Giáo sư đại học kiêm nhà văn Nguyễn Thanh Việt chia
sẻ câu chuyện đời mình, về những thử thách và thành công của anh…
Viet reading from The Sympathizer at the Loft
Literary Center, Minneapolis, April 30, 2015
Nguyễn Thanh Việt sang Mỹ định cư với gia đình từ
năm 1975. Lúc đó anh mới 4 tuổi, còn anh trai anh mới 10 tuổi. Cha mẹ anh mở một
cửa hàng tạp hóa, công việc kinh doanh phát đạt và hai anh em Việt liên tục
theo đuổi việc học và trở thành các giáo sư đại học thành công. Nghe như một
câu chuyện Giấc mơ Mỹ điển hình. Nhưng sự thực không đơn giản như vậy
Trong bài phỏng vấn lần này với Tạp chí CULTURE, Việt chia sẻ trải
nghiệm của anh khi là một người Việt lớn lên ở bang California vào những năm
1970. Anh cũng chia sẻ về động lực giúp anh chắp bút cuốn tiểu thuyết mới nhất:
The Sympathizer (NXB Grove Press, 2015) viết về một điệp viên với những giằng
xé nội tâm trong Chiến tranh Việt Nam.
Maureen
LittleJohn : Anh là giáo sư đại học và gần đây nhất còn là tác
giả của cuốn tiểu thuyết The Sympathizer (Người cảm thông). Giảng dạy và viết
sách có luôn là niềm mơ ước của anh không? Anh có thể mô tả hành trình tới
thành công hôm nay của mình?
Nguyễn
Thanh Việt : Tôi viết cuốn sách
đầu tiên trong đời vào năm lớp 3, cũng ngắn thôi. Đến khi vào đại học, tôi luôn
có ước ao mình sẽ trở thành nhà văn và thi thoảng có viết lách đôi chút trong
suốt những năm đại học. Tới khi tốt nghiệp, tôi nhận ra mình không đủ tài để
đánh cược tương lai mình vào nghiệp viết văn, thay vào đó tôi tiếp tục học sau
đại học để lấy bằng tiến sĩ văn học. Tôi có lẽ có năng khiếu nghiên cứu học thuật
và viết lách, nhưng không có chút khái niệm nào về việc dạy học. Tôi bắt đầu
trau dồi kĩ năng giảng dạy ở bậc sau đại học và thấy hóa ra mình cũng có chút
năng lực. Đây cũng là khởi đầu con đường làm giáo sư của tôi. Mặc dù tôi yêu
thích công việc giảng dạy và viết văn, tôi đã tự nhủ rằng khi nào được vào biên
chế, tôi sẽ quay lại chặng đường viết văn và tận tụy với nó hơn. Và khi tôi
ngoài 30, điều ấy đã xảy ra. Tôi đã giành những năm tuổi 30 nghiên cứu để viết
một cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam và những kí ức về nó, và viết một tuyển tập
truyện ngắn. Dù kinh nghiệm có được khi viết tuyển tập ấy không là bao, nhưng
nó cũng dạy tôi cách trở thành nhà văn. Ý tôi là tôi đã học được các kĩ thuật,
và quan trọng không kém là đối sách cần thiết để chống chọi với nỗi cô đơn trên
hành trình viết văn. Tôi không xuất bản tuyển tập này, nhưng những gì nó dạy
tôi giúp tôi hoàn thành cuốn tiểu thuyết của mình trong vòng 2 năm.
Viet in Harrisburg PA about 1976
Viet with his older brother Tung in the only photo
their father had with him when the family fled Vietnam, date sometime in the
early 1970s
Maureen
LittleJohn : Anh sinh ra tại Việt Nam, nhưng mới 4 tuổi đã
lênh đênh trên thuyền viễn xứ. Đó có phải năm 1975 không? Anh có thể chia sẻ cảm
giác lúc đó không?
