12:01:am
05/12/12
Chương
10
Buổi
sáng, từ chín giờ, Xã trưởng Bé chở ông Năm chủ tiệm hình “Bóng Tối”; cùng lão
Tôn, chủ tiệm may Tôn Tẩn, chuyên may áo veston, có nguồn gốc xuất phát từ
Paris – nhưng chưa hề thấy ai đặt may – từ dưới ngã ba Cải lộ tuyến, ngay cây
Dầu đôi, dẫn đầu đoàn quân xa của lính Bắc Việt, đợt thứ hai.
Đợt
này, quân đội Bắc Việt xuôi về Nam hàng trăm, đến hàng ngàn những chiếc xe
Môlôtôva của Nga, lẫn GMC của quân đội Mỹ bỏ lại. Có nhiều chiếc, kéo cả pháo
phòng không phía sau xe; cùng hàng chục ngàn bộ đội chủ lực chính quy, áo quần
còn nguỵ trang cây lá đeo đầy người. Họ xuôi từ hai phía. Một hướng từ Nha
Trang đi lên, hướng khác từ bên kia sông Cái, Đại Điền Đông tràn vô. Họ nhập
lại một thành đoàn quân, ngay cây Dầu đôi to lớn, tàn xum xuê có trên vài trăm
tuổi.
Họ
bắt đầu xuôi Nam,theo chỉ dẫn của lão Tôn trên cái loa vang rền.
Nhóm
du kích nằm vùng bên kia Đại Điền Đông nhìn đoàn quân xa vẫy tay reo hò.
Tuấn
nhìn thấy thầy Sinh, vai đeo miếng vải đỏ dẫn đầu đoàn quân.
Hồi
Tiểu học, Tuấn có học qua ông ở lớp Năm. Ông nổi tiếng dữ đòn với học trò. Quỳ
sơ mít là hình phạt nhẹ nhất của ông! Kế đến, là nằm trên con ghế ngựa dài, ông
khệnh vào mông những tên học trò đáng trừng trị, bằng cây thước bảng dài hơn
thước tây và rất dày. Hình phạt nặng nhất mà ông ít khi xử dụng, đó là bắt học
sinh chụm năm đầu ngón tay lại, đưa lên để ông dùng cây thước bảng to lớn, quất
mạnh xuống. Khó có tên học trò lì lợm nào chịu nổi qua ba thước, mà không xỉu!
Sau, phụ huynh học sinh phàn nàn đòi kiện, thầy Sinh mới bỏ qua hình phạt cực
kỳ độc ác đó.
Nhiều
người cho rằng, đánh học sinh kiểu này dễ bị trụy tim. Không một đứa học trò
nào, sau khi học qua ông rồi lên bậc Trung học, nếu có gặp ông ngoài đường,
chúng quay lưng và không bao giờ chào.Thậm chí có đứa còn nhổ một bãi nước bọt
trước mặt ông như khiêu khích, khinh thường rối bỏ đi.Sau đó, ông bị đuổi ra
khỏi nghành Giáo dục, trở về quê nhà bên Đại Điền Trung, sinh sống bằng nghề
nông.
-
Những con chuột bắt đầu rời hang ổ, khoe ra hình hài gớm ghiếc! – Tuấn nhìn ông
hằn học. Khuôn mặt rỗ, hai mắt “đá” nhau, như chữi lộn là một biểu hiện không
mấy tốt trong tướng số! Anh nghĩ.
Đến
ngã ba A Ùi, hai đoàn tẻ nhau đi mỗi hướng. Du kích địa phương, quẹo vào chợ
Thành, rồi vào phố, lên thẳng Chi khu Diên Khánh.Quân bộ đội chủ lực trực hướng
Cam Ranh thẳng tiến.
Xã
trưởng Bé nằm vùng cầm lái, cái miệng lão Tôn không ngừng kêu gọi sự trợ giúp
của dân chúng, trên con Quốc lộ 1.
Dân
chúng đổ xô ra đường, tay cầm cờ Mặt trận quơ quơ, la hét đến điên khùng. Người
ta bắt đầu tiếp tế mọi thứ.
Một
rừng cờ, nửa đỏ, nửa xanh tung lên ngợp trời, cùng tiếng la hét dậy vang!
Người
ta bắt đầu tràn ra cả lề đường, trèo lên những chiếc xe jeep lùn (của quân đội
VNCH bỏ lại) ôm hôn thắm thiết mấy gã sĩ quan Bắc Việt. Đoàn quân xa vẫn chạy,
nhưng rất chậm vì người người tuôn ra đầy con Quốc lộ 1.
Ông
Năm tiệm hình “Bóng Tối” phải bước xuống chiếc xe jeep, dọn đường cho đoàn
quân, nhưng không xuễ.
Đến
trưa, xe bắt đầu kẹt cứng, dừng tại chỗ.
&
Khi
lão Tôn ngồi trên chiếc xe jeep dẫn đường, do lão Xã trưởng nằm vùng cầm lái,
đến xã Suối Hiệp, một cảnh tang thương đến rợn người! Những chiếc xe tăng hai
hôm trước, cùng những chiếc GMC của Mỹ, nằm cháy xém đen dọc hai bên đường.
Những xác chết của đôi bên nằm rãi rác nhiều nơi, trãi dài suốt đoạn đường đi.
Cam
Ranh tử thủ, và nơi đây đã là đoạn đường giao tranh khốc liệt diễn ra.
Qua
đoạn đường quẹo cua vào xã Suối Tiên, nơi có ngôi mộ của người Pháp – Bác sỹ
Yersin – một đoàn quân hổn hợp, cũng xe jeep và xe nhà binh của chế độ VNCH bỏ
lại khi di tản, nhập dòng. Đó là đám du kích hoặc nằm vùng, lẫn bộ đội chính
quy miền Bắc chỉ huy, được bổ sung khi cuộc chiến mỗi lúc nóng bỏng hơn. Sau
đó, là những chiếc xe tăng, vơi đi con số của hai hôm trước, do lão Tôn dẫn
đường.
Thì
ra, họ vẫn còn kẹt nơi đây! Lão Tôn nghĩ: Có lẽ đoàn xe tăng bị chận đánh ở xã
Suối Hiệp, sau khi lão và ông Xã trưởng Bé chỉ đường đi tiếp vào miền Nam.
Lại
kẹt cứng!
Lão
Xã trưởng Bé phải quay đầu xe, chạy ngược về phía đoàn quân xa đang tiến quân
hơn cây số, để điều chỉnh hướng đi. Khi đoàn quân ô hợp từ xã Suối Tiên đi qua
hết con đường rẽ phải vào Nam, lão Xã trưởng mới rú ga lao chiếc xe jeep đi
tiên phong, dò tình hình.
Cái
miệng lão Tôn thật tài!
Xe
chạy tới xã Thủy Triều, thuộc địa phận thị xã Cam Ranh.
Xe
chạy bon bon, lướt gió, mà cái miệng của lão Tôn vẫn oang oang như thường.
Lại
Mặt trận giải phóng miền Nam, Cách mạng thành công, đuổi đế quốc Mỹ, Ngụy… đang
tiếp quản Sài Gòn! Lão dùng từ “tiếp quản” trơn tru, làm lão Xã trưởng hỏi.
-
Tiếp quản là gì, ông Tôn?
-
Trời đất! Ông theo Cách mạng bao lâu mà không hiểu nghĩa “tiếp quản”!?
Vừa
khi ấy, một chiếc F.5 hay A.37 gì đó, từ Cam Ranh cất cánh bay lên. Phi trường
Cam Ranh cách xã Thủy Triều vài cây số đường chim bay. Nên khi chiếc chiến đấu
cơ vừa cất cánh, chưa kịp độ bình phi, thấy bên dưới là một đoàn quân xa Bắc
Việt đang di chuyển vào Nam, nó chúi đầu xuống, thả một loạt bom phủ đầu, rồi
cất cánh lên, chao đảo.
Lão
Tôn hoảng hồn, mặt tím ngắt, khi nhìn thấy mấy cục sắt đen thui, rót ra từ cái
bụng to ngoàm của chiếc chiến đấu cơ. Lão… đái ra quần! Lão nhớ thật nhanh, như
một cuộn film quay lại, đầy tang thương cho chính gia đình lão.
-
Cuốc, xẻng, dây kẽm gai, đạn a-ka… lão đã thấy nhiều, như vợ của lão đã bị giết
trong nhà thương vì là Y tá, nhưng còn giữ được cái xác. Dù hôi thối! Nhưng đây
là hàng loạt bom đang trút xuống trên đầu lão.Khó toàn thây, nói chi một xác
chết hôi thối, được tìm lại sau tàn phá bởi bom đạn.
