Gina Anne Tam - Foreign Affairs
Biên
dịch: Nguyễn Lương Sỹ | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted on 06/09/2016
Năm 2012, Lương Chấn Anh nhậm chức Đặc khu trưởng Hồng
Kông sau một chiến dịch gây tranh cãi. Nhờ quy chế “một quốc gia, hai chế độ” đặc
thù của Hồng Kông được dàn xếp với Trung Quốc đại lục, ông đã đắc cử vào chức vụ
cao nhất của lãnh thổ này không phải bằng một cuộc bỏ phiếu bởi người dân Hồng
Kông mà bằng một hội đồng bầu cử gồm 1.200 thành viên được xem là một bè đảng
có các ràng buộc kinh tế và chính trị với Bắc Kinh. Những người chỉ trích Lương
Chấn Anh trên mạng đặt biệt danh cho ông là “ông 689”, chỉ số phiếu thực tế ông
nhận được từ nhóm người thân Bắc Kinh so với 3,5 triệu cử tri được đăng ký của
thành phố.
Bài phát biểu nhậm chức của ông Lương, được trình
bày bằng tiếng Quan Thoại – ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc đại lục – chỉ
gióng thêm một cảnh báo nữa cho thành phố này. Đó là lần đầu tiên kể từ khi Hồng
Kông được người Anh trao trả vào năm 1997, một Đặc khu trưởng không phát biểu bằng
tiếng Quảng Đông, ngôn ngữ chính của thành phố nơi ông đắc cử làm đại diện. Điều
này càng củng cố một niềm tin đang lớn dần ở Hồng Kông rằng ông chẳng khác gì một
con rối của Đảng Cộng sản.
Tính biểu tượng của khoảnh khắc này không bị người
dân Hồng Kông bỏ qua, đặc biệt là với những ai xuống đường hai năm sau đó trong
một phong trào được gọi là cuộc Cách mạng Dù. Phong trào này đấu tranh đòi quyền
tự trị lớn hơn so với Trung Quốc đại lục, không chỉ về chính trị mà còn về văn
hóa, với ngôn ngữ nằm ở trung tâm của cuộc đấu tranh này. Các nhà hoạt động nhấn
mạnh tính chính danh của tiếng Quảng Đông, ngôn ngữ được gần 90% cư dân thành
phố sử dụng. Trong suốt cuộc Cách mạng Dù, khắp các con đường ở khu Mong Kok
liên tục râm ran ca khúc tiếng Quảng nổi tiếng ở thập niên 1990 “Hải khoát
thiên không”, được vang lên lặp đi lặp lại từ radio. Các từ lóng tiếng Quảng
bao phủ khắp các poster dán đầy trên những bức tường của phố đi bộ ở Quảng trường
Kim Chung. Các nhà hoạt động sử dụng từ jyuze(雨遮), tiếng Quảng có
nghĩa là “dù”, chứ không phải là từ yusan (雨伞)trong tiếng Quan Thoại, để đặt
tên cho cuộc cách mạng.
Niềm tự hào về tiếng Quảng và mối quan ngại rõ ràng
rằng ngôn ngữ này đang bị đe dọa tiếp tục dẫn dắt văn hóa và chính trị Hồng
Kông. Bộ phim độc lập thể loại mạt thế phát hành năm 2015 mang tên “Thập niên”,
tạo tiếng vang trong giới trẻ đang bất bình của thành phố, đã diễn tả toàn bộ
các nỗi âu lo điển hình về tình trạng giám sát và bạo lực của nhà nước. Bộ phim
mô tả một Hồng Kông chỉ sau đây một thập niên sẽ bị đại lục kiểm soát: sẽ có những
vụ ám sát được dàn xếp nhằm khủng bố tinh thần người dân Hồng Kông buộc phải
nghe lời, và trẻ em sẽ được huấn luyện để trở thành những người giám sát bị kiểm
soát tư tưởng. Chưa hết, thứ làm khổ sở người dân Hồng Kông nhất là một đạo luật
trong phim nghiêm cấm người dân thành phố nói bất cứ ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng
Quan Thoại. Sự cưỡng bức về văn hóa của Bắc Kinh, chứ không chỉ là năng lực
giám sát và bạo lực, sẽ ảnh hưởng nặng nề đến Hồng Kong.