Nguyễn
Thanh Việt : Vâng, đó là tháng
Tư năm1975, nhưng đã là lần thứ 2 chúng tôi chạy trốn. Lần đầu tiên là vào
tháng Ba năm 1975, lúc đó gia đình tôi sống ở Ban Mê Thuột, một thị trấn nhỏ và
cũng là nơi đầu tiên bị chiếm trong cuộc tấn công của phe cộng sản. Lúc đó chỉ
có mẹ tôi, anh trai, chị nuôi và tôi trong khi ba tôi lúc đó đang đi công tác ở
Sài Gòn. Do các phương tiện liên lạc bị cắt, mẹ tôi quyết định sẽ chạy trốn
cùng tôi và anh trai và giao cho chị nuôi tôi ở lại trông nom tài sản của gia
đình. Mẹ tôi tin rằng cuộc chiến sẽ không kết thúc, và chúng tôi sẽ trở lại. Thực
tế không xảy ra như vậy, và tôi đã không được gặp lại chị mình cho tới gần 30
năm sau. Mẹ tôi, anh trai tôi và tôi dắt díu nhau cuốc bộ khoảng vài trăm
kilomet tới Nha Trang. Thực sự cảnh tượng rất kinh khủng, có quá nhiều người tị
nạn và xác lính. Anh trai tôi đã viết về trải nghiệm này trong một câu chuyện.
Chúng tôi đón tàu vào Sài Gòn, nơi tôi gặp lại ba. Tôi chẳng nhớ gì về chuyện
này. Kí ức của tôi bắt đầu ở Harrisburg, bang Pennsylvania nơi cả nhà tôi tái định
cư. Tất cả người Việt tị nạn phải có người bảo trợ mới được rời khỏi trại tị nạn,
nhưng trong trường hợp của chúng tôi thì không ai nhận bảo trợ được cho cả gia
đình. Ba mẹ tôi sau đó được một người bảo trợ nhận, anh trai tôi được một người
khác nhận và tôi lại được bảo trợ bởi một người khác nữa. Lúc đó tôi mới 4 tuổi.
Dù chỉ sống xa ba mẹ vài tháng, nhưng tôi cảm giác thời gian sao mà dài đằng đẵng.
Nỗi đau đớn phải chia ly đã thành vết ký ức in hằn trong tôi sau này. Đó cũng
là cách chiến tranh định hình một đứa trẻ.
Maureen
LittleJohn : Vậy cảm giác của anh thế nào khi lớn lên ở San
Jose, California?
Nguyễn
Thanh Việt : Chúng tôi dời tới
đó vào cuối những năm 1970 bởi lẽ cơ hội làm ăn ở Harrisburg quá hạn chế. Cách
đây vài năm khi quay trở lại Harrisburg, tôi nhận thấy khu vực nơi mình ở lần
cuối giờ là khu ổ chuột, không giống trong trí nhớ của tôi chút nào. Lúc đó tôi
chỉ thấy hạnh phúc khi ở bên ba mẹ. Thời tiết ở San Jose ấm hơn và dân cư cũng
đa sắc tộc hơn. Tôi lớn lên cùng những người Mỹ gốc Việt, gốc Mễ, rộng ra là tầng
lớp lao động, dân nhập cư, dân tị nạn, và giáo dân. Người Việt Nam là một cộng
đồng lớn ở đây, luôn cố gắng tồn tại và vươn lên. Ba mẹ tôi mở cửa hiệu tạp hóa
thứ 2 của người Việt ở thành phố này (cái đầu tiên là do một người bạn của ba mẹ
mở). Suốt những năm 1980, ba mẹ tôi quanh năm suốt tháng làm việc quần quật 12
đến 14 tiếng đồng hồ một ngày, chỉ trừ lễ Phục Sinh, Giáng sinh và Tết. Tôi
theo học một trường công lập, rồi một trường Thiên chúa giáo. Đến tối tôi phụ
việc kế toán cho hiệu tạp hóa. Tôi sắp xếp các tấm séc, tem phiếu thực phẩm và
voucher phúc lợi rồi cộng ra kết quả. Tôi còn thuộc nằm lòng những con số trên
máy tính. Ba mẹ tôi bảo nếu giờ này tôi còn ở Việt Nam, thể nào tôi cũng bị gọi
tòng quân sang chiến đấu ở Campuchia. Ông bà tôi lần lượt qua đời ở quê nhà, và
tôi không sao hiểu được nỗi đau buồn của ba mẹ, hay vì sao mình phải chít cái dải
khăn trắng lên đầu. Bố mẹ tôi có lần bị bắn trong một vụ cướp có vũ trang ở cửa
hiệu đúng đêm Giáng sinh. Hồi tôi học trung học, một tay súng đột nhập vào nhà
và chĩa súng lục vào mặt tôi. Mẹ tôi chạy ra đường tri hô, nhờ thế mà cả nhà được
cứu sống. Sau vụ đó tôi chỉ muốn rời nhà thật nhanh đến học ở một trường đại học
thật xa. Đó là quá trình tôi lớn lên ở San Jose, California.