Lão
Tôn biết, đã cùng đường. Lão đưa cái loa vào tai Xã trưởng Bé, hét lên.
-
Lao xe xuống ruộng, lao xuống ruộng nhanh… ông Bé!
Chiếc
jeep phóng mạnh, chồm lên, lao xuống ruộng.
Những
tiếng nổ “ình ình” chói tai, đến đặc điếc, ù lên, kêu o o trong màn nhỉ của lão
Tôn. Lão nằm im, nghe ngóng.Lão thấy âm ấm nơi đáy quần. Tưởng bị thương, lão
đưa tay lần xuống, rờ. Thì ra, lão đã đái ra quần, lúc nào không hay!
Mọi
thứ đều câm nín, trong một “sát na” của loạt bom nổ. Sau đó, là những tiếng “ầm
ì” từ núi rừng trên dãy Trường Sơn, vọng lại, ngân dài, ngân dài…
Lão
Tôn nằm im, mặt dập xuống ruộng, tai nghe ngóng. Cái mũi “ó đâm” hít, thở, liên
tục.
-
Dường như còn có mùi máu?
Lão
hé mắt nhìn, không dám động đậy thân hình.Đó là kinh nghiệm, cho lão còn sống
đến ngày hôm nay trong chiến tranh. Bên cạnh lão Tôn, ông Xã trưởng nằm vùng,
mặt úp vào đất, nữa cái xương sọ, bị tiện đứt, như một vết chém thẳng, ngọt
sớt, mắt mở trừng trừng. Lão Tôn hốt hoảng, mắt lấm liếc nhìn quanh.Lão bật
người chạy.Lão chạy điên cuồng như trong mộng mị.Lão chạy tọt vào ruộng mía,
nơi nhà máy đường Suối Hiệp đầu tư, núp.Lão ngước nhìn bầu trời quang đãng.
Khi
chiếc chiến đấu cơ vừa gượng lại bình phi, hàng loạt pháo phòng không, sau đuôi
những chiếc Môlôtôva, bắn tới tắp hàng loạt đạn.
Lão
nhìn thấy thật rõ, chiếc chiến đấu cơ, tuôn khói, chúc đầu đâm xuống.
Một
cánh dù màu cam bung ra, treo lơ lửng trên bầu trời đầy nắng.
Một
tiếng nổ kinh hoàng, làn khói đen tỏa mù mịt bầu trời, nóng bỏng đến chết
người.
&
Cái
nóng đầu hè hắt xuống như như đun bởi củi lửa. Những bộ đội trẻ, mặt vắt ra
sữa, ngồi chịu trận trong lòng những chiếc xe Môtôlôva hoặc GMC. Mặt họ đỏ gay,
mồ hôi tươm đầy, ướt cả áo. Nhưng họ vẫn chịu đựng, ngồi cứng ngắt trong lòng
xe, tay ôm súng, hoang mang. Quả thật, kỷ luật quân đội đến thế là cùng!
Tuấn
đứng bên đường nhìn họ, không thù oán mảy may. Dù rằng, anh biết chế độ miền
Bắc Cộng sản là một chế độ thối tha, qua những tờ báo, tiểu thuyết, hàng ngày
đọc. Anh thương cảm họ hơn! Cũng như, anh thương cảm những người lính VNCH,
sinh ra trong chiến tranh và bị hệ lụy bởi chiến tranh.
Cả
hai phía, những người trai của đất nước, đã bị kéo vào chiến tranh. Một cuộc
chiến ý thức hệ, do Cộng sản quốc tế giựt dây, qua một lãnh tụ “rước Voi về dầy
mả Tổ”! Ở họ, cũng là lòng yêu nước vô bờ bến. Cũng chỉ biết xả thân: Chết cho
một Việt Nam yêu dấu! Chỉ tiếc rằng: Họ chết cho một cái bánh vẽ rất lớn, mà họ
không hề hay biết!
Tuấn
biết rằng: Miền Nam, tự do về vấn đề báo chí và truyền thông, ngay cả biểu tình
chống chính phủ đòi hỏi quyền cơ bản làm người, mà Liên Hiệp Quốc đưa ra cho
mọi quốc gia, ký kết theo một trào lưu tiến bộ của nhân loại. Hiện tượng: Sư,
Sãi xuống đường, đem bàn thờ ra chống đối chính quyền Đệ nhất, nhị Cộng Hòa,
đòi hỏi cởi mở tôn giáo, hoặc Nhà báo ăn mày đòi tự do báo chí; Tuấn đã từng
đọc qua trên các báo Sài Gòn.
Có
lẽ, cuộc đời Tuấn được sắp xếp?
Mồ
côi cha, từ năm tám tuổi, Tuấn “ở đậu” nhà Cậu, là ông Năm, tiệm hình “Bóng
Tối”. Nói “ở đậu” cho bóng bẫy, chứ ở đợ, đúng hơn! Mười tuổi, Tuấn bắt đầu học
rữa ảnh, và mười hai tuổi, anh bắt đầu ôm máy ảnh đi chụp lang thang. Những
chiều, sau ngủ trưa, Tuấn thường ngồi đọc báo cho ông Năm, đang ngồi dạy anh
làm ảnh trên vỉa hè, đường đi nhờ ánh nắng. Nhiều đứa trẻ ở tuổi này, chẳng đứa
nào biết tình hình chính trị thời đó như Tuấn. Anh chắc chắn thế! Tuy nhiên,
như bao đứa trẻ khác, Tuấn cũng ham chơi, và cũng bị những trận đòn, đến chết
người.Những sợi dây điện của Mỹ du nhập vào Việt Nam, đã hằn vết trên lưng
Tuấn, bởi người Cậu (mà sau này anh kể lại cho vợ, con nghe, đều khóc!).
Dường
như, chiến tranh nó thiêu đốt mọi nhân ái con người. Nhưng Tuấn, được đọc và
biết được nhiều thứ của tuổi đang ham chơi, hơn những đứa trẻ khác.
Tuổi
mười bảy, Tuấn càng may mắn đi nhiều về vùng nông thôn để chụp ảnh. Anh hiểu
thế nào là cuộc chiến tranh tương tàn. Nó vô cùng phi lí, đến mẫn cảm, cho hai
phía thanh niên thời chiến!
-
Tôi bảo vệ miền Nam của tôi. Xin Anh đừng xâm phạm, vì đã ký trên cái gọi là
Hiệp Định Paris!
-
Tôi đã ký. Nhưng Đế quốc Mỹ, vẫn còn hiện diện ở miền Nam, chúng tôi phải đánh!
Đó
là lời ngụy biện của chính quyền miền Bắc! – Tuấn nghĩ thế! Vì thế, những thanh
niên ăn cái bánh vẽ to tướng, không tưởng, lao vào cái chết như những con thiêu
thân!
Họ
còn trẻ.Rất trẻ… như Tuấn.Ăn chưa no, lo chưa tới, với tuổi đang lớn, để hình
thành một thanh niên vào đời.
Rất
tiếc. Họ như những trái còn rất xanh, bị dấm dúi, ủ trong những cái khạp, hòm
rương, cho chin tới ngoài dự kiến, nhưng không bao giờ… chín rủ ra, như thiên
nhiên! Nó chin dấm! Nó tàn héo, sượng sùng giữa chừng, đen đến khiếp…
Guồng
máy chiến tranh là một cái gì đó, tồi bại nhất trong lịch sử loài người!
Thế
nhưng, loài người cứ bám theo như một loài đỉa: không mặt, mũi, tay chân, hình
hài… để hút máu nhân loại.
Tại
sao???
&
Ông
Năm, chủ tiệm hình “Bóng Tối”, trở lại hiện trường đang tắc nghẽn giao thông,
bằng mấy “két” bia Budweizer, chất dưới chân, trên chiếc vespa của Ý. Không
biết, ai ai của cái xứ VN này có còn những lon bia Budweizer, thời trước 1975,
chứ ông Năm còn rất nhiều! Thời trao đổi, bán buôn với người Triều Tiên, ông có
mọi thứ hàng Quân tiếp vụ, cả đô la xanh quân đội Mỹ dùng trong chiến tranh
tiêu xài, ông có hàng đống. Ông không uống bia, nhưng vẫn giữ, theo thói quen
người Việt dành đó, để đãi khách quý.
Ông
bê đến chiếc xe jeep lùn, đang tắt máy chờ đợi, nói.
