Monday, 14 March 2016

LIỆU VIỆT NAM CÓ THỂ TỰ CẢI CÁCH ? - PHẦN 3 : THAY ĐỔI BẰNG CÁCH NÀO ? (Bùi Quang Vơm)





Bùi Quang Vơm
Posted by adminbasam on 14/03/2016

CÁC BÀI TRƯỚC :

Có thể nói ngay rằng, chỉ có cách duy nhất là đảng cộng sản Việt Nam tự cải cách. Câu hỏi đặt ra cho loạt bài này là: Liệu Việt Nam có tự cải cách hay không?

Ở phần Một, chúng ta đã khẳng định Đảng cộng sản sẽ không tự cải cách. Sau đó, sang phần Hai, chúng ta lại khẳng định rằng thay đổi là tất yếu. Bây giờ, chúng ta lại nói, chỉ có thể tự cải cách. Đó là cái gọi là Nghịch lý của lôgíc. Không thể tự cải cách, nhưng không có cách nào tốt hơn là tự cải cách. Bởi vì chúng ta đã chứng minh (dù còn rất xa mới đầy đủ) rằng chỉ có thể hoặc tự thay đổi để tiếp tục tồn tại hoặc sẽ bị loại bỏ. Phía trước đảng cộng sản chỉ còn hai con đường, đi tiếp với số đông dân chúng đồng bào của mình, với số đông nhân loại, hay tự gạt mình ra khỏi dòng chảy, chọn cách đứng trên vỉa hè.

Tự cải cách, tự thay đổi chính là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhưng không phải là “suy thoái”.

Tự thay đổi, nhất là thay đổi tư tưởng là quá trình thay đổi nhận thức, là một quy luật tự nhiên. Nhận thức là phản ánh của trực quan, là quá trình tiệm tiến tới nhận thức chân lý. Bởi vậy, nhận thức là một quá trình động và bất tận. Mọi vật của ngày hôm nay không còn 100% là vật của ngày hôm qua, nó đang dần thành cái khác. Con người của anh, trong đó có nhận thức, có tư tưởng của anh không phải là của anh hôm qua. Nó sẽ tích tụ về lượng để biến hẳn về chất. Sẽ đến thời điểm con người anh, trước hết là tư tưởng của anh là một con người khác, thậm chí là đối nghịch với chính con người anh trước đó.

Tất cả những điều chúng ta vừa nói là luận thuyết duy vật biện chứng của Các Mác. Nếu có gì thay đổi, không có gì là chống lại Chủ nghĩa duy vật biện chứng, không có gì chống lại những gì Mác đúng. Cũng không chống lại Mác, nếu chúng ta lọai bỏ những cái lỗi thời, không còn phù hợp, và không được thực tiễn lịch sử chứng thực, và giữ lại, thậm chí tiếp tục phát triển những cái đúng của Mác chính là trung thành với Mác. Bởi biện chứng của Mác là tôn thờ chân lý. Tất cả chúng ta đều là những người theo Chân lý chủ nghĩa, tức đều là môn đồ tôn thờ Chân lý. Đạo giáo của loài người là đạo Chân lý. Mọi loại tôn giáo, tín ngưỡng rồi sẽ quy tụ, và thực chất đã, đang và sẽ mãi mãi quy tụ về Đạo Chân lý.

Bình đẳng, bác ái, “công bằng, dân chủ, văn minh” không phải là mục tiêu hướng tới của riêng đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là sự vận động tất yếu của nhân loại, bởi vì bình đẳng, công bằng, bác ái là nguyện vọng, là ý chí của số đông, nó là sự cân bằng, là trạng thái ổn định tạm trong sự vận động bất tận giữa các mặt trái ngược của xã hội loài người. Khả năng tự điều chỉnh, tự sửa chữa, tự thích ứng là bản năng của Tạo hóa. Bất cứ sự can thiệp thô bạo, duy ý chí, chủ quan nào của con người cũng sẽ là gây tổn thương, đổ vỡ cho xã hội.

