Vĩnh
Phúc
Hôm nay, mở Email, tôi thấy một bài, tựa đề 20
Năm Nhà Văn Duyên Anh Lìa Cõi Tạm. Kèm theo, có ít lời của Nguyễn Tiến Đức
và ba bài viết về Duyên Anh của Nguyễn Hữu Ích, Đinh Tiến Luyện, và Julie.
Tôi
biết gì về Duyên Anh?
Cái Email này khiến tôi không thể làm thinh sau mấy
năm qua đã quyết định gác bút, bế môn tạ khách và diện bích. Lý do khiến tôi cầm
bút lại, là vì lời nhắc nhở hai mươi năm nhà văn Duyên Anh lìa cõi tạm đã
gây xúc động mạnh trong tôi. Tôi ngồi lặng người, để mặc cho bao nhiêu ký ức về
Duyên Anh chợt dồn dập trở về. Thì ra, những sự việc tôi tưởng đã có thể quên
được sau quyết định gác ngoài tai mọi chuyện đời để chỉ sống với mình, nay vẫn
còn đậm nét và nguyên vẹn như mới xảy ra hôm qua, tuần trước. Tôi còn nhớ như
in, chiều ngày 30 tháng chạp năm Bính Tý, từ Luân Đôn tôi bàng hoàng nhận được
tin Duyên Anh qua đời ở Paris ngày hôm trước. Tính theo dương lịch thì là ngày
6 tháng 2 năm 1997. Tang lễ cử hành 10 giờ sáng 14/2/1997, hoả thiêu lúc 14 giờ
cùng ngày. Cuối cùng, tôi đi tới quyết định phải kể lại những điều tôi biết về
Duyên Anh, để giúp những người ái mộ nhà văn hiểu rõ hơn về anh, đồng thời đính
chính những hiểu lầm của người đời, do vô tình hay cố ý.
Ngay khi Duyên Anh sống trên trại đảo Pulau Bidong
thuộc Mã Lai chờ được sang Pháp xum họp với vợ con, anh đã liên lạc với tôi ở
Ban Việt ngữ đài BBC Luân Đôn. Và cũng vào thời gian này, rắc rối đã xảy ra. Hồi
đó, có người kể lại với tôi rằng một số người trên đảo nghe nói là Duyên Anh
làm ăng ten khi đi tù cộng sản, nên họ dọa đánh. Cũng trong thời gian này, con
gái Duyên Anh là Vũ Nguyễn Thiên Hương gửi cho tôi và giáo sư Patrick Honey (cố
vấn cho Ban Việt Ngữ – BBC ) bản thảo hai truyện Đồi Fanta,
và Một Người Nga Ở Saigon. Tôi thấy trong Đồi Fanta tác giả mượn lời
mấy đứa trẻ bụi đời, để chửi các nhân vật lãnh đạo cũ của VNCH như Nguyễn Vă
Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, hoặc nhà văn Mai Thảo. Tôi dùng bút chì đánh dấu những
chỗ đó rồi chú thích đề nghị Duyên Anh bỏ các đoạn đó đi, với lý do chúng
chỉ làm rẻ tác phẩm mà thôi. Sau đó tôi cảm động và ngạc nhiên khi thấy
Duyên Anh nghe theo lời khuyên mà bỏ những đọan văn đó. Tôi mừng vì nghĩ rằng
môt con người cao ngạo và bướng bỉnh như Duyên Anh mà bây giờ biết “tu tỉnh” và
biết nghe lời khuyên hợp lý rồi chăng? Nhưng không lâu sau thì chứng nào vẫn tật
nấy khiến tạo ra biết bao nhiêu là hệ lụy. Tuy nhiên, trong mối giao tình suốt
gần hai thập niên 1980 – 90, đã có những lần Duyên Anh chịu lắng nghe tôi.