-
Chào đồng chí! Tôi là người đại diện của Mặt Trận miền Nam, xin biếu đồng chí
uống giải khát!
-
Cái lầy là cái gì?
-
Bia của tụi Mỹ, uống khoái lắm!
-
Bia, sao lại trong non? Phải là ve chứ! Giống quả lựu đạn chầy, giựt bằng dây
thế! Ừ. Để tớ thử nhé. Thứ này, ngoài ấy hiếm lắm đấy!
Ông
Năm mở lon bia, kêu “bịp”.
-
Ga (s) nhiều quá nhỉ!
Ông
Năm nhìn cầu vai gã sĩ quan, hỏi.
-
Ông anh cấp bậc gì vậy?
-
Đại tá, quân đội nhân dân! – Gã hớp ngụm bia, nói. Tiếp.
-
Ối dà.Bia lày nặng đấy! – Gã xuýt xoa.
Ông
Năm “Bóng Tối” rút ra tấm ảnh, dí sát vào mặt gã Đại Tá, hỏi.
-
Đồng chí, biết ông này?
-
Úi nao! Đây nà đồng chí Bộ Trưởng, bên Ngoại Giao! Sao ông có?
-
Ổng này, là anh rể họ tôi!
-
Hả…?
Gã
Sĩ quan, phun ngụm bia, lỏ mắt nhìn ông Năm.
-
Đồng chí, có biết ông này?
Gã
Đại tá nhìn kỷ, lắc đầu.
-
Tôi chưa thấy ông lày! Lày… ông Bộ Trưởng Ngoại giao, là anh rể ông, thật à?
-
Còn bà này? – Ông Năm không trả lời, chìa tấm ảnh khác.
-
Hình như không quen!
Ông
Năm đưa tấm ảnh sát mặt gã Đại tá, nhắc.
-
Ông nhìn kỹ lần nữa, xem sao!
Lần
này, gã Đại tá thốt lên.
-
Tôi biết bà lày! Một du kích quân. 16 tuổi, đã hạ sát tên Xã trưởng Ngụy ác ôn
ở Bình Định, được đưa ra Bắc, là chiến sĩ thi đua ba Miền!
-
Nó, là em gái họ tôi!
-
Ông… Không, không… Đồng chí đùa chắc!
-
Tôi, đại diện Mặt trận giải phóng miền Nam, tôi không đùa, như ông nghĩ.
Ông
Năm lại đưa tấm ảnh lúc trước, gã Đại tá không nhận ra ai là người trong ảnh.
Ông Năm nhấn mạnh.
-
Đại úy Trường Sơn, người điều khiển chuyến đi trên con tàu X, mang súng đạn
tiếp tế của Nga, Tầu từ miền Bắc vào Phan Rang thành công. Tôi có đi thăm ông
ấy, năm 1963.Sau bị lộ, phải đi đường bộ trở về miền Bắc thành công.
-
A. Tôi nhớ rồi! Đúng nà Đại úy Trường Sơn. Bức ảnh quá cũ, tôi không nhận ra.
Đồng chí nà gì của ông ấy.
-
Ông ấy là anh ruột tôi! Tôi thứ năm, ông ấy thứ hai, trong gia đình.
-
Tôi báo cáo đồng chí một tin không mấy vui. Khi trở lại miền Bắc, sau chiến
công oai hùng ấy, đồng chí Trường Sơn đã được Đảng và Nhà nước ta thuyên chuyển
qua bên bộ phận Hậu Cần. Tức bên Anh Nuôi, no cho bộ đội.
-
Hậu Cần, Anh Nuôi là gì vậy, đồng chí?
-
Nà… nà… no bên quân nhu. Như tiếp tế áo quần, thực phẩm và mọi thứ cho chiến
tranh.
Ông
Năm “Bóng Tối” mặt buồn so, tiu nghỉu!
Ông
cứ nghĩ, anh ông sẽ có mặt trong đoàn quân đầu tiên, bước trên con Quốc lộ 1
Diên Khánh như ông ta từng hứa, với người em ở lại nằm vùng, chờ đợi ngày khải
hoàn.
Ông
Năm “Bóng Tối” thất vọng, hoàn toàn thất vọng. Ông bỏ đi không nói một lời nào!
&
Những
kỷ niệm trên 20 năm, lần lượt, trở lại nơi ông Năm ”Bóng Tối”…
Năm
ấy, ông 15 tuổi, nhưng to lớn dềnh dàng, như một chàng thanh niên trưởng thành.
Anh của ông, Đại úy Trường Sơn sau này, còn cao to hơn ông, lúc đó tên là Hai
Sơn.
Thời
đó, bọn Tây gạch mặt Ma Rốc, thường nhũng nhiễu dân lành ở những vùng quê.
Chúng từ Nha Trang, đem quân kéo lên Diên Khánh, hãm hiếp đàn bà, con gái. Dư
âm của Tướng Trịnh Phong để lại, luôn là nỗi khiếp đảm còn sót đọng. Vài tuần,
bọn Pháp cứ kéo lên hành hạ dân chúng, dù dũng tướng Trịnh Phong đã bị tiêu
diệt từ lâu!
Ngay
cây Dầu đôi, có trên vài trăm tuổi, nơi đó, có một cái miếu thờ Ngài. Lên hơn
chút nữa, ngay cầu Ông Cạn, là Đền thờ của Chí sĩ yêu nước, Trần Quý Cáp, đã bị
chặt đầu nơi đây.
Đất
Khánh Hòa: Cọp đầy rừng, Trăn vắt mình đeo cây, thòng xuống như cái võng, rồi
tát nước, bắt cá ăn, không là một truyền thuyết.
Mẹ
Tuấn, em kế ông Trường Sơn, năm ấy 16 tuổi, chạy không kịp với người cha là Xã
trưởng, kiêm thầy thuốc Bắc, cùng một đàn em còn nhỏ dại. Bà bị chúng hiếp.
Nỗi
ám ảnh đó, luôn thù hận, đeo trên vai Hai Sơn. Ông thề rằng, sẽ đánh bọn Pháp
gạch mặt đến giọt máu cuối cùng. Ông quyết định “lên núi”, chống Thực dân Pháp.
Ông cùng bạn bè rút lên núi Đồng Bò, chờ đợi thời cơ.
Trước
khi đi, Hai Sơn vỗ vai em, nói.
-
Quá lắm. Quá lắm rồi, Năm! Tao phải đi, Năm! Mày ở lại chăm sóc Cậu, Mợ, cùng
con Ba đang điên điên, khùng khùng. Bao nhiêu năm trở về, tụi tao đéo biết!
Phải diệt thằng Pháp, dành độc lập!
Thỉnh
thoảng, Hai Sơn vẫn về đêm khuya, qua ngã Vườn Trầu, từ trên núi Đồng Bò đi
xuống, nhận tiếp tế từ gia đình. Rồi sau đó biệt tin!
Năm
1954, đất nước chia đôi qua vĩ tuyến 17 ô nhục! Gia đình ông Năm “Bóng Tối”,
nghe thoang thoáng, đám chống Pháp ở miền Trung và Nam, tập kết ra Bắc trên
những chiếc tàu Ba-Lan của Liên Hiệp quốc, sau Hiệp định Geneve.
Năm
1963, qua tin mật báo giao liên, ông Năm được biết, anh ông, bây giờ là Đại úy
Trường Sơn, sẽ lái tàu chở vũ khí tiếp vận cho chiến truờng miền Nam, qua đường
thủy vào mùa mưa.
Bến
đổ là ở một làng nào đó ở Lương Sơn. Nhưng con tàu lại lạc đến Phan Rang, trong
cơn mưa bão. Qua giao liên báo lại, ông Năm đã gặp lại người anh, sau gần 20
năm xa cách.
Họ
gặp nhau chốc lát, và mất liên lạc từ đó.
*
Chương
11
Những
gì mọi công dân mong đợi, cũng như không mong đợi, nó đã đến. Và đến – không
lành – như một dự báo!
Trước
ngày 30 tháng tư hai hôm, ngay bến xe Diên Khánh, gần rạp hát Tân Tiến, nơi gã
Bảy Rắn thỉnh thoảng biểu diễn màn nhào ra con Quốc lộ 1, nằm xuống đường,
miệng trào bọt mép trắng sủi, chận xe nhà binh, đãxảy ra một sự kiện ghê tởm.