Mác là một thiên tài, nhưng Mác cũng là một con người. Nhận thức của Mác cũng chỉ là sự phản ánh của một thực thể xã hội tại một thời điểm nhất định. Trong khi theo chính Mác, nhận thức là một quá trình không có điểm dừng và không có giới hạn. Einstein cũng là một thiên tài. Thuyết Tương đối của ông được coi là đỉnh cao nhất của trí tuệ loài người cho đến thời điểm hiện tại. Nhưng chính ông, khi giải phương trình Tương đối Tổng quát lại không tin rằng Vũ trụ đang chuyển động, cụ thể là đang giãn ra. Kinh hoàng trước phát hiện, ông đã phải đưa vào phương trình một hằng số, gọi là hằng số Einstein để làm cho nó ổn định, bất biến.Và chính cái cưỡng ép chủ quan, duy ý chí ấy đã thất bại. Alexandre Friedmann giải phương trình đó mà không có hằng số Einstein, đã chứng minh rằng vũ trụ không cố định, rằng vũ trụ là một thực thể trong chuyển động bất tận, nó đang nở ra để đến một lúc nào đó, khi lực hấp dẫn tới hạn, nó sẽ dừng và sau đó sẽ co lại tới sụp đổ, một cái Big Bang khác lại xuất hiện, và vũ trụ mới sẽ ra đời để tiếp tục vòng quay bất tận.

Mác có rất nhiều cái đúng, chủ nghĩa duy vật biện chứng là đúng, những quy kết bản chất bóc lột của chủ nghĩa lợi nhuận là đúng… nhưng không phải khi có nhiều cái đúng thì tất cả những cái khác đều đúng. Khái niệm về bóc lột đã thay đổi về chất với nền kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức. Luận thuyết về giai cấp, về sự tích tụ số lượng và vai trò tiên phong của giai cấp công nhân và tầng lớp lao động đã không đúng. Luận điểm về tính giai cấp tất yếu của Nhà nước là sai. Mâu thuẫn giai cấp chỉ là một trong số rất nhiều mâu thuẫn khác, trong quá trình đấu tranh sinh tồn của loài người khi đã phát triển thành xã hội, và không phải là mâu thuẫn đối kháng. Các tầng lớp khác nhau trong xã hội có mối quan hệ cộng sinh, đấu tranh lẫn nhau nhưng cần nhau, gắn kết với nhau để tồn tại.

Một Bill Gate có thể tạo ra việc làm, tạo ra thu nhập cho hàng trăm triệu người, bỏ hàng tỷ đôla một năm cho các tổ chức từ thiện, không phải là tư bản có bản chất bóc lột. Con người có bản năng vụ lợi. Cuộc đấu tranh sinh tồn là cuộc đấu tranh mưu sinh, là cuộc chiến truy tìm cơ hội và chiếm đoạt lợi thế. Đó là một cuộc chiến không dễ dàng. Nhưng ở cuối cuộc chiến, chỉ những người thất bại mới có chính nghĩa. Những người thành công trở thành giai cấp bóc lột. Những ông chủ của Google, của Microsoff, của Apple, đang bóc lột hàng tỷ lao động của nhân loại là đối tượng phải tiêu diệt của chủ nghĩa cộng sản?

Rõ ràng những quan niệm của Mác không còn đúng, và nhận thức của chúng ta phải thay đổi.

Thế giới đang không có ổn định. Nhưng hãy thử nhìn xem, những điểm nóng nhất trên mặt Địa cầu hôm nay là ở những đâu và nguyên nhân của nó là gì? Không khó để thấy rằng đó là những điểm, nơi đang tồn tại khủng hoảng đổ vỡ của nhận thức. Rối loạn đức tin của Hồi Giáo, níu kéo quá khứ của Đế quốc Cộng sản và sự hằn học Đại Hán. Tại sao châu Âu, nơi từng diễn ra hai cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại, lại là nơi hòa bình nhất, nơi có chất lượng sống cao nhất, có sức cuốn hút lớn nhất trên mặt Địa cầu. Đó là thắng lợi của nhận thức.

Tư tưởng Mác sinh ra từ châu Âu, gây loạn thế giới từ châu Âu, nhưng cũng tạo ra một châu Âu có những thay đổi lớn nhất, sâu nhất và chân chính nhất trong nhận chân lịch sử. Châu Âu đã từ chối, đã loại bỏ tư tưởng Mác, nhưng lại là nơi hiểu Mác nhất, cũng vì thế mà đang là nơi thành đạt nhất vì châu Âu đã biết cự tuyệt những gì sai ở Mác, và biết tự điều chỉnh mình theo những gì Mác đúng. Châu Âu không theo một thứ chủ nghĩa nào, không thờ bất cứ một loại tư tưởng nào làm nền tảng, làm kim chỉ nam, nhưng châu Âu đã chứng minh khả năng thích ứng, khả năng tự hoàn thiện theo quy luật của tiến hoá là bản năng tự thân và tự nhiên. Đó phải là con đường của đảng cộng sản Việt Nam.