New Saigon Market owned by Viet’s parents in the
early 1980s
Viet with his family in Harrisburg, Pennsylvania,
soon after coming to the United States and being resettled from the refugee
camp at Fort Indiantown GAP, 1976
Maureen
LittleJohn : Anh đã chứng kiến rất nhiều nỗi đau trong cộng đồng
người Việt do chiến tranh gây ra, đồng thời cũng trải nghiệm nhiều điều tích cực
như gia đình và tình bạn. Anh có thể cho biết những điều tích cực ấy ảnh hưởng
tới cuộc đời mình thế nào không? Anh làm cách nào để hòa nhập (hoặc giữ bản sắc
dân tộc) vào đời sống Mỹ?
Nguyễn
Thanh Việt : Cộng đồng người Việt
ở Mỹ cũng phức tạp như cộng đồng bản xứ ở Việt Nam thôi. Một mặt, người Việt rất
hiếu khách và cởi mở. Họ luôn chào đón bạn vào nhà, mời bạn đồ ăn thức uống.
Người Việt đề cao tình bạn lâu dài và lòng trung thành. Máu mủ là trên hết, gia
đình luôn là nơi ta nương nhờ. Tôi đã thấu hiểu được những giá trị đó. Nhưng mặt
khác, người Việt thường tọc mạch và hay lừa dối. Họ biết tính xấu này của mình
nhưng cũng không làm gì để thay đổi được. Họ lừa cả người thân lẫn người dưng,
họ ngồi lê đôi mách cả về kẻ thù lẫn người họ yêu quý. Máu mủ vẫn cứ là máu mủ,
nhưng ngay đến gia đình cũng lừa dối nhau. Tôi không thể phân định rạch ròi tốt
xấu khi nói về người Việt Nam, cũng như người Mỹ. Giống như người dẫn chuyện
trong tiểu thuyết của mình, tôi nhìn nhận cả 2 mặt của vấn đề. Điều đó có nghĩa
là tôi không bao giờ thấy mình hoàn toàn thuộc về một quê hương, kể cả cả khi
tôi sống trong nền văn hóa Mỹ mà tôi từ lâu đã hòa nhập. Giống nhân vật người dẫn
chuyện, nếu bạn nghe tôi nói qua điện thoại, bạn sẽ cảm tưởng tôi sinh ra và lớn
lên ở Mỹ. Mỹ là nhà của tôi. Đồng thời, tôi cũng luôn nhận thức được những thất
bại và thói đạo đức giả ở Mỹ.
Maureen
LittleJohn : Anh đã làm việc tại trường Đại học Nam California
bao lâu rồi? Anh có nhiều sinh viên Việt Nam hay người Mỹ gốc Việt không?
Nguyễn
Thanh Việt : Tôi đã cống hiến mười
chín năm – toàn bộ sự nghiệp của mình – cho ĐH Nam California. Thật buồn là tôi
không có nhiều sinh viên Việt Nam hay người Mỹ gốc Việt, kể cả khi tôi giảng dạy
về chiến tranh Việt Nam. Hầu hết họ trong các ngành khoa học và họ rất thực
tiễn. Đề tài chiến tranh Việt Nam có lẽ quá căng thẳng, hoặc đơn giản là không
liên quan tới họ. Đồng thời, tôi có cảm giác họ cũng không mấy quan tâm tới các
môn khác của tôi là Mỹ – Á học, và Văn hóa & Văn học Mỹ. Ở những lớp này
tôi có nhiều sinh viên người Mỹ gốc Á hơn, cũng như có nhiều du học sinh châu Á
trong lớp học của tôi về Chiến tranh Việt Nam hơn.
Maureen
LittleJohn : Vậy ở trong trường đại học thì thái độ của mọi
người với di sản Việt Nam như thế nào? Cộng đồng người Việt ở đó ra sao?