Dĩ nhiên, việc sử dụng tiếng Quan Thoại ở Hồng Kông
đang ngày càng tăng với tốc độ đáng báo động đối với nhiều cư dân. Hơn một nửa
người dân thành phố nói thứ ngôn ngữ này, so với chỉ 30% một thập niên trước. Từ
2012, nó đã vượt qua tiếng Anh để trở thành ngôn ngữ phổ biến thứ hai ở Hồng
Kông. Xu hướng đó đang được lèo lái bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều người tạm
trú từ đại lục – chẳng hạn như người nhập cư và khách du lịch – và bởi cả mối
quan hệ ngày càng khăng khít của chính quyền Hồng Kông với Bắc Kinh.
Sự phản đối chống lại xu hướng đó thỉnh thoảng biểu
hiện qua một sự phân biệt nhẹ nhàng, nhưng đôi khi công khai mạnh mẽ. Các video
trên Youtube so sánh khách du lịch từ đại lục với những kẻ phá hoại, và những
người phản đối thường quay video những du khách người Trung Quốc đại lục có
hành vi kém văn minh hoặc đáng xấu hổ. Nhưng dường như nhiều người dân Hồng
Kông chỉ lo lắng rằng ngôn ngữ bản địa của họ có thể đang bị đe dọa. Sinh viên
tại Đại học Thành thị Hồng Kông đã khước từ thành công yêu cầu của các bạn học
đến từ đại lục về việc chuyển ngôn ngữ giảng dạy từ tiếng Quảng sang tiếng Quan
Thoại. Các game thủ Hồng Kông đã tẩy chay Nintendo vì bỏ qua tên gọi bằng tiếng
Quảng cho Pokemon trong cơ sở dữ liệu trung tâm của nó, và kênh truyền hình địa
phương TVB tràn ngập các lời phàn nàn từ người địa phương giận dữ bởi quyết định
hủy bỏ chương trình tiếng Quảng. Thỉnh thoảng, sự giận dữ của người dân về ảnh
hưởng gia tăng của Bắc Kinh đối với Hồng Kông lại bùng phát. Thậm chí hai năm
trước khi Phòng trào Dù diễn ra, giáo viên tại Hồng Kông đã xuống đường chỉ
trích các đề xuất thay đổi chương trình giảng dạy bởi chính quyền Hồng Kông nhằm
thiết lập các lớp học giáo dục công dân trong đó nhấn mạnh tình yêu dành cho
Trung Quốc và hệ thống cộng sản độc đảng. Trong những cuộc biểu tình này, giáo
viên cũng biểu hiện thái độ thất vọng vì tiếng Quan Thoại đang dần thay thế tiếng
Quảng để trở thành ngôn ngữ giảng dạy trong các lớp tiếng Hoa.
Đó là lý do giúp cho thông điệp của Phong trào Dù tiếp
tục vang vọng ở Hồng Kông: một phiên bản bản sắc Trung Hoa được Bắc Kinh ủng hộ,
trong đó bao gồm cả việc nói tiếng Quan Thoại, không chỉ không thể đại diện được
cho bản sắc Trung Hoa – hay gốc gác Trung Quốc của họ – mà còn đe dọa chính bản
sắc đó. Thậm chí ngày nay, dù người dân Hồng Kông đang bị chia rẽ về việc nhận
diện gốc gác bản thân ra sao, và gần ba phần tư nói rằng họ là người Hoa –
nhưng họ hoặc nhận gốc gác của mình là “người Hoa”, “người Hoa Hồng Kông”, hoặc
“người Hoa đến từ Hồng Kông”. Nhưng câu hỏi nằm trong tâm trí nhiều nhà hoạt động
trong Phong trào Dù đó là thành phố này có thể duy trì bản sắc ngôn ngữ và văn
hóa riêng biệt như thế nào trong bối cảnh sự hợp nhất với đại lục sau cùng có
thể xảy ra, hoặc liệu họ phải đối mặt với sự đồng hóa về văn hóa hay không. Một
vài phần của ý nghĩ đó xuất phát từ việc Hồng Kông đã từng kinh qua chủ nghĩa
thực dân, thời kỳ mà họ được trao một số quyền tự trị nhất định. Người Anh cai
quản bằng tiếng Anh, nhưng không giống Trung Quốc đại lục, họ không mong muốn đồng
hóa, và không cố gắng can thiệp vào sự phát triển văn hóa và xã hội của thành
phố này.