Mới sáng sớm, đất còn dậy mùi ngai ngái của bùn non, đất đá… vừa sực lên từ
những cánh đồng lúa và cỏở ngoài ngoại ô, bởi bình minh vừa thức giấc sau cơn
ngủ dài qua đêm. Lão Tôn cùng giáo Sinh, tay đeo băng đỏ, khí thế đằng đằng,
dẫn mười mấy tên du kích xã, xông vào cửa Đền của giáo phái đạo Cao Đài. Lão
Tôn dùng cây gậy “thị oai”, gõ gõ cái cổng sắt đang khóa kín, nghe loảng xoảng,
gai người.
Ông
Từ giữ Đền, nghe tiếng động ló đầu nhìn ra, hoảng sợ.Ông ở trần, nhìn dáo dác
quanh nhà.Dường như, ông đang tìm kiếm cái gì đó, nên vô cùng lúng túng và
hoảng loạn.
Giáo
Sinh không chờ được nữa, nôn nóng cầm cái búa to kình, bắt đầu đập ổ khóa.
Tiếng đập “ầm ầm” vào cánh cửa sắt giữa sáng tinh sương, đánh thức mọi cư dân
chung quanh, hốt hoảng giật mình choàng thức. Chiến tranh đang là ma, quỷ như
đe dọa mọi người. Họ cứ tưởng, đó là những tiếng pháo đạn bắt đầu “mọc-chê” đâu
đó bắn vào, của sự chém giết chiến tranh đang thành hình. Gần cả tháng, trong
chờ đợi sợ hãi, họ ép mình, sẳn sàng chờ đón mọi tai ương trút xuống cuộc đời.
Một phút trôi qua, họ mới định thần trở lại và biết đó không là thứ tiếng
động
của bom đạn, họ bắt đầu tràn ra lề đường nhìn dò dẫm.
Mấy
ông tài xế xe lam thì khác. Họ đang ngồi lim dim, ngủ gục chờ khách, trước đầu
xe, giật mình choàng thức, dụi mắt nhìn. Họ bỏ xe chạy ra, ngơ ngác nhìn.
Đây
là cái Đền duy nhất của đạo Cao Đài ở Diên Khánh.Nó được xây từ thời thực dân
Pháp.Họ đạo Cao Đài không đông lắm, nhưng dân chúng vẫn kính trọng đạo lẫn
nhau.Ở miền Nam, về lãnh vực tôn giáo, mạnh ai nấy thờ cúng đạo mình và vẫn qua
lại thăm hỏi nhau rất thân tình.
Chẳng
hạn, ông Năm chủ tiệm hình “Bóng Tối” tuy theo đạo Vô Vi, nhưng qua lại vô cùng
thân thiết, với ông Từ giữ Đền tên Tâm. Họ thường đàm về Đời và Đạo rất tương
đắc.Dân trong phố Thành và ngoài ngoại ô, cũng vậy.Tuy khác đạo, nhưng thỉnh
thoảng, họ vẫn gửi biếu quà bánh, cây trái trong vườn để cúng Đền.
Mấy
ông tài xế xe lam rất bất bình. Họ định xông vào Đền che chở cho ông Từ, nhưng
thấy bọn du kích xã lăm le mấy cây a-ka, làm họ chùn xuống. Họ được ông Từ, cho
đậu xe miễn phí ngang hông Đền từ bao đời nay, nên rất kính mến ông Từ Tâm.
-
Đứng ra xa.Đền đang bị phong tỏa. Ai lại gần, bắn ngay! Lão Tôn quơ quơ cây gậy
“thị oai” hách dịch, nói.
Mọi
người lùi lại nhìn lão Tôn và giáo Sinh căm tức. Ngôi Đền mà bao năm họ sùng
kính. Tuy khác đạo, nhưng cửa Đền luôn mở rộng, đón khách thập phương lỡ bước…
mấy ông tài xế xe lam, hoặc mấy bà đi buôn bán ở chợ, thường ghé vào sáng sớm,
buổi trưa uống ly trà nóng, lạnh do ông Từ Tâm tùy hỉ rót ban.
-
Nhìn gì mà nhìn. Không thấy lạ à?Thờ gì không thờ, đi thờ chỉ một con mắt. Đạo
quái đản! – Giáo Sinh gầm tiếp, hầm hầm đi vào, khi cái khóa bị đập bung ra.
-
Tại sao, tôi gõ cổng ầm ầm, mà không mở cổng, ông Tâm. Ông muốn chống đối chính
quyền quân quản?
Ông
Từ đứng trên bực thềm cao, giọng run run.
-
Tôi chưa kịp mở, vì còn mặc quần áo, tìm xâu chìa khóa, thưa cán bộ. – Ông Từ
Tâm run run đi xuống bực thềm, cài cái nút áo cuối cùng, chưa kịp bỏ áo vào
quần như cái tánh của ông hàng ngày.
-
Ông đừng ngụy biện. Một mắt như các ông là chúa láo toét!
-
Còng ngay ông Tâm cho tôi. – Lão Tôn phụ họa.
-
Nhưng tôi làm gì để các ông bắt, thưa cán bộ?
-
Tôi ra lệnh bắt! – Giáo Sinh nói.
-
Lệnh bắt đâu? – Ông Từ Tâm bắt đầu phản kháng.
-
Lệnh trong tay tôi, ông nghe chưa! Tôi là lệnh, là luật của chính quyền quân
quản này. Còng. Các đồng chí nghe rõ!!!
Họ
còng tayông Từ Tâm, bằng cái còng số 8, do quân đội Mỹ để lại.
Lão
Tôn giơ gậy, chọc vào mắt ông Thiên ở trên cao, ra lệnh:
-
Phá Đền!
Bọn
du kích, lúc bấy giờ là lũ thanh niên ít học, trốn hoặc bị bắt lên núi, cùng
đám thanh niên du côn trong quận, thức thời theo cộng sản, tha hồ lập công.
Chúng lao vào Đền như những con thú hai chân, đập phá điên cuồng. Nơi bệ thờ,
chúng nạy những tấm ván, đem ra ngoài lấp kín mọi cánh cửa lớn nhỏ, bằng một
thứ đinh lớn đem theo. Chúng niêm phong Đền lại bằng hai tờ giấy đỏ choét, chéo
ngang.
Ông
Từ Tâm đứng nhìn ngôi Đền bị tàn phá, trong chốc lát đã tan hoang.Ông khóc ròng,
chân dậm đùng đùng, uất ức. Ông giật tay gã du kích, định lao đầu vào cánh cổng
sắt tự tử, nhưng không được, vì cái còng dính chung tay gã du kích. Gã du kích
bực mình vì đau khi cái còng nghiến chặt cổ tay, gã thốc báng súng a-ka vào
bụng ông Từ Tâm cật lực, làm ông ngã té qụy xuống lòng đường, máu mũi chảy ra.
Vừa
khi ấy, ông Năm tiệm hình “Bóng Tối”, nghe tin chạy tới.
-
Các đồng chí làm gì vậy? Ông Tôn, sao ông đánh ông ông Từ, mặt mày đầy máu me?
Ông
Năm tiệm hình “Bóng Tối”, tuy theo đạo Vô vi, nhưng cũng bất bình sự vi phạm và
trấn áp tôn giáo, trước mặt dân chúng, do lão Tôn và giáo Sinh cầm đầu. Lão Tôn
ngước nhìn ông Thiên, khinh khỉnh.
-
Mọi thứ tôn giáo, thánh thần… cần phải triệt để triệt tiêu. Tôn giáo là thuốc
phiện ru ngủ mọi công dân!
-
Tôi cùng làm chính quyền với ông, sao tôi không nghe ai nói gì cả. Ông bắt ông
Tâm có lệnh của Huyện đội không?
-
Ông Năm. Bây chừ tôi nói cho ông biết! Ông là người của Cách mạng, mà còn mê
tín dị đoan. Tại sao ông theo đạo Vô vi. Đạo gì, mà có tên lạ vậy? Tôi khuyến
cáo ông, đây là việc của chính quyền cách mạng quân quản tạm thời, ông không
nên nhúng tay vào. Ông nên nhớ, tôn giáo sẽ không có đất sống, dưới chế độ xã
hội xã hội chủ nghĩa!
-
Ông bảo sao? Ông hù dọa tôi ấy à, ông Tôn?
-
Tôi không hù dọa ông, đó là chính sách của đảng!
Ông
Năm tiệm hình “Bóng Tối”, mặt tím tái, đưa tay chỉ vào mặt lão Tôn, hét lên.
