28-12-2012
Trong tâm thức của người Việt, mùa xuân được coi là mùa của sự
khở đầu, của sự phát triển, sự hồi sinh của cuộc sống mới và một chu kỳ sống
mới lại bắt đầu, mặc dù mùa đông ở Việt Nam không quá lạnh giá và khắc nghiệt
như ở một số nước ở hai đầu địa cực nhưng mùa đông cũng được xem là mùa sự kết
thúc, của u buồn bởi sự sống của muôn vật dường như ngưng trệ trong chu kỳ này
của thời gian. Chính vì vậy mà người Việt chúng ta tổ chức lễ đón mừng năm mới
vào Tiết Nguyên Đán, mà dần dà bị biến âm thành Tết Nguyên Đán hay Tết, là lễ
chào đón tân niên và bắt đầu cho một mùa lễ hội mới: Mùa Xuân.
Cũng bởi tâm thức này mà ngay khi vừa giành được độc lập ngắn
ngủi thoát khỏi ách thống trị của Nhà Lương là Lương Vũ Đế vào tháng 2 năm 544,
Lý Bí đã xưng là Lý Nam Đế và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân với ước vọng đất nước chúng ta trường tồn mãi mãi.
Tất nhiên sự trường tồn của đất nước, của dân tộc không chỉ là
ước vọng riêng của vị Hoàng Đế khai sáng nhà tiền Lý, mà đó cũng là ước vọng
của toàn dân Việt. Cũng bởi ước vọng đó về một đất nước Vạn Xuân mà bao thế hệ
cha ông chúng ta đã không tiếc máu xương, đã ngã xuống, vì nền độc lập, vì sự
trường tồn của nòi giống.
Lịch sử Việt tộc đã gắn liền với nhiều mùa xuân với những chiến
công oanh liệt hào hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Trong tinh thần
ôn cố, tri tân, trong dịp xuân về này, chúng ta hãy điểm lại những mùa xuân cả
hào hùng cả bi thương của dân tộc để chúng ta, những người Việt xa xứ và cả các
thế hệ cháu con của chúng ta nữa sẽ không quên được bởi ai, vì đâu và tại sao
chúng ta phải có mặt ở nơi này. Để chúng ta có thể đoán định về một tương lai
cho mình, cho đất nước, cho dân tộc. Để chúng ta có thể hy vọng cho một mùa
xuân hào hùng mới nữa của lịch sử dân tộc, đang đến, sẽ đến để chúng ta, những
người Việt xa xứ, sẽ không còn phải sống đời lưu vong rồi phải gửi lại nắm
xương tàn nơi xứ lạ, và đồng bào của chúng ta ở quốc nội cũng sẽ không còn sống
đời lầm than, đói nghèo, tủi nhục và nhược hèn dưới ách thồng trị của bạo
quyền.
Trước
tiên là những mùa xuân hào hùng của dân tộc:
Có lẽ mùa xuân hào hùng đầu tiên của Việt Tộc là mùa xuân năm Đinh Tỵ 1077 với chiến
thắng trên sông Như Nguyệt, Bắc Ninh khi Lý Thường Kiệt đánh bại đại quân xâm
lược của nhà Tống là Tống Chiêu Ninh do Chiêu thảo Sứ Quách Quỳ và Triệu Tiết
thống lĩnh, diễn ra từ ngày 18 tháng 1 đến đầu tháng 2 năm1077. Với chiến thắng
này, quân dân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến phạt Tống, Bình Chiêm lần thứ II từ 1075 đến1077.
Mùa
xuân năm Mậu Ngọ1258 diễn ra cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ I, trong đó
nhân dân làng Xối Đông xã Trung Đông, huyện Nam Ninh, Nam Hà đã tổ chức ba đồn
binh cùng với một cánh quân của Nhà Trần đã đánh tan một đạo quân của Ô Mã Nhi
ở cầu Vô Tình, khi chúng sang sông cướp phá, rồi tiếp theo là cuộc phản công
bằng trận Đông Bộ Đầu ngày 29 tháng 1 năm 1258, đập tan âm mưu xâm lược Đại
Việt của quân Nguyên-Mông.
Mùa
xuân năm 1285 diễn ra trận phòng ngự ở Vạn Kiếp (2/1285) do
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy, đánh thắng quân Nguyên-Mông trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ II.
Mùa
xuân năm Ất Dậu1288, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng quân dân Đại Việt đã
tiêu diệt hàng vạn quân Nguyên-Mông do Thoát Hoan, Toa Đô và Ô Mã Nhi thống
lĩnh, trên đường rút chạy đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 2 vào ngày 9
tháng 4 năm 1288, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần III
từ 1287 đến1288.