Tiếng Quan Thoại và sự phản đối chống lại nó đã có lịch
sử lâu đời ở Trung Quốc từ những năm tháng suy tàn của triều đại nhà Thanh
(1644 – 1911). Sau hàng loạt thất bại quân sự nhục nhã hồi giữa thế kỷ 19, giới
tinh hoa Trung Quốc tuyệt vọng tìm cách lý giải những hạn chế của chính đất nước
mình. Sự cai trị trì trệ bởi giới vua chúa càng làm gia tăng thêm nỗi tuyệt vọng
trong tầng lớp tinh hoa, khiến giới quan chức và trí thức băn khoăn liệu hiện đại
hóa công nghệ và quân sự có đủ để đẩy Trung Quốc bước vào thế giới hiện đại hay
không. Điều này làm họ nhận thức rằng tình trạng lạc hậu của Trung Quốc bắt nguồn
từ thứ còn sâu xa hơn: nền văn hóa của nước này.
Vì vậy, ngôn ngữ chính là trung tâm trong công cuộc
tái tạo của Trung Quốc. Lúc bấy giờ, người Trung Quốc sử dụng hàng trăm ngôn ngữ
địa phương, được gọi là fangyan (phương ngôn), vốn không hề có
điểm chung. Bước sang thế kỷ 20, khi sự hỗn loạn chính trị đe dọa xé tan Trung
Quốc thành nhiều mảnh, điều đó đã thay đổi. Ngoài việc sáng tạo ra lá cờ quốc
gia và đề cao một lịch sử chung của quốc gia, nhà nước (Trung Quốc) bắt đầu khởi
xướng một ngôn ngữ quốc gia duy nhất.
Thông qua những ủy ban được nhà nước tài trợ, các học
giả đã gặp gỡ nhau trong suốt hai thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 nhằm sáng tạo
và truyền bá ngôn ngữ đó. Trong khi một số người đề xuất Trung Quốc nên theo bước
Nhật Bản và áp dụng ngôn ngữ của thủ đô làm chuẩn mực quốc gia, nhiều người
khác thúc giục một sự hợp nhất – một thứ ngôn ngữ chứa đựng các đặc trưng âm sắc
của các loại tiếng Trung Quốc khác nhau, trong quá khứ và cả hiện tại. Năm
1913, một ủy ban đã đồng thuận về một sự hợp nhất như vậy, nhưng thực tiễn giảng
dạy một ngôn ngữ như thế đã chứng minh là không khả thi. Như một trong những
người sáng tạo ra thứ ngôn ngữ này đã nói đùa nhiều năm sau đó, “Tôi là người
duy nhất sử dụng ‘thứ thổ ngữ ngu ngốc’ (idiolect – chơi chữ giữa idiot và
dialect) này, thứ vốn được dự định trở thành ngôn ngữ quốc gia cho bốn, năm hay
sáu trăm triệu người sử dụng.” Những người mơ mộng về một thứ ngôn ngữ quốc gia
bao quát hết tất cả sự đa dạng ngôn ngữ của Trung Quốc đã phải chấp nhận thất bại.
Năm 1927, khi Quốc Dân Đảng tiến hành một cuộc viễn chinh lên miền Bắc nhằm đưa
toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc vào phạm vi kiểm soát của một chính quyền trung
ương, họ đã lựa chọn tiếng Quan Thoại – dựa trên ngôn ngữ được dùng tại Bắc
Kinh – làm ngôn ngữ quốc gia. Các ngôn ngữ địa phương khác của Trung Quốc, bao
gồm cả tiếng Quảng, được xem là thổ ngữ – một thực thể ngôn ngữ phụ.
