Theo
sử sách của Đảng Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản
Đông Dương và ngày 3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê. Ngày nay sự thật lịch
sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh
đã về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm trước, 2 tháng 9, 1969.
Cũng
vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập. Thực ra Việt Nam
chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9 không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu
Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949
do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11 quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được
độc lập bằng đường lối chính trị và ngoại giao, không bạo động võ trang và
không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Tháng
hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng
Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những thành quả đã đạt được trong nửa
thế kỷ vừa qua, và tự ban cho mình tư cách độc quyền lãnh đạo quốc gia từ trước
tới nay và từ nay về sau.
Gạt
bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ căn cứ vào những
tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lý để đưa ra những nhận định liên quan
đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản.
Dưới
chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động võ
trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên bình diện dân tộc
đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ phải
hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương:
-
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt Nam trong 8 năm
(l946-l954)
-
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ
và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và
-
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong 10 năm, chiến tranh Miên
Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc.
Trong
số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đấu tranh bạo động võ trang và liên
kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả 11 quốc gia khác đã đấu tranh ôn
hòa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để giành tự trị trong giai đoạn đầu
và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ đã tiết kiệm được nhiều hy sinh
xương máu và thời gian giành độc lập được rút ngắn còn từ 1 đến 4 năm sau Thế
Chiến II, thay vì 40 năm như trường hợp Việt Nam.
Năm
1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ
Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các Đế Quốc Tây
Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Từ đó trào lưu
tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến của các Đế Quốc Tây
Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đã trả chủ quyền độc lập cho Canada tại
Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á.
Năm
1941, khi Thế Chiến II còn đáng tiếp diễn, theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ
Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ Pháp Hòa Lan đã hội nghị tại
Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây Dương theo đó các thuộc địa
và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh kết thúc.
Mùa
xuân 1945, với sự đầu hàng của Đức Quốc Xã, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị
San Francisco để thành lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết
trong Điều Thứ Nhất và Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Trung
thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945,
trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần
lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu:
Độc
lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp.
Độc
lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.
Độc
lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc Anh.
Độc
lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà
Lan.
Như
vậy lịch sử đã chứng minh rằng, tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không
liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành
tự trị và độc lập cho quốc gia. Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để
đấu tranh võ trang nhằm lật đổ các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược.
Vì đây không phải là chiến tranh giành độc lập mà là chiến tranh ý thức hệ
giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết
nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều
Tiên, 3 triệu tại Việt Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn đã hy
sinh thân sống, không phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản
cướp chính quyền.
CUỘC
ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP
Trung
thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa
dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành độc lập vì quốc gia dân tộc và
không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh tối hậu, một mục tiêu chiến
lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ hy sinh nào, kể cả việc hy
sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch sử đã chứng minh rằng Đảng
Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như một chiêu bài, một chiến
thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính Quyền. Họ đã chống đối và
phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia.
Tại
Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier và Hội Đồng các Chính Đảng
(lãnh đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về
chính sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc
địa tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về
độc lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn
hóa và một ngôn ngữ).
Đặc
biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã
chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc.(1)
(Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332).
Chủ
quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949 ký
kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.
Hiệp
Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các quốc
gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và hòa ước quốc tế đếu do
các ngoại trưởng ký. Riêng Hiệp Định Élysée đã được chính Tổng Thống Vincent
Auriol tự tay ký, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại Trưởng
Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại
Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan toàn độc
lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 đã bị
Hiệp Định Élysée bãi bỏ.
Cũng
trong năm l949 Trung Cộng đã dùng võ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo
sách lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc
nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Trìêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc
Tây Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại
âm mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản.
Chiếu
Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc gia liên kết với Pháp
trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có nghĩa vụ an ninh hỗ
tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an ninh quốc nội (nội loạn) và an
ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã vụ phải mang quân hay điều quân
để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của
Thế Giới Dân Chủ.
Mặc
dầu vậy Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này. Họ tiếp tục chiến đấu võ
trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo quốc gia.
Để
vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Pháp
đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc địa. Do đó họ phải chiến đấu
võ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc gia.
Đây
là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ năm 1947 các Hội Đồng Chính Phủ
và Chính Đảng Pháp đã quyết định không tái lập chế độ thuộc địa tại Á Châu và
tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Trước đó, năm 1946, Pháp
đã trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của Hiến Chương Đại Tây Dương
1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong năm 1947, như đã trình bầy,
Pháp đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3,
1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc Hội Pháp đã chính thức thừa nhận
chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia Việt Nam.