-
Tôi nói cho mọi người đứng đây, được biết. Ông Tôn không phải là người của cách
mạng, và chính ông đã giết chết ông Xã trưởng Bé để bịt miệng, nhầm dấu kín về
nhân thân của cá nhân ông, chứ ông Bé không chết vì bom như ông ta kể!
Lão
Tôn điên lồng lộng, kết hợp cùng giáo Sinh đưa ra kỷ luật tại chỗ.
-
Chúng tôi: Đại diện Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, tuyên bố: ông Phan
Năm, chủ tiệm hình “Bóng Tối” bị đuổi ra khỏi Uỷ ban Quân quản, vì theo đạo Vô
vi, chống lại chính quyền đang thi hành bản án!
&
Cũng
như nhiều người, Tuấn bàng hoàng, khi điềm báo…
Như
điềm báo thời mạt vận đã tới, khi ngôi Đền Cao Đài, duy nhất và là tôn giáo đầu
tiên ở Thành bị phá nát.
Hai
ngày sau, miền Nam đã rơi vào tay quân đội Bắc Việt. Đa số người dân miềm Nam
vui mừng nhiều hơn là đau khổ.Cũng có thể, dân trí người dân ở những vùng nông
thôn thấp cũng có, nhưng cái lý lẽ chính đáng nhất, là mọi người đã sợ chiến tranh
tàn phá và chết chóc quá nhiều.
Buổi
sáng hôm ấy, buổi sáng của định mệnh ngày 30/04/1975 miền Nam đang chết, Tuấn
ngồi bần thần trên căn gác xép. Anh khóc như một đứa trẻ. Một “Trại Đầm Đùn”,
một tác phẩm nói về chế độ lao tù của CSVN ở miền Bắc, Tuấn từng đọc qua, cứ ám
ảnh anh mãi.
-
Có chăng, nhiều “Trại Đầm Đùn” sau thời chiến tranh?
Tuấn
hoang mang cao độ. Dù là một thanh niên 17 tuổi, nhưng Tuấn hiểu rõ thời cuộc
như một người lớn trưởng thành, nhờ đọc qua sách báo thời còn rất trẻ. Anh hy
vọng rằng: Cuộc Cải cách ruộng đất và Nhân Văn Giai Phẩm sẽ không lập lại trên
quê hương này, khi hòa bình vừa vãn hồi. Bao nhiêu triệu sinh linh đã chết, đủ
để cho một thiểu số người Việt Nam, nắm vận mạng tổ quốc và dân tộc, thấm thía
cái giá của độc lập xứ sở, quê hương.
Một
Cải cách ruộng đất, là một sai lầm tai hại và tồi tệ, mà chính Hồ Chí Minh từng
tuyên bố, chả nhẽ sẽ lập lại sau hòa bình và thống nhất đất nước? Một Thụy An,
Nhà văn nữ miền Bắc, đã tự đâm vào một con mắt của mình – như một sự trừng phạt
chính bản thân – khi nhìn ra, độc lập, tự do… của VNDCCH, chỉ là một cái bánh
vẽ to tướng, trong phong trào “diệt khẩu văn chương” qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm!
…
-
Anh Tuấn ơi.Có anh Đại dưới nhà, cần gặp anh.
Tuấn
lau vội nước mắt, chạy ào xuống cầu thang, ra lề đường ôm thằng Đại. Anh nén
khóc, rít lên trong kẽ răng:
-
“Thằng” Dương Văn Minh đầu hàng bọn Cộng rồi! Mày nghe tin này chưa?
-
Tao nghe rồi, nên mới ra đây. Ông già tao, kêu mày vào Vườn Trầu.
Tuấn
nhìn thằng Đại, ngồi trên chiếc xe hon-da của ba nó thường dùng, đi lên Chi khu
Cảnh sát hàng ngày làm việc. Nhìn cái bao bố to cộm cột sau lưng yên xe, Tuấn
hỏi.
-
Cái gì đây, Đại?
-
Đừng hỏi. Vào đó khắc biết!
Tuấn
trèo lên ngồi sau yên xe, ôm lấy cái bao bố to cộm trước bụng. Đại nôn nóng, rú
ga. Chiếc hon-da lao vút.
*
Bọn
Tuấn bốn thằng, kéo vô nhà từ đường của thằng Đại trong Vườn Trầu, nhờ mấy đứa
em của Đại phân tán ra đi gọi từng đứa về.
Thằng
Tấn và thằng Khiêm ở bên kia Đại Điền Đông, là bạn rất thân của Tuấn và Đại.
Hằng đêm, bên kia Đại Điền Đông, Tây… thanh niên khi đến tuổi trưởng thành,
thường qua Thành ngủ vì sợ bị bắt lên núi như đã trình bày. Họ lại cùng học
chung một lớp, nên càng thân nhau. Ông bố thằng Đại, là Trung sĩ nhất Cảnh sát,
thương lũ học trò như con của ông. Làm Cảnh sát, ông biết hoàn cảnh của đất
nước thời chiến tranh, ông càng thương bọn thanh niên cũng đã bắt đầu biết sợ
cộng sản. Ông coi chúng như con cháu trong nhà. Có những cuối tuần, ông đãi
chúng
những bữa ăn hoan hỉ và vui vẻ. Hơn nữa, là một Cảnh sát tâm lý chiến, ông lại
càng muốn phát huy nghề nghiệp mình, nên lúc nào ông cũng khuyên răn cái đám
thanh niên ưa bùng phát nhiều tính dị căn cuộc đời, nhất là những đứa sống
trong vùng: ngày Quốc gia, đêm Cộng sản thao túng mọi điều.
Ông
trung sĩ nhất cảnh sát, đưa tay vẫy khi bốn thằng thanh niên bước vào vườn.
Cuối tháng tư, ngoài kia như đổ lửa, nhưng ở đây gió thật mát, dù đã gần trưa.
-
Ngồi xuống, các con. Ta có điều muốn nói!
Họ
ngồi vòng tròn, xếp bằng đôi chân, im lìm dưới những tán lá vú sữa trắng và tím
bao cả bầu trời chói chang trên cao. Ông trung sĩ, đưa mắt ra hiệu, thằng Đại
lấy từ trong cái bao bố một can rượu nếp than 4 lít. Nó đưa răng cắn cái nắp
đóng bằng lá chuối khô, kêu cái “bụp” nho nhỏ. Nó trịnh trọng rót vào mấy cái
chén nhỏ, rồi ngồi xuống kính cẩn như một tín đồ cao đạo.
Bọn
trẻ ngơ ngác nhìn nhau. Chú Tám, bố thằng Đại nâng ly, bảo.
-
Uống nào!
-
Chúng cháu, không dám uống ạ. Chúng cháu, chưa bao giờ uống!
-
Vậy, bây giờ uống nhé!
-
Bố, Mẹ chúng cháu biết được, đánh chết mất ạ. – Thằng Tấn lí nhí.
Chú
Tám đập cái “bộp” vào đùi, nói.
-
Nước đã mất, Nhà đã tan đàn xẻ nghé, cái thân tụi bây còn giữ được không? Hả…
hả…
Nói
xong, chú Tám ôm mặt khóc rưng rức.Bốn thằng thanh niên mới lớn, ngơ ngác nhìn
nhau.Chú Tám chỉ mặt từng đứa, nói trong nước mắt.
-Tụi
bây có biết lý do vì sao, tao để cho thằng Đại sống ngoài phố Thành với một tủ
sách đồ sộ, cùng những con vật nuôi làm cảnh? Để làm gì?Nó không là lợi nhuận
để tụi nó sinh sống. Mà tao muốn rằng, thằng Đại cùng lũ thanh niên chúng mày
trong phố, phải hiểu thế nào là nhân sinh cuộc sống. Sống phải biết thương yêu
đồng bào mình và ngay cả loài côn trùng, chứ làm sao thằng Đại nó sống nổi với
những cuốn sách cho thuê với vài con cá lia thia, bảy màu…
Chú
tợp ngụm rượu, tiếp.
-
Tội ác đang dần leo thang, khi Việt cộng khủng bố khắp mọi nẻo đường đất nước.
Thanh niên bọn bây, nếu không hiểu cộng sản là gì, rất dễ dàng theo. Chúng
tuyên truyền rất giỏi! Những thành phố lớn, thanh niên không hiểu cộng sản
nhiều – đã đành – vì bọn chúng còn có cả một hậu phương vững mạnh che chở. Ở
những thành phố nhỏ, lại cận kề nông thôn, luôn bị rập rình chủ nghĩa cộng sản,
còn bị bắt bớ lên núi, nên tao mới cho thằng Đại, mở ra cái tiệm thuê sách này,
để mở mang đầu óc tụi bây. Tao vui, khi biết bốn đứa mày, là những thằng mọt
sách, đọc không tốn tiền, trong tiệm sách của tao!
