Tuesday 6 September 2016

DẠY CHỮ HÁN TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT NHU CẦU CẤP BÁCH (Nguyễn Huệ Chi - Bauxite VN)




Nguyễn Huệ Chi
06/09/2016

Nguyễn Huệ Chi

Về cơ bản tôi tán thành quan điểm của PGS TS Đoàn Lê Giang (xem Phụ lục 1) và không tán thành hết mọi ý kiến trong bài trả lời phỏng vấn của PGS Phan Trọng Đạt (xem Phụ lục 3). Như đã viết trên FB, tôi nhớ năm 1990, GS PL xây dựng một dự án “về sự ra đời của chữ quốc ngữ trong xu thế phát triển của văn học VN hiện đại” để xin tài trợ của Nhật, tôi là một thành viên Viện Văn học được cử đến trao đổi với chuyên gia văn hóa Nhật Bản. Không ngờ bị họ phản bác rất mạnh. Cả mấy học giả Nhật đều lập luận: Việt Nam bỏ học chữ Hán và chữ Nôm là sai lầm, trẻ em sẽ không còn biết gì về văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của đất nước mình. Khi chúng lớn lên, người Việt Nam thế nào cũng lâm tình trạng mất gốc dù nhiều hay ít. Ở Nhật, trẻ em vẫn phải học 3000 chữ Hán cổ. Và đó không phải là học văn hóa Trung Quốc mà học cho văn hóa Nhật Bản. Chúng tôi cãi không lại họ và cuối cùng dự án của PL bị từ khước.

Tôi nghĩ, vào năm 1932 cụ Phan Khôi phản đối dạy chữ Hán ở trường tiểu học Pháp - Việt (trong bài Đánh đổ cái thuyết dạy tiểu học bằng chữ Nho), đó là cụ quan niệm dạy chữ Hán thay cho tiếng Việt như một ngôn ngữ phụ, và học chữ Hán theo cách hiểu của cụ là học đạo lý, còn chúng ta đề xuất dạy chữ Hán cho các em hôm nay là dạy xen một số giờ chữ Hán, bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ chủ thể và tiếng Anh đứng thứ hai, thì rất nên. Không những nên mà còn cần thiết, bởi hoàn cảnh lịch sử đã đẩy Việt Nam vào khu vực văn hóa Đông Á kể từ trước thiên niên kỷ I – cùng với Nhật Bản, Triều Tiên – khiến cho tiếng Hán trở nên gắn bó lâu dài, khăng khít cũng như chiếm một tỷ trọng không hề nhỏ trong tiếng Việt hiện đại. Mà tiếng nói – ngôn ngữ – vốn là một trong những thành tố hệ trọng góp phần quyết định sự tồn vong của một dân tộc, thì lại là một chân lý hiển nhiên, đã được minh chứng trên khắp các châu lục từ xưa đến nay (Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”). Vì nhu cầu giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, thậm chí giữ cho kho từ vựng tiếng Việt trải mấy nghìn năm không bị mai một, suy thoái, để dân tộc không rời vào mất gốc mà bắt buộc dạy chữ Hán trong trường học phổ thông với một liều lượng nào đấy, không phải là điều phi lý. Tất nhiên học chữ hay nói như PGS Đạt là học từ, không thể nghĩ đơn giản chỉ học ký âm theo tiếng Latinh là đủ, mà phải bao gồm cả học cách viết chữ Hán cổ cùng với âm đọc chữ Hán của người Việt (Hán Việt), vì lẽ trong ngôn ngữ học, đã nói đến ký hiệu thì có cả phần chữ và phần âm, và học như thế cũng tức là học cả cái nội hàm văn hóa tích hợp trong mỗi chữ. Nói cách khác, đem chữ Hán vào trường học là một cách để các thế hệ trẻ người Việt nhập tâm, thâu hóa vốn liếng văn hóa cha ông ta nhiều đời tích lũy được, khác hẳn việc bảo lưu ngôn ngữ Hán Việt trong từ điển, do chỗ từ điển chỉ là một kho chứa thuần túy, không thể nào làm cho nội hàm văn hóa của từ ngữ sống dậy, tiến kịp với hành trình của dân tộc.