Mùa
xuân năm Giáp Thìn1785 với chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút vào ngày 20 tháng 1 năm 1785
người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ cùng quân dân Tây Sơn đã đập tan âm mưu can
thiệp của phong kiến Xiêm La, mở đầu cho các chiến dịch bình định nước nhà, kết
thúc cuộc chiến Nam-Bắc phân tranh của Trịnh Nguyễn kéo dài ngót 100 năm, đã
gây ra muôn vàn đau thương mất mác cho nhân dân cả đàng trong lẫn đàng ngoài.
Mùa
xuân Kỷ Dậu 1789, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cùng mười vạn binh và 100 voi trận
đã đánh tan tành 20 vạn quân Mãn Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi, thống nhất nước
nhà sau hơn 100 năm loạn lạc chia cắt do sự phân tranh của Trịnh - Nguyễn.
Và
những mùa xuân bi thương trong lịch sự của dân tộc…
Từ mùa
xuân Canh Ngọ 1930 lịch sử Việt tộc bắt đầu đi vào những trang đen tối, dân Việt
lại trở về kiếp đói rách, lầm than của đêm trường nô lệ sau khi đảng cộng sản
Việt Nam ra đời vào ngày 03 tháng 02 năm 1930 mà bắt đầu là nạn đói kinh hoàng
nhất trong lịch sử của dân tộc vào mùa
xuân năm Ất Dậu 1945 với hơn 2 triệu đồng bào đã chết đói... Họ chết, chết
dần chết mòn kéo dài tận tháng 3 năm đó, trên khắp các tỉnh thành của miền Bắc.
Hai triệu người chết đói trong một mùa xuân của dân tộc báo hiệu cho một thời
kỳ bi thương, tối tăm và chết chóc dường như vô tận, báo hiệu cho một nguy cơ
bị đồng hóa, bị diệt vong của giống nòi, báo hiệu cho một đại họa mất nước… Nếu
người dân Việt cứ tiếp tục nhu nhược úy kỵ, cứ tiếp tục khom lưng cúi đầu cho
những người cộng sản cưỡi cổ, đè đầu, tiếp tục cho đảng cộng sản nắm quyền cai
trị đất nước. Bởi sau mùa xuân Canh Ngọ
1930, sau mùa xuân Ất Dậu 1945
với hơn 2 triệu người đã chết đói đó, thì đảng và nhà nước cộng sản Việt nam
còn ghi thêm vào sử Việt thêm nhiều mùa xuân đau thương và tang tóc nữa. Mà
khởi điểm có thể là từ mùa xuân năm 1949 khi đảng và và nước cộng sản Việt Nam
tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất kéo dài suốt 7 năm cho đến cuối năm
1956, trải qua 5 giai đoạn, đánh dấu bằng những sắc lệnh, ban đầu nhẹ nhàng và
mị dân, tiến dần đến sắt máu và triệt để với Sắc luật về Cải Cách Ruộng Đất do
Hồ Chí Minh ban hành ngày 14 tháng 6 năm 1955, cho phép nhà nước tịch thu toàn
bộ tài sản của những “tên Thực dân, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, Việt gian
phản động”, truất hữu đất đai của các tôn giáo, gọi là để phân chia lại cho
nông dân không đất, gia đình thương binh, chiến sĩ, liệt sĩ. Thành tích lớn lao
của công cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố địa chủ được báo cáo chính thức cho
chính phủ Hồ Chí Minh là tổng cộng chiến dịch cải cách ruộng đất, đảng và nhà
nước đã tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc, 810.000 hecta ruộng,
106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà với 172.008 nông dân bị
quy là địa chủ và 15.000 người trong số đó đã bị hành quyết tại chổ, số còn lại
bị đưa đi cải tạo và hãm cho chết đói dần dần… Thế nhưng chính việc quy định
thành phần xã hội, phân chia tài sản một cách bất công và với thâm ý tước đoạt
quyền tư hữu đất đai đã gây nên bao cảnh giết chóc cùng đổ vỡ. Và rồi những kẻ
được phân chia ruộng đất sau đó phải trả lại tất cả cho nhà nước qua Hợp Tác
Xã.
Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lẽ không biến cố nào đau
thương bằng sự kiện ấy: Đau thương vì đó là cuộc đảo lộn xã hội nông thôn Việt
Nam một cách toàn diện từ kinh tế, văn hóa đến luân lý do một chủ trương cải
tạo nông nghiệp vô cùng tàn nhẫn và phi nhân. Vì đó là cuộc tàn sát trực tiếp
lẫn gián tiếp xấp xỉ nửa triệu nông dân chỉ trong thời gian ngắn mà không cần
phải sử dụng đạn bom hay bất cứ một loại vũ khi chiến tranh nào. Kết quả mà
đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đạt được từ mùa xuân Kỷ Sửu 1949 này là sự
suy sụp nông nghiệp, tan hoang làng xóm, đổ vỡ tình người, băng hoại đạo đức,
một ách nô lệ mới được khoác lên toàn thể nhân dân miền Bắc: Nô lệ cộng sản.