Thì
ra là vậy! Tuấn cầm chén rượu nhỏ, dâng hai tay.
-
Con kính chú Tám một ly rượu đầu đời!
-
Cháu cũng uống, như một… – Thằng Khiêm ú ớ. Thằng Tấn cũng vậy, nó lắp bắp…
-
Như gì? – Chú Tám hỏi rán tới.
-
Cháu không biết nói làm sao…
-
Như một tri kỷ! Nghen cháu. Ha… ha…
Năm
tên đàn ông, vừa già, vừa trẻ, nâng chén, uống rượu nếp than, nhìn nhau rồi
khóc ngất lên. Họ uống say, đến nỗi không tưởng tượng được, là trưa hôm sau, bị
bà mẹ thằng Đại tạt những xô nước lạnh vào những bụi chuối sau vườn. Đó là lần
đầu tiên, bọn thanh niên biết uống rượu và biết thế nào là mất đi một chính
quyền Tự do, Dân chủ còn non trẻ vừa mới thành hình bị bóp chết, bởi một sắp
sếp ổn định toàn cầu của chính quyền Mỹ!
Tuấn
lan mán nhớ nhất, lúc đã say, đầu óc quay cuồng, anh nhìn thấy: Ông bố cảnh sát
của thằng Đại, khi cơn say ngất trời, ôm bốn thằng thanh niên, vừa mới lớn,
khóc rống lên.
-
Chúng mày phải sống cho ra hình hài con người Việt Nam. Tụi nó đã thắng rồi! Cả
cái Đông Dương này sẽ bị phủ đỏ bởi làn sóng CS! Tao chấp nhận tù tội vì làm
một người lính VNCH cho một miền Nam tự do, no ấm! VNCH muôn năm!
-
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!
Năm
cánh tay dơ lên và bật khóc.
Họ
tiếp tục uống.Uống cho đến khi, đi không nổi, mỗi đứa lủi vào những bụi chuối
ngủ mê mệt.
8
Diên
Khánh trở lại sinh hoạt bình thường.
Học
sinh trở lại nhà trường, sau hai tuần của biến cố.Tuấn hình dung, có lẽ lớp học
sẽ vơi đi nhiều người bạn, sau cuộc di tản khủng khiếp ở mọi miền đất nước, vì
ai ai cũng có thân nhân là những người lính VNCH.Nhưng, không thiếu một khuôn
mặt nào ở lớp 11c ban toán.
-
Xếp ngay vào hàng, các bạn!
Thằng
“Ban bò” vẫn như ngày nào, miệng ngậm cái còi thổi toe toe, bắt xếp hai hàng
dọc trước khi vào lớp. Bọn học sinh nghịch ngợm đến mấy đi chăng nữa, khi nghe
tiếng thổi còi của nó, phải vào hàng ngay! Thằng này mà ra tay, đố thằng học
trò nào dám chống. Ban không hung dữ, cộc cằn; có thể nói, hắn hiền, nhưng rất
quy tắc. Thằng học trò nào không tuân lệnh, Ban chỉ đi đến, nắm hai vai gã học
trò đó nhấc bổng lên, khiêng, đặt vào hàng đầu, với lời đe dọa.
-
Bạn nào lạng quạng, tôi ném vào lớp học ngay!
Chả
thằng nào ngu, chống Ban, bởi chúng đã từng nhìn thấy, trong khu vườn nhà Ban
bên Đại Điền Đông, khi mà cả bọn được Ban mời thăm vườn cây trái rộng lớn. Hôm
đó, hai con bò đen, vàng chọi nhau xé nát một mảnh vườn chuối ngoài rẫy, giữa
lúc bọn học trò vui vẻ bên vườn xoài mít. Thằng Ban đã chạy ra, hai tay nắm mỗi
cái sừng của bò, quặt ngược chúng lên té chỏng gọng, đá vào đít mỗi con một
phát thật lực. Chúng hoảng sợ chạy đi.Bọn học trò, chừng ấy, mới biết Ban là
Hạng Võ ở Việt Nam. Ban có thể múa võ, đi quyền đến khi nào các bạn chán mới
thôi.
Ban
hiền như cục đất. Hắn chỉ dọa, nhưng tên học sinh nào cũng luôn tôn trọng. Ai
cũng biết, Ban có vợ và một đứa con trai, nhưng trong khai sinh, gã mới… 17
tuổi với hàm râu quai nón của Hạng Võ!
-
Hôm nay, đội nào trực lớp quét dọn, a? Ban hỏi, nhìn vào lớp, tiếp.
-
Úi chao! Bàn ghế chỏng gọng, rác rưới khắp nơi.Đội nào trực. Nói nghe nàào!!!
-
Hé… hé… Thằng Ban đầu bò, quên mất là, nó đã nghỉ học gần ba tháng, ở nhà ôm
con dzợ phẻ re. Hớ hớ!!! Sướng cu ba tháng, đã hông Ban?
Ban
ngớ ra, chợt nhớ ba tháng không đến trường. Hắn than lên.
-
Ôi chiến tranh sao dài, mà lại ngắn ngũn trong 3 tháng!
-
Vậy, đội nào tình nguyện? – Hắn tiếp.
-
Không có tình nguyện! – Bọn học trò la ré lên.
-
Bắt đầu làm lại, bồi thường chiến tranh! Hé… hé… – Một thằng nào đó cuối hàng,
rú lên.
-
Tại sao phải từ 1, mà không là cuối? Cuối đội mới công bằng! Ba tháng trước
đang dỡ chừng nay bắt làm lại; có phải hai lần?
-
Đúng. Đội 5 là đội cuối, phải bắt đầu! – Nhiều tiếng lao xao.
-
Đúng! Đội 5 bắt đầu. Ai, là đội trưởng đội 5, giơ tay lên! – Ban nhìn quanh.
-
Thằng Ban lú rồi! Mày là trưởng lớp, ngồi cuối dãy, đầu bàn, nên mày là đội
cuối cùng. He… he… thằng Ban có mêdzợ qué, nên lú lẫn!
-
Cái bánh “bỉm” hại nó! He… he…
-
Ban! Cái bánh “bỉm” hình thể nó thế nào? – Thằng Đại, cười rú lên.
-
Nó, như cái bản mặt Cảnh sát thằng cha Ngụy của mày! – Ban nói nhưng không nhìn
một ai, vì hắn biết tiếng cười rất quen thuộc này.
Thằng
Đại tím tái cả mặt. Hắn im re!
Ngoài
bốn đứa, Ban là một trong những khuôn mặt khá thân trong phố Thành.
Thằng
Ban, là dân bên kia Đại Điền. Năm lên lớp Đệ ngũ, hắn không dám ngủ đêm ở quê.
Ban có người chú ở Thành, nên đêm nào cũng qua đây ngủ vì sợ Việt cộng bắt lên
núi. Thi thoảng, Ban, Tuấn cùng hai thằng bạn nữa thường kéo nhau về Vườn Trầu
nhà thằng Đại chơi: học bài chung, làm thơ, sáng tác nhạc… nên rất thân nhau.
Ban cũng biết, ba thằng Đại làm cảnh sát ở Chi khu Diên Khánh với cấp bậc Trung
sĩ nhất.
Lúc
tan hàng, ông cũng chạy vào Cam Ranh như mọi người lính khác, để tử thủ. Nhưng
đến Suối Tiên bị đám du kích, lẫn bộ đội chính quy, tràn ra đánh, cắt đôi đoàn
quân di tản, ông phải chạy trở về ngay hôm đó trên chiếc xe jeep, bỏ trong Vườn
Trầu.
Nhà
thằng Đại giầu lắm. Ba nó có ba căn nhà ở phố Thành của nội, ngoại để lại. Hai
căn kia để Cô, Dì nó buôn bán hàng tạp hóa và tiệm bánh Trung thu. Nó chiếm một
căn, với mấy đứa em trai. Gia đình ông Thuận Thanh có 10 cô con gái, thì gia
đình nó có 10 thằng con trai. Năm thằng lớn, sinh năm một, sống ở phố, năm
thằng còn lại sống với bà mẹ Công chúa giàu sang, có kẻ hầu trong vườn cây ăn
trái lớn ở Vườn Trầu, mà đa số là trồng cây vú sửa. Như đã nói, Vườn Trầu là
đất mất an ninh về đêm, nên Ba nó bắt nó ra Thành sinh sống và đi học, vì sợ
mấy ông du kích trên núi xuống bắt đi.