Thay đổi nhận thức, tự chuyển hóa theo cái đúng, theo xu hướng thời đại, không phải là thoái hóa. Trong chuyển động đi lên, những ai đứng lại chính là những kẻ thoái hóa.

Nếu chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn phát triển tột bậc của chủ nghĩa tư bản, và nếu chủ nghĩa tư bản được hiểu là từ sau cuộc cách mạng tư sản Pháp, lật đổ chế độc quân quyền chuyên chế của Loiuis XVI, và đánh dấu bằng Hòa ước Amiens năm 1802, thì đã qua ít nhất hơn 200 năm phát triển, khi mà năng suất lao động cá nhân có thể đạt tới như hiện tượng Bill Gate, có tài sản cá nhân tới 79,2 tỷ đôla (Forbes) mỗi năm làm ra một tài sản ròng 16 tỷ đôla, có nghĩa là năng suất bình quân của trên 16 tỷ người trên trái đất. Vẫn chưa có dấu hiêu làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Và tài sản cá nhân của những người giàu có trên thế giới, không kể những nhà tỷ phú có nguồn gốc Liên xô, Trung Quốc, Việt Nam, và có thể tới đây là CuBa, kà những nhà giàu chủ yếu bằng tước đoạt hoặc bằng đánh tháo tài sản quốc gia, chủ yếu giới giàu có thế giới hiện 1810 người và nắm giữ tới 6500 tỷ đôla, chiếm 1/10 tài sản toàn cầu, và đặc biệt là trong số đó, có tới 78% không phải là chủ công nghiệp, nghĩa là không giàu tài sản vật chất của tư tiệu sản xuất là nhà xưởng, thiết bị, tài nguyên, mà là sản phẩm trí tuệ.

Sau hơn 200 năm phát triển vũ bão, vẫn không có hiện tượng nào chứng tỏ sẽ có một chế độ tư bản tự chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa, để bắt đầu cho quá trình hình thành chế độ cộng sản, và sẽ không thể biết bằng cách nào, ai, đảng phái nào, lực lượng nào có thể quốc hữu hoá hay tối thiểu công hữu hóa tất cả những cái đó, để biến nó thành một chế độ sở hữu toàn dân, rồi tiến tới không sở hữu, có thể bằng tù đày, bằng đe tọa tước đoạt cuộc sống của họ, hoặc bằng thuyết giảng chủ nghĩa Mác để có thể những ép buộc những lao động trí tuệ tạo ra các sản phẩm theo ý đảng được không? 

Một nhận thức khác cũng cần nêu ra là quan niệm sai lầm về chức năng và vai trò của Nhà nước. Nhà nước được quan niệm là công cụ của giai cấp cầm quyền về thực chất là sai. Vì trước hết Nhà nước hình thành từ nhu cầu phân xử và hòa giải các xung đột trong đời sống xã hội. Nhưng các xung đột, cụ thể là các vụ kiện cáo. Trong khi các vụ kiện cáo bao giờ cũng xuất phát từ một sự bất công và sự bất công không bao giờ đến từ phía kẻ mạnh. Người giàu không bao giờ kiếm chuyện kiện người nghèo. Cho nên, về bản chất Nhà nước ra đời do nhu cầu bảo vệ quyền lợi cho phía yếu, phía thiệt thòi trong xã hội. Nhưng để có quyền lực với cả hai phía, Nhà nước dứt khoát phải giữ được vai trò trung gian trung lập, tức là có tính Trung tính. Nhà nước vô sản, biến công cụ quyền lực nhà nước thành công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp mà đảng đại diện, bảo vệ an toàn cho chính tổ chức đảng là phá huỷ chức năng nguyên thuỷ và cơ bản của Nhà nước, biến nhà nước trở thành đối đầu với xã hội.
Quan niệm nhà nước Việt Nam do đảng cộng sản, đương nhiên là tài sản của riêng đảng cộng sản. Quân đội và Công an là hai ông cụ đo đảng thành lập, nuôi dưỡng phải là công cụ trong tay đảng có nghĩa vụ và trách nhiệm để bảo vệ đảng trước hết, là quan niệm lạc hậu, phản tiến bộ, và trước mắt là phản dân. Quyền lực của chính quyền là quyền lực của pháp luật do dân trực tiếp. Hiệu lực của pháp kuật chỉ có khi được dân thừa nhận. Khi không được dân thừa nhận thì cho dù không có biểu tình, không có tẩy chay công khai, trên thực tế, luật pháp, tức quyền lực của chính quyền đã bị phủ nhận.