CUỘC
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Năm
l975 Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế công
pháp, Quốc Gia Việt Nam đã được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định
Élysée ngày 8-3-l949.
Một
tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết, ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam
Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ
Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45 phiếu thuận và 6 phiếu chống).
Tuy
nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và đã phá hoại nền thống nhất
này. Vì Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Do đó họ vẫn
tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định Genève chia đôi đất nước để cướp
chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản,
họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn tính Miền Nam năm l975.
Kể
từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đã thay thế Pháp để thống trị
Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng Miền Nam và thống nhất
đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì quân đội Hoa Kỳ
chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải để thống trị hai quốc gia này
mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Tấm
bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu để tạo lập nên hồi đầu thế
kỷ 19. Sau này, vì yếu thế, chúng ta phải nhượng cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm
1949 đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc tự quyết để thâu hồi chủ quyền
lãnh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến
tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính
quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng chiến tranh võ trang, Đảng Cộng
Sản đã cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại
và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công thống nhất đất nước!
Chúng
ta đưa ra những nhận định này trên cương vị người nghiên cứu sử học và luật học,
chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền cho một chủ thuyết hay một chế độ
chính trị nào.
CÁC
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU
Muốn
có cái nhìn khách quan và trung thực, chúng ta hãy đối chiếu công cuộc đấu
tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại
Á Châu.
Sau
Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu, chỉ có
3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương là đã đấu tranh
võ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công Sản. Trái lại các đảng quốc
gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ trương đấu tranh ôn hòa, không bạo động và
không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Một
năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ,
Pháp, Anh và Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 nước thuộc địa,
bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.
1946:
Phi Luật Tân độc lập
Hoa
Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa. Nguyên là một cựu thuộc địa,
Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm
tình với những phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Á Phi.
Đầu
thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lãnh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh
Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật
Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act
công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị (dominion) từ 1935. Trong đạo luật
này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau, đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7,
1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh
Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày
4-7-1946 (trễ một năm vì lý do chiến cuộc).
Trong
thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái
Bình Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư Roxas hoạt động tình báo cho Tướng
McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp
Tác” (Independence through Cooperation).
1946:
Syrie và Liban độc lập.
Nếu
Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia
có truyền thống Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.
Tại
Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là Đảng Nhân Dân tại
Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đã từng du học tại Paris, nơi đây ông
hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương duy trì thuộc địa còn có Đảng
Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa.
Năm
1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng Xã Hội Léon Blum ký hiệp ước
với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia này. Và 10 năm sau, năm 1946
quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập cho Syrie và Liban (Thời
gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của Staline).
1947:
Ấn Độ và Đại Hồi độc lập.
Sau
các Đế Quốc Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế
Chiến II, Anh Quốc đã thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim
chạy từ Bắc Mỹ qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự
hào nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế
Chiến II, năm 1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.
Tại
Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi,
Nehru và Jinnah. Các vị này đã từng du học tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng,
bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì thuộc địa, còn có Đảng Lao Động Anh chủ
trương giải phóng lao động và giải phóng thuộc địa như Đảng Xã Hội Pháp.
Năm
1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua
năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan và Palestine, mặc dầu mọi phản
kháng của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ.
Khác
với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ chủ trương đấu tranh công khai,
ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng ngoại và nhất là không liên kết với
Quốc Tế Cộng Sản.
Với
một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20 triệu ở Việt Nam năm 1945), trong
một xã hội chậm tiến, nghèo đói, thất học, với những mâu thuẫn trầm trọng về
tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ
10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Ấn Độ đã
giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi dân tộc ta đã phải hy sinh
xương máu ròng rã trong 40 năm.
1948:
Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập.
Người
anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ bà Aung San Suu Kyi hiện lãnh
đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như Gandhi, Aung San tình nguyện
chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn
Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...
Năm
l948 Miến Điện được trao trả độc lập.
Tại
Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập sự tự trị là 15 năm. Với chủ
trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích
Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc lập năm l948. Cũng trong năm này
Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.
1949:
Nam Dương độc lập.
Sau
các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan tự giải thể năm l949. Phong
trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi giới trí thức du học Hòa
Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động võ trang thì Đảng Quốc
Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động bằng canh tân và giáo dục.
Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam
Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan
và Luật Sư Sjahrir đã từng gia nhập Đảng Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học.
Năm
1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu
hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan
theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội Nhật, Sukarno chủ trương thương
nghị với Hoà Lan.
Trong
những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương phát động chiến đấu võ trang để
phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng
Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ
Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời
hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có trọng lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn
Tròn La Haye được triệu tập dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949,
do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2)
STALINE
THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT
Như
vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan
đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc địa Á Châu.