Nguyễn
Thanh Việt : Có một nhóm nhỏ các
sinh viên quan tâm tới văn hóa Việt Nam. Họ có hẳn Hội Sinh viên Việt Nam. Tôi
nghĩ đối với họ văn hóa Việt Nam có hai điều. Thứ nhất là truyền thống, tôi vẫn
thấy họ phô diễn điều đó trong các chương trình văn hóa thường niên. Truyền thống
ở đây đồng nghĩa với áo dài, múa dân gian, dân ca và ẩm thực. Một phần khác của
di sản Việt Nam trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt, tức là Khu Little Saigon gần
đó, là lá cờ của Việt Nam Cộng hòa. Trước đây cũng từng có Hội Du học sinh Việt
Nam dành cho sinh viên nước ngoài. Bây giờ vẫn còn hay sao đó. Hai nhóm này
không liên hệ gì với nhau và theo như tôi được biết, họ chỉ giáp mặt nhau đúng
một lần khi đề tài quốc kỳ trở thành chủ đề gây tranh cãi. Khu học đường đang
treo cờ đỏ sao vàng, thế rồi một nhà vận động của cộng đồng người Việt đến thay
ghim lên bằng cờ vàng ba sọc. Hai hội sinh viên lập tức nhảy vào tranh luận về
quốc kì, chiến tranh, và lịch sử. Các du học sinh nói họ hiểu nhãn quan của những
người Mỹ gốc Việt, nhưng họ muốn vượt lên quá khứ và hòa giải. Những người Mỹ gốc
Việt khẳng định là họ không sao quên được quá khứ, và nỗi đau của cha mẹ họ vẫn
làm họ nhức nhối. Bằng cách này, các sinh viên Việt Nam ở trường tôi – cả du học
sinh lẫn người gốc Việt, biểu trưng cho những căng thẳng giữa cộng đồng người
Việt hải ngoại và Việt Nam. Điều này cũng là một phần của di sản Việt Nam và nó
trở thành định nghĩa về cộng đồng người Việt.
Viet and family 1988
Nothing Ever Dies cover, forthcoming from Harvard
University Press, March 2016
Viet with his brother Tung and his parent in San
Jose, Califonia, circa 1982
Maureen
LittleJohn : Cuốn sách của anh hấp dẫn và day dứt đồng thời
cũng hơi hài hước. Có nhân vật nào trong đó dựa trên người thực không?
Nguyễn
Thanh Việt : Nhiều lắm! Francis
Ford Coppola Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Phu nhân Nhu, Hoàng Cơ Minh, Lynda Trang Đài
và Nguyễn Ngọc Ngạn là nguồn cảm hứng cho các nhân vật của tôi.
Maureen
LittleJohn : Tội lỗi và bội phản là chủ đề trọng tâm trong tiểu
thuyết của anh. Anh có nghĩ đây cũng là bản chất của con người nói chung không?
Nguyễn
Thanh Việt : Có chứ. Mọi nền văn
hóa đều có một lịch sử đầy tội lỗi và phản trắc. Người Việt và người Mỹ không hề
là ngoại lệ. Vậy nên tôi nghĩ cuốn tiểu thuyết không chỉ tập trung vào Chiến
tranh Việt Nam, những gì người Mỹ và người Việt đã làm với nhau và làm với
chính họ. Những câu hỏi họ phải đối diện, những hành động họ làm, chính là biểu
hiện của tình cảnh con người nói chung mà ở đó họ buộc phải chọn lựa và sống với
hậu quả của nó.
Maureen
LittleJohn : Dự án tiếp theo của anh là gì? Anh có định viết một
cuốn sách mới không?
Nguyễn
Thanh Việt : Tôi đang hiệu đính
luận cứ cho cuốn sách mới Nothing Ever
Dies: Vietnam and the Memory of War(Chưa từng chết đi: Việt Nam và Hồi
ức chiến tranh). Sách sẽ được Nhà xuất bản Đại học Harvard vào tháng
3/2016. Tôi nghĩ cuốn sách này là bạn đồng hành chí cốt cho tiểu thuyết của
tôi. Ngay khi hoàn thành xong các luận cứ, tôi sẽ bắt tay viết ngay phần tiếp
theo của The Sympathizer. Tôi rất phấn khích, tôi đã mất tới 13 năm
để viết Nothing Ever Dies..
Maureen
LittleJohn : Bác sĩ kiêm nhà văn người Canada gốc Việt Vincent
Lam đã nhận xét tiểu thuyết của anh “đáng nể và xuất sắc”. Anh có lời khuyên gì
cho những ai muốn tiếp bước mình, với tư cách hoặc là nhà văn hoặc giáo sư học
thuật?
Nguyễn
Thanh Việt : Hãy tìm một thứ bạn
tin tưởng. Sau đó, phải kiên trì. Những gì thực sự quan trọng với bạn là có thể
không đạt được chỉ trong 5 năm, 10 năm hay 20 năm. Đó là sự khác biệt giữa nghiệp
vụ và nghề nghiệp. Nghiệp vụ giúp bạn giành được nhiều cơ hội và phần thưởng
bên ngoài, do người khác định ra. Còn nghề nghiệp và giá trị của nó thì chỉ có
bạn mới quyết định được.
Bản tiếng Anh : English
No comments:
Post a Comment