Sự hỗn loạn mà hiện tượng “trên bảo dưới không nghe”phổ biến hiện nay chỉ là phản ánh tính hiệu quả của quyền lực từ trên xuống trong hệ thống, thực chất là sự bất tuân luật pháp của xã hội, là sự vô hiệu hoá toàn bộ hệ thống luật pháp không được phê chuẩn bằng đồng thuận của xã hội. Xã hội đang từ chối toàn bộ hệ thống luật pháp, bằng tự tạo ra các lực lượng tự giác tự giải quyết các xung đột của mình, từ chối các lực lượng đại diện của chính quyền. Bạo lực thiên vị, tham nhũng, chống lại đa số yếu đuối, thất thế và thiệt thòi đã xóa sổ quyền lực thực tế của nhà nước. Có thể bằng trấn áp quyền bộc lộ tự do, chính quyền và bộ máy quyết định quyền lực của chế độ, tập trung trong bộ chính trị, bao bọc trong tháp ngà, vẫn ngủ yên ảo tưởng sự phẳng lặng yên bình của chế độ. Nhưng xã hội đang chuyển, vẫn chuyển động, và sự chuyển động ấy không theo ý của đảng.

Phải thấy rằng ảo tưởng lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo để hướng nền kinh tế thị trường tới xã hội chủ nghĩa, là một sự cố chấp ngoan cố và lạc hậu của một vài cá nhân trong đảng cộng sản. Không thể dùng làm chủ lực một lực lượng mà tính chất phản năng suất của nó đã được cả lý thuyết lẫn thực tiễn của lịch sử chứng minh. Nó không thể tạo ra năng suất bằng cách thủ tiêu sở hữu cá nhân. Nó không thể tạo ra năng suất bằng cách tiêu diệt lợi nhuận. Nó không thể tạo ra năng suất nếu từ chối cạnh tranh thực sự. Nó không thể tạo ra sức mạnh chỉ bằng cách dồn một lượng tài sản khổng lồ của quốc gia vào tay những cá nhân không có tài sản bảo lãnh, trong khi nắm giữ một tài sản không phải của mình và năng suất lao động, lợi nhuận cuối cùng không hoàn toàn liên quan trực tiếp tới đồng lương có hạn ngạch của mình, càng tìm cách tăng quyền tự chủ cho các tổ chức kinh doanh loại này, càng giúp cho họ cơ hội để biến tài sản quốc gia thành tài sản cá nhân, kết quả của sản xuất, những người này sẽ là những người tìm cách hưởng đầu tiên.

Phải bán tất cả các DNNN cho xã hội. Phải có tổ chức và cơ chế kinh doanh tư hữu mới đem lại hiệu quả đồng vốn, hiệu quả sử dụng nguồn lực quốc gia. Nhưng tư nhân Việt sau hai cuộc chiến tranh gần nửa thế kỷ, sau tất cả những sai lầm của đảng cộng sản thực chất đã trở thành vô sản. Hiện nay, có nhiều đại gia, nhưng nguồn lực ban đầu, có đặc điểm tham nhũng. Vốn tư bản ban đầu thường được tạo ra từ sự kết hợp với quyền lực, thậm chí chỉ là công cụ che đậy tham nhũng của quyền lực. Những tổ chức kinh doanh này giàu lên rất nhanh nhưng kinh nghiệm kinh doanh, tri thức kinh doanh mặc dù đã có trên 20 năm, còn rất sơ khai, do thực chất kiếm lợi chủ yếu bằng lợi thế từ chính quyền, chiếm đoạt các ưu thế không bằng kỹ thuật. Những đại gia thực sự, có bản lĩnh và trình độ kinh doanh khả dĩ thi thố với thế giới chỉ có những đại gia gốc Hoa tại Sài Gòn. Phải bằng cách nào đó sử dụng được lực lượng này có ý nghĩa rất lớn. Tuy vậy quan điểm dân tộc hóa các doanh nghiệp là quan điểm phải được khuyến khích và phải tìm ra giải pháp thực thi.