Mỗi
mùa vú sửa ra trái, đến gần cuối mùa thu hoạch, nhìn năm anh em nhà nó dẫn bạn
về hái ăn, Tuấn xón cả tâm can. Bọn học sinh vừa tìm kiếm những trái vừa chín
tới ăn, vừa đạp những nhánh vú sửa gãy gập xuống, chờ. Hai ba hôm sau, những
trái vú sửa chín dấm ấy, được bọn học trò nghịch ngợm kéo cả cành xuống ăn
tiếp.
Đại
là con mọt sách trên mọi con mọt sách. Nhìn tủ sách cho thuê của nó không thua
gì thư viện nhà trường, ai cũng nể nó. Tuấn, may mắn được đọc tủ sách của nó,
cộng tủ sách gia đình ông Năm, đó là nền tảng căn bản để vào đời của anh.
-
Thằng Ban bò, sao kỳ vậy?
Tuấn
bỏ nhỏ tai Đại. Hắn đứng im re. Cái cảnh ông bố hắn, đang nhấp nhỏm từng ngày,
trong vườn cây ăn trái thênh thang ở Vườn Trầu, làm Đại lo ra.
-
Dường như thằng Ban đã thay đổi? Đôi mắt là biểu hiện cho một linh hồn trong
sáng! – Đại rên rỉ.
*
Đọc
những sách báo ở miền Nam tự do, Tuấn biết: Trong cách tổ chức guồng máy chính
quyền, có lẽ không một tổ chức chính trị nào hoàn hảo bằng người Cộng sản.
Đó
là tuyên truyền!
Đi
đến đâu, họ cài cắm đến đó, dù có bị giết chết, hoặc cơ sở tan hoang, họ vẫn
làm.Chưa chắc họ hiểu biết, hoặc thông suốt, vì thường khi ở núi rừng hoặc sống
chui rút nhiều hơn ngoài đời.Cái máu “cướp” của họ là tiêu chí đầu tiên. Cán bộ
chết, sẽ có người khác thay thế!
Trong
giáo dục cũng vậy.Suốt ba tháng trong trận chiến cuối, từ Bắc vào Nam, họ cài
cắm những nơi đã từng đi qua.Giữa tháng 5, 1975, trường Trung học Diên Khánh đã
có 5 giáo viên từ ngoài Bắc vào chiếm đóng.
Ông
Hiệu trưởng: một gã nhà quê nói ngọng, l thành n và ngược lại. Chính trị viên
học đường là một gã vô cùng khó hiểu đến quái dị: Gã luôn đeo kính đen dù vào
trong lớp học, và bên hông cái đài nho nhỏ, bật, tắc tùy thích mỗi khi hứng.
Và
một cô giáo dạy toán cấp ba, 21 tuổi, với cái quần vải đen nhăn nhúm, áo vải
màu xanh của lính đến thảm hại, ngực chùn thẳng xuống như đeo yếm đào, của thế
hệ trước.
Không
hiểu bằng cách nào, lão Tôn bây giờ là Giám thị trường trung học Diên Khánh.
*
Thằng
Ban ở đội 5, cắm cúi dọn lớp học sau ba tháng nghỉ học vì chiến tranh đến hồi
kết thúc.Ở đội 5 có 5 nam và 5 nữ. Ban toán, thường rất ít nữ sinh. Nhưng đã là
nữ sinh ban toán, thì khỏi chê! Các cô luôn vượt qua các bạn nam sinh, gần như
dẫn đầu, ngoại trừ Tuấn. Thằng Ban vừa dọn, quét, vừa rên.
-
Mẹ. Có năm bà Công chúa cũng như không! Chỉ bọn con trai là thiệt thân.
Đám
con trai học sinh nghe vậy cười khoái chí vỗ tay. Thằng Ban ngừng tay quét dọn,
lõ mắt nhìn ra hăm dọa.
-
Cười. Cười gì? Muốn tôi ném, như ném bò!
-
Ném đi, ném đi! Ném thằng nào có tên Ban bò trước nhất! He he…
Ban
bò uất ức đi vào lớp.
-
A ha. Các bạn nhìn kìa. Bên A1, có hai tiểu thư áo dài…
-
Ê, thằng kia! Giờ này, con nào dám áo dài?
Quả
thật, chỉ sau một trận “cuồng phong” rất ngắn, lớp lớp “ngoài kia” tràn vào với
mũ tai bèo và áo bộ đội xanh dành cho mọi tầng lớp, không hơn hai tháng, mọi áo
dài cổ truyền Việt Nam, dường như mất biến vĩnh viễn không một lời chay tịnh, bái
đưa vĩnh biệt. Đàn bà, quần lãnh đen hoặc xám xỉnh, nhăn nhúm xuất hiện ngày
càng phổ thông hơn. Cái áo dài mất biến trên những thân hình thuôn thả của các
giáo sư trẻ kính mến trước kia.
Mọi
thứ đều đảo ngược. Trong sân trường ngày ấy, không còn là: nam sinh, áo trắng
quần xanh, nữ sinh áo quần dài trắng. Giờ là mọi thứ màu hổn độn, đập vào mắt
mọi người.Một thứ vô trật tự, cố ý, làm bung xung lên. Thậm chí không còn một
chiếc xe máy nào, đậu ở nơi dành riêng cho các giáo sư lúc trước. Chỉ xe đạp,
sau hai tháng cách mạng thành công!
Điều
đó cho biết rằng: Người dân miền Nam, rất nhạy bén với thời cuộc!
*
Chương
12
Ông
Năm chủ tiệm hình “Bóng Tối” bước ra khỏi tiệm ăn A Ùi (nay là ngân hàng Nhà
nước), mặt tím tái vì tức giận. Ông lầm bầm.
-
Một chính quyền khốn nạn. Một bọn cướp ngày!
Từ
khi thấy lão Tôn và giáo Sinh hành xử như một thứ côn đồ không luật pháp, ông
bắt đầu bất mãn, không sinh hoạt gì cả.Ông đóng cửa tu tại gia, mặc lão Tôn
hoành hành bá đạo qua cái mác chủ nghĩa CS, ông vừa nhìn ra (sau gần hai thập
niên làm việc lén lút cho họ!). Tùy tiện hành sự bắt người trái phép, đập phá
chùa chiền của các tôn giáo, là một nhà nước vô cùng nguy hiểm, theo như ông
nghĩ.
Bây
giờ đến lượt ông!
Sau
hai tháng “giải phóng” miền Nam, cửa tiệm ăn của ông A Ùi vẫn đóng cửa im ỉm.
Không một ai trong phố biết ông hiện giờ ở đâu và ra đi từ lúc nào! Lão Tôn
càng nôn nóng hơn.Lão muốn biết bên trong có gì thay đổi, hay còn lại những
gì?Lão Tôn bấy giờ là Xã trưởng xã Diên Toàn, kiêm Giám thị trường Trung học
Diên Khánh.Lão đề nghị lên Huyện ủy cho tịch biên cửa hàng ông A Ùi.Trên Huyện
đồng ý. Lão Tôn dẫn mười mấy tên du kích đầu trâu mặt ngựa, đập cửa xông vào.
Tiệm ông A Ùi vẫn y nguyên, như những ngày thường mở cửa trước kia. Bà vợ điên
của ông cũng biến mất một cách lạ lùng. Trên căn lầu, chỉ còn lại những sợi dây
xích rỉ sét.
Sát
vách tiệm A Ùi là ngân hàng Nông Thôn Diên Khánh trước 75, lão Tôn cho người
đập vách, cơi rộng ra, sát nhập thành một; và Ngân Hàng Nhà Nước ra đời ở đây.
Lần đầu tiên, sau hơn hai tháng “giải phóng”, ông Năm mới nghe được cái gọi là
“danh từ”: Nhà nước. Chứ không còn là của Nhân dân, như từng nghe và thắc mắc!
-
Ha! Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Tòa án nhân dân, và nhiều thứ nữa cũng
của… nhân dân! Công an làm sao là của nhân dân, khi mà ai cũng sợ hãi sau hai
tháng “giải phóng”, khi mà người dân bắt đầu thù hằn gọi bọn chúng là Bò Vàng,
Bò Xanh? Quân đội làm sao là của nhân dân, khi đó chính là tập họp của một số
người làm việc dưới sự chỉ thị của đảng?Nhất là tòa án, dùng để xử kiện, khép
tội nhân dân cho có án, lại là của nhân dân?Sao kỳ vậy? Thật là một lối ru ngũ
tinh vi của người cộng sản. – Ông Năm lẩm bẩm.