Đến tận hôm nay, nhà cầm quyền CS vẫn tiếp tục tước đoạt quyền tư hữu đất đai của người dân, và các tòa án nhân dân vẫn tiếp tục là công cụ mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dùng để bịt miệng, trói tay, giam thân những ai muốn đòi công lý và sự thật. Cho nên việc chúng ta nhìn lại cuộc Cải cách Ruộng đất là một kiểu ôn cố tri tân trên tinh thần mọi người dân Việt cần phải biết sử Việt để có thể làm lại lịch sử cho dân tộc.
Mùa xuân bi thương tiếp theo mà đảng cộng sản mang lại cho đồng
bào Việt Nam là mùa Xuân Mậu Thân 1968.
Ngay vào thời điểm Giao Thừa, tức là thời khắc thiêng liêng nhất trong năm, khi
toàn dân đang hân hoan tiễn đưa năm cũ và đón mừng năm mới, tức là vào đêm 30
rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968, cộng quân Bắc Việt đã đồng loạt nổ súng tấn
công vào tất cả các đô thị miền Nam, mang đau thương, chết chóc cho hàng trăm
ngàn dân lành và binh lính của cả hai miền Nam Bắc ngay giữa những ngày đầu
xuân tưởng như thanh bình và an lạc với hiệp ước hưu chiến cho nhân dân hai
miền Nam-Bắc được vui xuân đón tết. Thương đau hơn cả là 7.000 dân lành ở Cố Đô
Huế bị giết chết một cách vô cùng oan nghiệt bằng hình thức đập đầu và chôn
sống.
Tội ác lại kéo theo tội ác, khi những nâm mồ của những nạn nhân
cộng sản bắc Việt ở Huế trong vụ thảm sát vào Xuân Mậu Thân 1968 vừa được cải táng chưa xanh cỏ, thì đảng và nhà
nước cộng sản bắc Việt lại tiếp tục mang đến cho đồng bào vùng tuyến đầu lửa
đạn thêm một mùa xuân đau thương nữa, đó là mùa xuân năm Nhâm Tý 1972, cộng quân bắc Việt đã vi phạm Hiệp định
Genève về Đông Dương năm 1954 đối với “Vùng Phi Quân Sự”: Cộng quân bắc Việt đã
xua quân tràn qua sông Bến Hải, tấn công, cưỡng chiếm thị xã Đông Hà, rồi tiếp
tục tấn công chiếm cổ thành Quảng Trị với một chiến dịch quân sự kéo dài từ 30
tháng 3 năm 1972 cho đến31 tháng 01 năm 1973 gây đổ nát hoàn toàn tỉnh Quảng
Trị mà sau khi tiếng súng tạm yên thì công việc thu lượm xác chết phải kéo dài
7 tháng trời mới kết thúc. Xin mọi người hãy dừng lại trong phút chốc để tưởng
niệm các đồng bào ruột thịt cùng các chiến sỹ của QLVNCH vì bảo vệ tự do cho
miền Nam mà đã đền nợ nước trong mùa xuânbi thương năm Nhâm tý 1972 đó, và xin
quý vị hãy tưởng tưởng xem bao nhiêu chục ngàn đồng bào của chúng ta đã ngã
xuống, để rồi công việc thu gom xác chết, do Báo Sóng Thần đảm nhiệm, đã phải
mất hơn nữa năm trời mới hoàn tất. Đây cũng là công việc để nhắc nhớ chúng ta
về tội ác mà đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã mang đến cho dân tộc cho đất
nước Việt Nam vón đã quá đau thương tang tóc vì chiến cuộc này.
VIDEO
:
Nhưng đã hết đâu! Chỉ sau đó đúng hai mùa xuân, thì cộng quân
Bắc Việt với bom mìn với xe tăng với đại pháo của Nga Sô và Trung cộng, đã ồ ạt
tiến quân đánh chiếm miền Nam vào mùa
xuân Ất Mão 1975, bức tử một chính phủ hợp hiến, hợp pháp có lãnh thổ từ Vĩ
Tuyến 17 đến Mũi Cà Mau, xóa bỏ một chính thể Cộng Hòa đã tồn tại 20 năm trên
trường quốc tế và đã mang đến cảnh chết chóc tang thương cho hàng triệu đồng
bào miền Nam cùng những chiến sỹ là con em của dân Nam đang cầm súng chiến đấu
vì nền tự do của Nam Việt. Đây là mùa xuân cuối cùng của người dân Nam, bởi sau
những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975 đó, ở miền Nam đã có hơn 1.350.000
người thuộc diện phải ra trình diện và đi cải tạo. Tính đến năm 1980 thì
Phạm Văn Đồng của chính phủ Việt Nam công nhận là chỉ còn 26.000 người đang còn
bị giam giữ trong các trại tù lao cải. Tuy nhiên, một số quan sát viên ngoại
quốc ước tính phải còn khoảng 300.000 đến 450.000 người vẫn đang bị giam cầm.