Một trong những giải pháp đó là bán các doanh nghiệp quốc doanh, cụ thể là những Tập đoàn quốc gia, trước hết phải được giành cho các doanh nhân người Việt. Nhưng trước hết là phải khảo sát năng lực quản trị, và khả năng bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Nhất là phải có tranh biện về chương trình chiến lược cụ thể của mình. Thứ hai, Doanh nghiệp phải có khả năng để bảo lãnh một phần vốn tối thiểu bằng tài sản của mình, đồng thời nhà nước bán tài sản quốc gia, thông qua bán cổ phần bằng cơ chế đặc biệt, tức là không theo dạng tiền trao cháo múc như bán nhượng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các Cheabol ban đầu cũng hình thành tài sản của mình như vậy, nhưng không làm thất thoát tài sản nhà nước mà nhân nó lên rất nhanh, vì sau khi trả lãi vốn nhà nước, làm các nghĩa vụ xã hội, Doanh nghiệp toàn quyền sử dụng lợi nhuận.

Như vậy dồn lực cho các doanh nghiệp nhà nước là làm biến mất tài sản quốc dân, làm giàu bất chính cho tư nhân, và phá hoại cơ chế thị trường. Kinh tế nhà nước là chủ đạo và “ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản” (Nghị quyết IX), thực chất là sự phá hoại. Để có thể ngày càng chiếm ưu thế, thì nguồn lực chủ yếu của xã hội sẽ được dồn vào đấy, tức là tiếp tục bành trướng khu vực nhà nước, tức là khu vực mà tài sản không biết là của ai, và nó sẽ nhanh chóng biến mất vào cái túi không đáy của lòng tham. Và doanh nghiệp tư nhân với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ bị dồn vào góc, hay bị đẩy lên vỉa hè. Nhưng cả Tổng bí thư lẫn Thủ tướng chính phủ vẫn năn nỉ Mỹ và châu Âu công nhận nền “kinh tế định hướng XHCN” này là nền kinh tế thị trường. Có cái gì ấu trĩ và ngây ngô hơn thế. Một nền kinh tế có gần ba thế kỷ phát triển có thể không trí tuệ bằng một nền kinh tế nửa nạc nửa mỡ mới có vài chục năm kinh nghiệm.

Bằng cách nào để tiến hành công hữu hóa. Khác với trước đây, khi đảng cộng sản còn có thể nhân danh cách mạng để có chính danh và để có lòng dân, lịch sử đã không đứng một chỗ. Đảng sẽ không còn sự ủng bộ của lao động để làm lại lần nữa một cuộc cách mạng vô sản. Sẽ phải dự tính một cuộc nội chiến, và thất bại chắc chắn không phải dân.

Đảng cộng sản có thể tự thay đổi bằng cách tự chia đôi thành hai phe đối trọng cho nhau. Hai phe gọi là bảo thủ giáo điều và cải cách cấp tiến thực ra đã và đang sẵn có trong lòng đảng. Ai cũng đã thấy, và mọi người cũng đã thừa nhận sự tồn tại của nó là nhu cầu khách quan, là tất yếu, chỉ còn việc công khai tách nó ra và tuyên bố thành hai đảng riêng làm đối trọng cho nhau như Dân chủ và Cộng hoà của Mỹ vậy. Tuy hai mà là một. Một thứ quân xanh, quân đỏ. Những tội phạm của quá khứ sẽ không bị hồi tố. Tài sản chiếm đoạt không bị ai chất vấn, truy nguồn, vì hai đảng dẫu công khai đấu đá lẫn nhau, cũng có cùng xuất xứ tức có cùng lý lịch tư pháp. Đây là giải pháp ít tốn kém và ít thiệt hại nhất.

Đảng cộng sản tự đổi tên thành một đảng khác, đảng Xã hội tiên tiến chẳng hạn. Vẫn theo đuổi mục tiêu xã hội cộng sản nhưng không lấy nguyên si Mác làm nền tảng tư tưởng, và không lấy nguyên si Lê nin làm quy phạm hành động. Đảng sẽ tự do làm kinh tế thị trường mà chẳng phản bội ai cả. Và vẫn theo chế độ phân phối bình đẳng, công bằng, mà không cần phải công hữu hóa toàn bộ xã hội.