Dưới thời Pháp thuộc, Nha học chính Đông Pháp chẳng phải đã tổ chức thành công bộ sách Hán văn tân giáo khoa thư, 6 tập, do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi soạn, cùng với bộ Quốc văn giáo khoa thư, 6 tập, do nhóm Trần Trọng Kim soạn, được dùng cho cấp tiểu học cho đến tận 1945 đấy là gì. Người Pháp thực dân hẳn phải đánh giá lịch sử văn hóa văn minh của dân tộc chúng ta như thế nào sau khi đã lắng nghe nhiều kiến nghị của trí thức bản xứ, mới chấp nhận một chương trình giảng dạy có thêm hai phần như đã nói vào chương trình giáo dục Pháp - Việt ở bậc học 6 năm đầu tiên trong đời đi học của trẻ em người Việt. Hai bộ sách ấy hiện vẫn còn lưu dấu trong ký ức nhiều bậc cao tuổi, và thực tế cho thấy, những thế hệ được học hai chương trình đó từ tuổi còn rất nhỏ, sau này ra gánh vác việc đời dù ở cương vị nào, phần lớn đều có được cái nhìn nhân văn, có cách khu xử thấu đáo, chuẩn mực, và có tầm viễn kiến, ít để lại những hệ lụy đáng lo ngại như những gì mà hầu hết lớp người cầm chịch hiện nay đang hành xử.

Cần nhắc lại lần nữa, khi ta nói dạy chữ Hán trong nhà trường là dạy chữ Hán Việt Nam, tức là chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và dùng theo nghĩa của người Việt, không phải là dạy Trung văn. Do chữ Hán từ một công cụ hành chính của quốc gia phong kiến buổi đầu, sau nhiều đời đã thấm vào lời ăn tiếng nói của nhân dân, lại được trải nghiệm, tích hợp trong bối cảnh đặc thù của lịch sử Việt Nam, nên tư duy Hán ngữ của người Việt, kể cả tầng lớp nho sĩ, không còn nhất nhất rập khuôn tư duy Hán ngữ của người Tàu, mà có dịch chuyển dần dà cả về sắc thái ngữ nghĩa cũng như đôi nét cá biệt về ngữ pháp. Chính vì thế mà Lương Khải Siêu khi đọc Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu (1905) có chỗ đã không hiểu được dụng ý dùng chữ của cụ Phan, phải than thở: chữ Hán hình như chưa tinh tường lắm (1). Kỳ thực cụ Phan là người Việt, cụ không đúc khuôn cách thức biểu đạt ngôn ngữ răm rắp theo Trung Quốc (điều này khi tôi sang Trung Quốc và khi PGS Trần Thị Băng Thanh sang Trung Quốc đều nghiệm thấy khá rõ. Cả trong chú giải Liêu trai chí dị, một bộ sách văn ngôn vào loại khó, của học giả Trương Hữu Hạc – được coi là nhà Liêu trai học hàng đầu – chúng tôi vẫn nhận ra có những chỗ ông ta chấm câu khác cách chấm câu của giới Hán học Việt Nam. Những kết quả lâu dài tạo nên sự khu biệt nói trên phải coi là thành quả của văn hóa chúng ta, nếu không truyền lại cho lớp trẻ thì chắc chắn sẽ tiêu tán, thất lạc dần đi.

Tôi nhớ năm 1992, trong Hội thảo khoa học về núi Bài Thơ tại Quảng Ninh (2) – Lê Thánh Tông cho khắc trên núi này bài ký điều quân đi tuần hành vùng Đông Hải kèm với bài thơ của ông, ngay từ thế kỷ XV, rồi các đời sau còn nhiều danh sĩ đến vãng cảnh khắc thêm thơ văn, nhưng có lẽ đến giữa thế kỷ XX, do chữ Hán lần lần mất ý nghĩa trong đại chúng nên di tích bị xâm hại – nhân tình trạng xuống cấp của một cụm di tích quý, GS Hà Văn Tấn có bàn với tôi và GS Phan Huy Lê cùng nhau làm một kiến nghị gửi Bộ Giáo dục đề nghị bổ sung thêm một vài tiết học chữ Hán vào chương trình tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, tuy vậy khi trao đổi thì thấy chương trình đã quá nặng nên đành xếp lại.