Trong
khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô Viết bằng cách thôn tính 3 nước
Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại
7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie,
và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến tranh ý thức hệ bộc phát giữa
Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ.
Các
nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman, Churchill và De Gaulle nhất quyết
không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở
rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông Á.
Riêng
tại Việt Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì
Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương.
Cũng
vì vậy hồi tháng 12-1945 De Gaulle đã mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới
Paris thương nghị.
Nhiều
tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về
nước đầu năm l946. Trước đó, hai bên sẽ ký một hiệp ước công nhận Việt Nam là một
quốc gia tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp.
Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc
này Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn phải ở
lại Việt Nam một thời gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt
Nam giải quyết các vấn đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại
(ngoại xâm). Theo quy chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an
ninh hỗ tương. Do đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam,
đồng thời là biên cương của Liên Hiệp Pháp.
Rất
tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đã tử nạn máy bay trên sa mạc Trung Phi
trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều người cho đây là vụ phá hoại.
Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là vì "hết xăng". Đây là một nguyên nhân
hy hữu vì không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu máy bay không chứa đủ
săng nhớt.
Việc
Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam cũng như cho Pháp. Vì nếu đầu
năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia giành tự trị, độc lập và thống
nhất cho Việt Nam thì chiến tranh Việt Pháp sẽ có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ
không còn được độc quyền yêu nước và có lẽ chẳng còn ai muốn gia nhập Đảng Cộng
Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ có 5 ngàn đảng viên).
Lúc
này Đảng Cộng Sản Pháp đã thông báo cho Staline và Hồ Chí Minh biết De Gaulle
đã có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng vì vậy, ngày 11- 11-1945, Hồ Chí
Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Rồi thành lập chính phủ liên hiệp
quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và
Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam) để làm bình
phong thương nghị với Pháp.
Ngày
6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ
Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De Gaulle đã thỏa thuận với Duy
Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong Liên Bang Đông Dương và trong
Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5
năm.
Sau
đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đã đến nhà riêng của Moutet để xin ký
Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng
Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp).
Tuy
nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã từ nhiệm, các nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ
vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Theo
chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động chiến tranh võ trang ngày
19-12-1946.
Bằng
hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đã vi phạm Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa
Ước Tạm Thời Moutet.
Do
đó, 3 tháng sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các
Chính Đảng Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam,
theo đó Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập
và thống nhất.
Ngoài
ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp đã chính thức đăng ký 3 nước
Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập.
Như
vậy từ năm 1947 Pháp đã quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam
và đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt
Nam không được gia nhập Liên Hiệp Quốc vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử
quyền phủ quyết.)
Năm
1947, nếu Hồ Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết
đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, thì ông ta đã phải
ngưng chiến cho phe quốc gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước
để giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam.
Tuy
nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc không phải là
nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến tranh võ trang để phá vỡ mọi
giải pháp độc lập quốc gia.
Mặc
dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành với Quyết Nghị của các Hội Đồng
Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947.
Tháng
12, 1947, Cao Ủy Bollaert ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại
để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức
hóa bởi Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 ký kết giữa Cao Ủy Bollaert
và Chính Phủ Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp
Ước này Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự
do tiến hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự
Quyết.
Và
tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol, nhân danh Tổng Thống Cộng
Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp
Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam Thống Nhất và Độc Lập trong Liên
Hiệp Pháp.
Do
Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và
sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
Ngày
6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp Định Elysée về
khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam. Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê
chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong
tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam
do Chính Phủ Bảo Đại đại diện.
Chúng
ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền
quốc gia. Vì các nước Ấn Độ, Đại Hồi, Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v.v...
cũng là những quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Anh.
Về
mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949 Việt Nam không gia nhập Liên Hiệp Pháp thì
quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam (như tại Syrie và Liban năm
1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng
Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương.
Khách
quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt
Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên Pháp là những người am hiểu phong
tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại có những kinh nghiệm về khai thác
nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây cất cầu cống, đường sá, sông ngòi, hải
cảng, cồn đảo... Ngoài ra họ còn có thể cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền
giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện đại và một nền tư pháp độc lập để
tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp trị.
Về
mặt phát triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng
hóa và các nông, lâm, khoáng sản... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp
Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam.
Nhưng
rồi Đảng Cộng Sản đã đưa dân tộc ta vào con đường chông gai chết chóc trong suốt
40 năm (từ 1949 đến 1989).
Đại
hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ Nghĩa Dân Tộc.