Sau năm 1949, tại Trung Quốc của Mao, Đảng Cộng sản
phán xét mọi tư tưởng và hành vi bằng cách xem chúng có gắn liền với các mục
tiêu quốc gia không – và họ xem việc sử dụng ngôn ngữ của Trung Quốc Cộng sản
là hành động hữu ích và cách mạng. Các sở giáo dục địa phương mời học sinh,
giáo viên và quan chức tham gia vào chiến dịch “Truyền bá tiếng Quan Thoại”,
trong đó họ được tuyên truyền rằng tư duy của họ sẽ được hoàn thiện hơn nếu
dùng ngôn ngữ của nước Trung Quốc cách mạng. Một diễn giả tại một trong những sự
kiện đó đã tuyên bố rằng, “Tuân theo Đảng (Cộng sản) chưa bao giờ là sai lầm. Sử
dụng ngôn ngữ quốc gia là tuân theo Đảng.” Trong hoàn cảnh như vậy, sử dụng một
ngôn ngữ thay thế khác là phản động.
Dĩ nhiên, Hồng Kông phần nào đó đã được che chắn khỏi
các chính biến ở Trung Quốc nhờ địa vị là một thuộc địa của Anh. Nhưng họ nhận
thức được lịch sử đó, và kể từ khi được trao trả cho Trung Quốc vào năm 1997, họ
đặc biệt nhạy cảm với sự áp đảo ngôn ngữ quốc gia của Bắc Kinh đối với các phương
ngôn. Ví dụ, Pang Ho-cheung (Bành Hạo Tường), một đạo diễn phim người Hồng
Kông, đã vô tình trở nên nổi tiếng vài năm trước khi ông đã khăng khăng nói tiếng
Quảng Đông tại một hội chợ sách, bất chấp các phóng viên yêu cầu ông nói tiếng
Quan Thoại. Cư dân mạng Hồng Kông ca ngợi ông là “bảo vệ chân giá trị” của Miền
Nam Trung Quốc, những bình luận ám chỉ rằng việc sử dụng phương ngôn là
một hành động chính trị dũng cảm.
Năm 2010, một nhóm người biểu tình đã tụ tập ở Công
viên Nhân dân Quảng Đông, hát vang các bài nhạc pop tiếng Quảng và mang áo
phông in khẩu hiệu thể hiện niềm tự hào về vùng của mình, chẳng hạn như bài
“Hát lời ngợi ca Quảng Đông” (Sing Praises for Canton). Một người đàn ông tự
hào giơ một poster ghi “Tôi yêu tiếng Quảng Đông; Tôi không nói tiếng bí
đao hầm.” Cụm từ “bí đao hầm” (bodonggwa) được sử dụng rộng rãi
như tiếng lóng mang tính chế diễu trong tiếng Quảng Đông để nhại từ Putonghua (tiếng
Quảng là potongwa) có nghĩa là “phổ thông thoại” (tiếng phổ thông),
hay tiếng Quan Thoại.
iệc sử dụng ngôn ngữ mang tính khiêu khích ở cuộc biểu
tình này, cũng như với Phong trào Dù về sau, chính là sự phản kháng lại yêu
sách ngoan cố của Trung Quốc đại lục về một bản sắc hợp nhất. Bằng việc sử dụng
tiếng Quảng Đông, người dân Hồng Kông đã nhấn mạnh rằng bản sắc Trung Quốc vẫn
là một vấn đề tranh cãi, một trận chiến mà trong đó nhà nước Trung Quốc và người
dân bình thường từ Cáp Nhĩ Tân đến Hồng Kông sẽ phải đấu tranh vì quyền xác định
đâu mới là bản sắc Trung Hoa.
Nguồn: Gina
Anne Tam, “Tongue
– Tied in Hong Kong: The Fight for Two Systems and Two Languages”, Foreign
Affairs, 03/08/2016
*
Gina Anne Tam là Trợ lý Giáo sư ngành Lịch sử Trung
Quốc tại Đại học Trinity. Bà nhận bằng tiến sĩ ở Stanford vào năm 2016, và hiện
đang viết một cuốn sách về vai trò của tiếng địa phương trong việc kiến tạo nên
Trung Quốc hiện đại.
*
Có
thể bạn quan tâm:
- Tại sao Hồng Kông quan trọng với kinh tế Trung Quốc?
- Trung Quốc và Hồng Kông: Chúng tôi cử, các anh bầu
- Anh có trách nhiệm can thiệp vào Hong Kong không?
- Ai là người Trung Quốc? Chính trị bản sắc tại Đài Loan và Hong Kong
- Tương lai nào cho Hong Kong?
- 01/07/1997: Anh trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc
No comments:
Post a Comment