Phải nói thuở ấy, di tích-di sản lịch sử và văn hóa đã bị phá hoại rất nhiều nhưng trong đời sống ngôn ngữ – trên báo chí hàng ngày cũng như trong văn chương sách vở – cách dùng tiếng Hán Việt vẫn còn khá chuẩn, chưa đến nỗi lệch lạc và tùy tiện như ngày nay. Vì thế, nếu đến giờ phút này mà người phụ trách giáo dục vẫn còn nhẩn nha, chưa quyết tâm đem chữ Hán vào trường học, thì sự tuột dốc của sinh hoạt ngôn ngữ – cả ngôn ngữ khoa bảng và ngôn ngữ đời sống – chưa biết thế nào mà nói trước. Hãy cố gắng động não nhằm bỏ bớt những phần học vô bổ cho chương trình bớt nặng – hẳn không khó lọc ra nếu các vị lãnh đạo thành tâm muốn vậy – thì chắc chắn có thể dạy thêm môn học Hán Nôm.

Còn nói như PGS Đạt: bắt học sinh học chữ tượng hình là đi ngược quy luật ngôn ngữ hiện đại thì tôi không thể hiểu. Một nhà triết học nổi tiếng của Pháp hình như là Jacques Derrida (1930-2004) thì phải (có thể tôi nhớ không chính xác), trong các công trình giải cấu trúc luận của mình, khi phản bác ký hiệu học cổ điển coi trọng phần âm mà coi nhẹ phần chữ, đã từng lưu ý rằng chữ tượng hình là thứ ngôn ngữ chứa đựng trong từng chữ cả một kho tư tưởng, khác với chữ ký âm, đọc vào chỉ là đọc con chữ hời hợt và không thu nhận được một chút tư tưởng gì. Hay nói như nhà ngôn ngữ học phương Đông người Pháp Jean-François Champollion (1790-1832): “Chữ tượng hình là một hệ thống phức hợp, một thứ văn tự mang cùng lúc cả tính tượng hình, tính tượng trưng, cả năng lượng ngữ âm, ngay trong một văn bản, trong một câu, thậm chí gần như trong cùng một từ” (L’écriture hiéroglyphique est un système complexe, une écriture tout à la fois figurative, symbolique et phonétique, dans un même texte, une même phrase, je dirais presque un même mot). Thế thì giúp các em thêm một hình thức tư duy tổng hợp cho đầu óc tưởng tượng mở mang phong phú thêm, có gì mà đi ngược quy luật? Ông Đạt lại nói học tử ngữ sẽ không tốt cho việc học sinh ngữ. Tôi cũng không hiểu. Thế người đi học trường Pháp trước đây vào Ban Triết thì phải học tiếng Latinh thì cũng là tử ngữ đấy chứ, mà có ai tồi tiếng Pháp và tiếng Anh đâu. Chỉ có chúng ta được đào tạo trong nhà trường XHCN chủ trương bỏ ngoại ngữ suốt mấy chục năm (1952-1975), rồi sau 1975 mới cho dạy lại, nhưng phương pháp dạy đại trà, ít có thầy cô giỏi, thì sinh ngữ mới kém cỏi thôi. Cứ so sánh trình độ ngoại ngữ của học sinh sinh viên giữa hai miền Nam Bắc trong thời gian 1955-1975 thì rõ.

N.H.C.

(FB Trần Quang Đức, có bổ sung)
(1) Điều rất lạ kỳ là trong bộ Ẩm Băng thất văn tập do Quảng Trí thư cục Thượng Hải in năm 1905, Lương Khải Siêu lại đem cả Việt Nam vong quốc sử vào đấy, coi như một tác phẩm của mình.
(2) Hội thảo do Tỉnh ủy Quảng Ninh tổ chức, mời Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học chủ trì.


*
Phụ lục I
PGS TS Đoàn Lê Giang

*
Phụ lục II
Học chữ Hán – Sao lại không?
Chu Mộng Long

*
Phụ lục III
Hoàng Đan





No comments:

Post a Comment

View My Stats