Đại
bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ Nghĩa Cộng Sản
HIỆP
ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH HÒA BÌNH PARIS.
Chiến
Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Genève ngày
20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm
ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice Agreement).
Hiệp
Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có tác dụng “đình chiến và ấn định
một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới tuyến thuộc quyền kiểm soát của
quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ trách việc quản trị hành chánh.
Vì
là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang chữ ký của 2 tướng lãnh: Đại
diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu (là người đã ký cả 3 Hiệp Định
Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp
Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri Delteil đại diện.
Vì
không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không ký vào Hiệp Định Genève.
Quốc
gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu Hiệp Định Elysée 1949, Việt Nam là một hội
viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến tranh, quân đội Việt Nam và quân
đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham
Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một
tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng. Vì Hiệp Định Genève là một hiệp ước
thuần tuý quân sự, nên về phía Liên Hiệp Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh
hành quân Henri Delteil là đủ.
Ngày
hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ
chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên tuyên ngôn không phải là hiệp ước. Vì
đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý Định (declaration d’intention) không mang chữ ký của
bất cứ phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lý (Cũng như
các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày
2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945).
Vả
lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc GiaViệt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng
Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đã ra tuyên cáo minh thị phản kháng sự áp đặt các
giải pháp chính trị trong một hiệp ước quân sự, mà không có sự thỏa thuận của
phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.
Hiệp
Định Đình Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là một bản hiệp ước thuần tuý quân
sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên,
vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống
nhất Nam Bắc là một vấn đề chính trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc
gia ấn định sau này (như trường hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải
pháp chính trị). Do đó Việt Nam Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước
từ tổng tuyển cử năm 1956.
Hiệp
Định Hòa Bình Paris 1973 (Paris Peace Agreement) trái lại, là một hiệp ước ngoại
giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về mặt nghi thức nó mang chữ ký của
các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết ước:
Trần
Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Williams
Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
Nguyễn
Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng
Chính Phủ Lâm Thời “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
Điều
15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy định rằng: “Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực
hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên căn bản thương nghị và thỏa thuận
giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng ép bên nào, không bên nào thôn
tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận”
[theo nguyên tắc nhất trí]
Vậy
mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ ký của họ còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động
chiến tranh võ trang để thôn tính Miền Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến
trường, thương nghị thỏa thuận đã bị bạo lực cưỡng chế, và phương pháp hòa bình
đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ.
Đây
là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Hòa Bình Paris.
Luật
pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi luật rừng xanh.
KẾT
LUẬN
Nói
tóm lại:
1)
Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm chiến lược khi theo
Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta phải hy sinh
xương máu ròng rã 40 năm.
2)
Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 vì Việt Nam đã được độc lập
từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée.
3)
Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 vì Việt Nam đã được thống
nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để
sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc lập và thống nhất.
4)
Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc chiến tranh
vô ích, vô lý và vô nghĩa.
5)
Vì vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống để độc quyền
lãnh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân được quyền mưu
cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân quyền và nhân quyền
được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công bằng xã hội được thực
thi.
______________________________________
Chú
thích:
(1)
Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp
đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương Việt Miên Lào là những quốc gia độc lập
tại Liên Hiệp Quốc (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332).
Declaration on decolonization. Date in parentheses shows the year of
independence: Indochina comprising Cambodia, Laos and Vietnam (1947).
(2)
Hai quốc gia còn lại Mã Lai và Tân Gia Ba trong Liên Bang Mã Lai Á. Năm 1948 Đảng
CS Mã Lai lập chiến khu chiến đấu võ trang. Để dẹp nội loạn, chính phủ Anh ban
hành tình trạng thiết quân luật. Từ năm 1952 Đảng Quốc Gia Mã Lai đưa ra chủ
trương “độc lập do hợp tác chủng tộc” kết hợp các sắc dân Mã Lai, Trung Hoa và Ấn
Hồi. Luật Sư Abdul Rahman đã từng làm phó chưởng lý tại Anh. Abdul Razah phục vụ
trong quân đội Hoàng Gia Anh thời Thế Chiến Hai. Sau 5 năm tự trị, Mã Lai được
độc lập năm 1957.
Năm
1965 đến lượt Tân Gia Ba được giải phóng do chủ trương ‘’độc lập nhờ liên lập’’
(với Mã Lai trong Liên Bang Mã Lai Á). Luật Sư Lý Quang Diệu đã từng gia nhập
Luật Sư Đoàn Luân Đôn và Đảng Lao Động Anh trong thời gian du học. In 1963,
Singapore joined The Federation of Malaya. Singapore became independent in
1965.
No comments:
Post a Comment