Có thể nói rằng Duyên Anh mang một cuộc sống nội tâm
nhiều dằn vặt. Phải chăng điều này tạo ra một Duyên Anh bề ngoài khinh mạn, bướng
bỉnh, phá phách? Có những chuyện riêng tư dường như Duyên Anh chỉ giữ kín trong
lòng không hề thố lộ với ai, kể cả người bạn thân nhất, từng gắn bó với Duyên
Anh từ thời trai trẻ hàn vi hồi mới di cư, từng hy sinh rất nhiều cho Duyên Anh
cả về vật chất lẫn tinh thần, là Đặng Xuân Côn. (Đặng Xuân Côn lớn tuổi hơn
Duyên Anh nhưng lấy cô em vợ Duyên Anh – cô Minh ). Đây là ví dụ cho thấy tình
thân giữa hai người bạn, và sự hy sinh của Đặng Xuân Côn dành cho Duyên Anh như
thế nào: Hồi hai người còn nghèo, với đồng lương thư ký và chỉ đi làm bằng chiếc
xe mô-bi-lét cọc cạch, mà Đặng Xuân Côn dám mua chiếc xe vespa mới toanh đầu đời
cho Duyên Anh. Và ba lần vợ Duyên Anh đi sanh, thì chính Đặng Xuân Côn là người
vào bảo sanh viện trông nom săn sóc sản phụ và hài nhi, khiến cho các bác sĩ và
y tá cứ tưởng Đặng Xuân Côn là cha mấy đứa trẻ!
Tôi nghĩ rằng hệ lụy đeo đẳng cuộc đời Duyên Anh có
lẽ đã từ khi Duyên Anh kết hôn. Duyên Anh theo đạo Phật trong khi vợ theo đạo
Chúa. Song hình như Duyên Anh cũng không quan tâm chuyện tôn giáo. Nguyễn Ngọc
Phương – vợ Duyên Anh – là con nhà đại điền chủ Mìền Nam Nguyễn Ngọc Đề, em Phó
Tổng thống thời đệ Nhất Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Thơ. Ở Long Xuyên có con kinh gọi
là Kinh Ông Đề, chính do cha vợ Duyên Anh cho đào để đem nước vô giúp dân làm
ruộng. Dù lấy vợ nhà giàu và có thế lực nhưng Duyên Anh hầu như không nhờ nhà vợ
gì cả, vì mẹ ruột Ngọc Phương mất sớm, và ba chị em gái gặp bà dì ghẻ khắc nghiệt.
Tuy vậy cũng khó tránh được “lời ong tiếng ve” và chính Duyên Anh sau này có viết
mấy lần về thái độ xem thường của cậu em vợ, để rồi khi đã có danh vọng thì
Duyên Anh “tuyết hận “ (chữ của Duyên Anh). Sau này nhờ có dịp tiếp xúc nhiều
nên tôi được biết khá rõ về tính tình của vợ Duyên Anh. Chính vì giữa hai vợ chồng
không có được mối quan hệ hoà thuận kẻ tung người hứng, hiểu nhau, thông cảm
cho nhau, nên gia đình thỉnh thoảnh xảy ra cảnh bất hoà. Theo ông Trần Kim Tuyến,
hồi những năm trước 1975, cứ trung bình khoảng 2 – 3 tháng, vợ Duyên Anh lại đến
khóc lóc nhờ ông và linh mục Thiên Hổ (Nguyễn Quang Lãm, báo Xây Dựng ) đi tìm
Duyên Anh vì anh chàng cãi nhau với vợ, đã bỏ nhà đi biệt. Hai vị niên trưởng lại
phải cho người đi dò la tin tức Duyên Anh, rồi khuyên nhủ hắn về với gia đình.
Đã đành vợ chồng nhà nào cũng đôi khi có chuyện mà người ta gọi là “bát đĩa có
khi xô”. Nhưng với Duyên Anh hình như tình trạng này không phải chỉ xảy ra “thỉnh
thoảng”. Sau này, khi đã lâm cảnh mất nước, mất nhà, thân đi tù đi tội, thế mà
cũng vẫn còn cảnh xào xáo lục đục. Lắm khi tôi cứ giả thiết: nếu Duyên Anh lấy
một người vợ tính tình nhu mì, biết cách chiều chồng, biết nhẫn nhịn chịu đựng,
thì có lẽ Duyên Anh đã không gây gỗ và có cuộc sống gia đình thật hạnh phúc.
Duyên Anh ham bạn, rồi khi có sẵn đồng tiền thì lại ham chơi vung vít. Khi sống
cuộc đời tỵ nạn ở Paris, không còn tiền để vung vít nữa, nhưng tính ham bạn vẫn
còn. Cộng thêm hoàn cảnh sống gò bó cả tinh thần lẫn vật chất, nên càng thèm bạn
và chỉ còn cách tìm sự khuây khỏa bằng ly rượu. Bởi vậy, trong một lá thư gửi
cho tôi hồi cuối năm 1987 trước khi bỏ Paris sang Hoa Kỳ, Duyên Anh viết:
No comments:
Post a Comment