champlain
và khu trục hạm USS Wayne E. Meyer cặp bến cảng Tiên Sa nhưng hàng không mẫu hạm
USDS Carl Vinson bỏ neo ngoài vịnh cách bờ khoảng 1km. Báo giới và một số cán bộ,
công chức cùng dân chúng sẽ được mời lên thăm các tàu.
Trong
buổi trình diễn trước dân chúng thành phố Đà Nẵng tập trung đông đảo tại Cầu Rồng
tối Thứ Hai, cô thủy thủ Evinly Kershan, nữ ca sĩ chính của ban nhạc hải quân Hạm
Đội 7 đã hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Cô Kershan
sau đó cho biết đã mất hai tuần lễ tập dượt cùng ban nhạc và đã chọn lời của
phiên bản thứ nhất để mọi người có thể cùng hát theo.
Nên
nhắc lại rằng trong chuyến thăm Việt Nam năm 2016, Tổng Thống Barack Obama cũng
đã dẫn lời bản “Nối Vòng Tay Lớn” khi nói chuyện ở Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia
Hà Nội.
Hàng
không mẫu hạm Carl Vinson đến Đà Nẵng như vậy được đánh giá là một bước chuyển
mạnh trên nhiều mặt trong quan hệ Mỹ-Việt.
Thiếu
Tướng Nguyễn Hồng Quân, nguyên phó viện trưởng Viện Chiến Lược Quốc Phòng trả lời
phỏng vấn của VNExpress cho biết trong hơn nửa thế kỷ qua tình thế đã
hoàn toàn biến chuyển. Năm 1965 quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và chiến tranh kéo
dài đến 1973. Năm 1995 Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ. Tháng Giêng năm 2003
chiến hạm Mỹ lần đầu tiên đến Việt Nam sau 1975 và từ đó đến nay duy trì đầu đặn
ít nhất mỗi năm một lần. Theo ông Quân chuyến thăm của Carl Vinson, ghé
Philippines rồi đến Việt Nam chứng tỏ Mỹ không quay lưng với ASEAN.
Ông
Quân cho rằng quan hệ đối ngoại quốc phòng giữa Việt Nam với các nước lớn, bao
gồm Mỹ và Trung Quốc, sẽ càng ngày càng nhộn nhịp hơn “nhưng phải trên cơ sở
nguyên tắc độc lập, tự chủ nhất quán của ta.” Ông cũng hy vọng là các nước
ASEAN đều đón nhận sự kiện Đà Nẵng và đừng nghĩ mình không được Mỹ coi trọng bằng
Việt Nam.
Hãng
tin Nga RT phán đoán sự kiện hàng không mẫu hạm Carl Vinson đến Đà Nẵng nặng nề
hơn, cho rằng Mỹ có ý muốn đưa Việt Nam vào trong một khối chống Trung Quốc đã
sẵn sàng có Nhật, Úc, Ấn Độ. Theo RT Mỹ khó có khả năng thu nạp Hà Nội nhưng ít
nhất cũng khích động thêm tinh thần chống Trung Quốc của người dân Việt.
No comments:
Post a Comment