Chính Phủ Hoa Kỳ thì công bố rằng khoảng 165.000 người đã chết trong khi bị
giam giữ trong các trại cải tạo do đói khát, ốm đau và do bị tra tấn.
Đành rằng không có cuộc chiến nào mà không có mất mác hy sinh,
đành rằng không có cuộc chiến tranh nào mà không có nạn nhân của chiến cuộc.
Nhưng cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn vì muốn áp đặt nền cai trị cộng sản
chủ nghĩa lên toàn đất nước, để áp đặt ách nô lệ cộng sản lên toàn dân thì tàn
quả là quá tán ác! Hình ảnh của những đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa vùng
chiến sự đang ác liệt nổ ra, hay hình ảnh những em bé đang ôm bú bầu vú người
mẹ đã chết lạnh nhiều ngày vẫn thấy khắp nơi trên đường đi lánh nạn cộng sản
suốt dọc quốc lộ số 1… Hình ảnh những người cha, người mẹ thân đầy thương tích
đang thẫn thờ bên xác của những đứa con vừa tan tành vì đạn pháo của cộng quân
cũng dọc đường quốc lộ… là những hình ảnh quá thương đau mà chúng ta sẽ không
bao giờ quên được… Hình ảnh của những người tù cải tạo khô gầy như xác ve, thều
thào với các bạn tù là mong ước được một lần ăn no trước khi lìa đời… Và hình
ảnh của hàng chục ngàn nấm mồ hoang lạnh, đầy cỏ dại chung quanh các trại tù có
cho phép chúng ta quên được tội ác của cộng sản Việt Nam không… Hình ảnh những
con thuyền bé nhỏ của từng đoàn dân Việt đi tìm tự do đang chòng chành giữa đại
dương trong cơn bão tố với những xác người đã chết bên cạnh những người còn
sống trong tuyệt vọng, vô hồn bởi đã nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, không
nước uống không cơm ăn và lưỡi hái của thần chết đang chực chờ bên cổ họ từng
phút từng giây… có cho phép chúng ta quên đi cảnh thương đau của chính chúng ta
cũng như của cả dân tộc Việt Nam, bởi tội ác của những kẻ đã du nhập chủ nghĩa
cộng sản về để truy diệt giống nòi và tàn hại đất nước hay không? Khát vọng của
Lý Nam Đế về đất nước Vạn Xuân, về một đất nước trường tồn nay có còn nữa
không?
Theo quy luật tuần hoàn của vũ trụ, theo chu kỳ của Đất Trời,
một mùa xuân nữa lại về, nhưng đã 38 lần trong đời người Việt quốc nội không hề
có mùa xuân, bởi từ dạo 30 tháng 4 năm ấy, xuân là tang thương, là mất mác, là
chia ly. Xuân về tết đến, không phải chỉ người dân xứ Huế hiệp kỵ cho những
người thân của họ đã bị thảm sát cũng vào một mùa xuân gần 50 năm về trước mà
hàng trăm ngàn gia đình ở miền Nam cũng đều đớn đau, thương tưởng đến những
người thân yêu của họ đã chết một cách oan nghiệt trong những ngày xuân bi
thương của năm 1975, hay đã chết một cách mòn mõi thương đau trong các trại lao
cải… Còn chúng ta? Chúng ta đã có bao giờ nhẫm tính là đã có bao nhiêu mùa xuân
tha hương hương đến và đã đi trong đời của chúng ta rồi? Và có bao giờ chúng ta
nhắc nhở cho con cháu mình bởi đâu, do ai và tại sao chúng ta lại có mặt ở nơi
này để trở thành những người Mỹ da vàng hay những người Âu, người Úc tóc đen
mũi tẹt hay không. Hãy làm việc này, ít nhất là một lần vào mỗi độ xuân về,
cũng trong tinh thần ôn cố tri tân, để chúng ta mãi mãi không quên rằng chúng
ta là người Việt đang phải sống đời lưu vong vì những chuổi mùa xuân bi thương
mà đảng và nhà nước cộng sản đã mang lại cho dân tộc, và rằng đất nước của
chúng ta đã có một thời là đất nước VẠN XUÂN để liệu chúng ta sẽ có thể làm
được gì hầu khôi phục lại mùa xuân yêu thương và trường tồn cho dân tộc mình
hay không?
Mong sẽ không quên bao giờ…
Nguyễn
Thu Trâm
Nguồn: Vietluan.org
No comments:
Post a Comment