Duy vật biện chứng nói, lịch sử là sự nghiệp của quần chúng, nhưng cá nhân có vai trò quyết định. Nó thúc đẩy lịch sử khi đi cùng chiều với tiến bộ. Ngược lại, nó là vật cản có khả năng làm chậm, thậm chí kéo lùi lịch sử, khi nó chống lại quy luật. Cá nhân con người Nguyễn Phú Trọng, như chúng ta đã kết luận ở phần trên, là con người không thể tự thay đổi, đang là nhân tố cản phá quá trình cải cách. Con người này phải được gạt bỏ và thay vào đó một cá nhân mới, tích cực và nắm bắt được quy luật, để quá trình tự cải cách của đảng cộng sản Việt Nam đi đến thắng lợi.

Có một lựa chọn nữa, con đường nữa là sự đào thải.

Nếu đảng cộng sản vẫn không tự chuyển hoá, nghĩa là vẫn ngồi yên đấy, thì vẫn sẽ có thay đổi, nhưng là sự thay đổi không bình thường, sự thay đổi gọi là không miễn phí. Gần 40 triệu công dân mạng, là 40 triệu nhân tố mới, cùng với một xã hội dân sự đã hình thành đang dần trưởng thành, với một tầng lớp trí thức mới đang thoát ly dần sự ràng buộc cơm cháo với ý thức hệ,  một đội ngũ lao động không có dính líu gì tới “công” ơn của đảng, một giới chủ doanh nghiệp đang vật vã đòi quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh và truy tìm cơ hội… sẽ là chủ nhân một xã hội mới, một xã hội không bị gọi là quái thai của lịch sử, trong đó tất nhiên vẫn có mặt đảng cộng sản, nhưng vai trò lãnh đạo thì còn tuỳ lòng dân. Nhưng phải cam kết với nhau trước rằng, con đường này, hay giải pháp này, khi đi đến dân chủ không bằng sự cộng tác, thậm chí buộc phải thắng sự cản trở của đảng cộng sản, sẽ không tránh được việc phải xem lại, việc tính sổ với đảng. Và đó là cái giá đảng cộng sản sẽ phải trả. Nghĩa là, với giải pháp thứ hai này, những gì đảng cộng sản cướp đi của lịch sử dân tộc, đảng cộng sản sẽ phải trả. Những gì ông Dũng có hôm nay, có thể chưa chắc là có mãi mãi.
  
Kết luận

Liệu đảng cộng sản Việt Nam có thay đổi hay không là một câu hỏi lớn. Những cơ sở cho những luận điểm của nó trên thực tế là những đề tài cần có sự nghiên cứu nghiêm túc và thận trọng. Tuy nhiên, việc chờ đợi những nghiên cứu để có những kết luận xác đáng đòi hỏi thời gian. Nó sẽ không còn tính thời sự và có thể đối tượng của nó sẽ không còn là đông đảo bạn đọc, với thời lượng giành cho loại sinh hoạt này thường không nhiều.

Tuy nhiên, cố gắng của người viết là không quá tham lam vào dữ liệu, sa đà vào khu vực lý luận thuần tuý, việc làm này tự nó phơi ra sự nông cạn và lỏng lẻo trong những nhận định, nhưng ý nguyện của người viết không hề che đậy là khẳng định rằng tư tưởng Mác không hoàn toàn đúng và có điểm có thể xem là phản động, chống lại tiến bộ.

Đảng cộng sản Việt Nam khi kiên trì lấy một loại tư tưởng của một cá nhân sống cách đây gần hai trăm năm làm nền tảng tư tưởng của mình, là phản ánh sự chết cứng trong tư duy chính trị, đã biến đảng trở thành vật cản của tiến bộ xã hội, trái ngược với ước nguyện của dân tộc. Đảng này nhất định phải cải cách, phải thay đổi, hoặc bằng con đường tự cải cách trong hòa bình, hoặc bằng đón nhận sự đào thải bằng bạo lực không vũ trang của quần chúng. Tuy nhiên sự đào thải nào cũng để lại tổn thương, và tổn trhương lớn nhất là hận thù, là chia tách dân tộc. Lịch sử Việt Nam đã quá đau thương từ hận thù và chia cách. Bốn triệu người con tha hương, hơn 40 năm vẫn đau đáu một đường về.

Không một tâm hồn đơn độc nào không chờ ngày sum họp. Không một người Việt nào không thèm khát hoà vào dòng người trên con đường chung của nhân loại. Loài người vẫn đang đi trên con đường tự nhiên từ ngàn xưa, tại sao tự tìm cho mình riêng một con đường. Con Đường đó “có đâu mà tìm”?

------------------
Mời xem lại:

Liệu Việt Nam có thể tự cải cách: 





No comments:

Post a Comment

View My Stats