Mới
đây thôi, hai tháng trước thời còn mồ mả chính quyền VNCH, ông Năm “Bóng Tối”
còn làm ăn, giao dịch với những tiệm hình trong nước, và buôn bán với người
Nhật qua tiệm hình, ông phải gửi tiền vô Ngân hàng để tiện giao lưu. Đồng đôla
của quân đội Mỹ, ông có rất nhiều, nhưng không bao giờ gửi vào Ngân hàng, chỉ
gửi tiền đồng VN. Vậy mà hồi nãy, rút ra họ không cho…
-
Thưa cô. Tôi muốn lấy hai triệu!
-
Bác nói gì ạ? Hai triệu cơ à. – Một giọng Bắc nhỏ nhẹ.
-
Dạ. Hai triệu.
Lúc
bấy giờ hai triệu lớn lắm, khi chưa đổi tiền.Cô gái mắt mở to, nhìn ông.
-
Gia đình bác có người qui tiên?
Ông
Năm nỗi sùng.
-
Cô nói gì lạ vậy!?Tôi bỏ tiền vào, thì tôi cũng có quyền lấy ra bất cứ lúc nào
muốn, dù thay đổi chính quyền.Mọi thứ vẫn còn đó qua con số. Hồi trước, tôi lấy
có ai thắc mắc! – Ông dí cuốn sổ ngân hàng vào mặt cô gái, nói.
-
Cháu biết. Nhưng theo qui định mới của chính quyền “ta”, vì vừa mới giải phóng
cho giai cấp nông nô, số tiền được rút ra phải có lý do chính đáng, như gia
đình “ta” có tang chế hoặc tai nạn ngặt nghèo!
-
Tôi cần tiền, nên phải lấy ra!
-
Thưa bác. Đó là quy định ạ!
-
Qui định gì kỳ cục vậy?
-
Như vậy không đúng chủ trương của nhà nước, bác ạ! Phải có người thân qua đời
hoặc tai nạn gì đó, ngân hàng Nhà nước mới cho rút. Bác cũng thông cảm, đất
nước vừa chấm dứt chiến tranh, cần xây dựng lại…
-
Như vậy, tôi phải mong thân nhân chết bất đắc kỳ tử, mới rút được tiền ra? Bây
giờ tôi đã hiểu thế nào là ngân hàng Nhà nước!
-
Bác bảo sao ạ? Bác thông cảm nhé. Đây là chính sách của Nhà nước “ta” ạ!
Ông
Năm muốn chữi thề! Nhưng nghĩ lại, là nhà tu hành đành thôi, ấm ức ra về.Ông
lập lại lần nữa.
-
Đồ quân cướp ngày, ngân hàng Nhà nước VN!
*
Đi
ngang qua chợ Thành, ông Năm loáng thoáng nghe tiếng loa, giọng quen quen. Ông
đứng lại, dỏng tai nghe. Bên kia đường là ngôi Đình cũ kỹ trên trăm năm, một
giọng eo éo như đàn bà.
-
À. Lão Tôn. Con thằng lằn từng đeo trên cột đình là mụ Bốn Cao!
-
Các anh là tàn dư của Mỹ Ngụy để lại, nhưng các anh chỉ là những hạ sĩ quan và
binh lính. Chính quyền cách mạng lâm thời, theo chính sách khoan hồng của đảng,
tập trung các anh hôm nay, và cho học tập cải tạo 3 ngày, để biết rõ đường lối
chủ trương lãnh đạo sang suốt của đảng. Sau đó, các anh được về đoàn tụ với gia
đình. Và, sau đó nữa, các sĩ quan quân đội, được học tập mười ngày, rồi cũng về
với nhân dân, trở thành công dân đích thực của nước VNDCCH! Ba ngày đó, các anh
học tập ngay mái Đình này… Chính sách của đảng rất khoan hồng
và
độ lượng, đối với bọn Ngụy quyền thua trận là các anh. Nghe rõ!
Mọi
cái miệng nhép lên, rên ri rỉ.
-
Rõòo…
-
Đúng là thằng Tôn.Cái miệng “Tôn lò”của nó đáng ghê thiệt. Hèn chi, giáo Sinh –
như cặp rắn song sinh cùng lão Tôn, tôn hắn là “đồng chí đại ca”!
Ông
Năm không nhịn được, rên lên, khi biết rằng ông anh của ông, vì một chuyến thất
lạc trên biển, do thời tiết gây nên, bị thuyên chuyễn làm một gã anh nuôi, hậu
cần gì đó, khó ngóc đầu lên.
Ông
đi qua hàng người lố nhố, trên 50 mạng người xếp hàng dọc, nhìn vào.Ông thấy
chú Tám ba thằng Đại, trong số ấy.Chú Tám cũng nhìn thấy ông Năm tiệm hình
“Bóng Tối” đang đứng nhìn. Chú nheo mắt làm hiệu, ông Năm bước đến gần, hỏi.
-
Mọi người làm gì ở đây?
Chú
Tám nói.
-
Anh Năm, cứu em!
Ông
Năm và chú Tám là đôi bạn thân từ hồi Pháp thuộc, nên rất thân nhau, như Tuấn
và thằng Đại bây giờ.Ông lớn hơn chú Tám vài tuổi.
-
Lão Tôn bắt tập trung, học cải tạo ba ngày, không biết có thật không?
-
Ba ngày thì ba ngày. Thôi, chú ráng lên còn về với vợ con. Chứ lão Tôn và giáo
Sinh là “song Tỵ hữu hành hung” ở phố Thành bây giờ. Đừng chọc lão giận mà nguy
đến bản thân. Chú hãy nhìn cái gương của tui bây giờ mà hành xử!
Ông
nhìn quanh, lắc đầu như ngầm bảo.
-
Thân tôi lo chưa xong, nói gì đến chú!
Chú
Tám không hiểu ý, nói huỵch toạt.
-
Hồi trước, em biết anh là VC nằm vùng, nhưng không báo cáo!
-
Bởi vậy, tôi với chú, bây giờ mình giống nhau, ôm nạn vào mình! Đừng trách móc
thằng Mỹ và thế giới tự do! Hãy xem lại chính mình đã làm gì! Một thằng làcảnh
sát, không tố cáo bạn bè mình là cộng sản; một thằng dân, nuôi và tiếp tế cán
bộ CS nằm vùng, chỉ vì lợi nhuận cá nhân do ngoại bang đem đến! Bản thân tôi
cũng như chú, nhưng tôi đang ngoài vòng kềm tỏa, làm sao giúp chú! Nên nhớ: lão
Tôn, mặt chuột, tai dơi, mắt lé liêng là loại người nguy hiểm.
-
Đồng chí… ông Năm! Mời ông ra khỏi nơi đây.Đây không thuộc trách nhiệm ông.-
Lão Tôn quơ gậy nói như hét vào loa.
Ông
Năm chủ tiệm hình “Bóng Tối”, nhổ bãi nước bọt đi thẳng về nhà, miệng lầm bầm.
-
Cách mạng mà có những loại người như mày, đất nước này cũng đến hồi mạt vận!
*
Mọi
sinh hoạt đã trở lại bình thường trong một xã hội mới vừa thành hình. Dân chúng
có vẽ hài lòng cuộc sống trước mắt. Chiến tranh chấm dứt, đồng nghĩa với hòa
bình mà họ hằng mong đợi trên quê hương VN chịu nhiều tai họa đau thương, giữa
người đồng chủng giết nhau bằng súng đạn ngoại bang. Cảnh chết chóc hàng ngày
vì đạn bom pháo nổ, phải chui xuống hầm không còn, cảnh di tản dân chúng nơi
xẩy ra chiến tranh không còn thấy nữa, những cái chết tập thể sẽ lùi dần vào
quên lãng của trí ức…? Trước hết, họ phải sống, tranh đấu sống để xây
dựng
lại những gì đã mất mát trong chiến tranh tàn khốc. Với họ, đó là ước mơ lớn
nhất, dù sự mất mát vừa trải qua vô cùng bi thảm và đớn đau…
Như
thường lệ, mỗi sáng sớm, Tuấn ngồi retouch những tấm film trước khi đến trường.
Anh vừa làm, vừa miêm man suy nghĩ. Cũng có thể, những ước mơ của người dân tầm
thường là điều đến tầm tay với của họ. Ở họ, hầu hết 80% dân nông thôn trên đất
nước sống về nông nghiệp này, hoàn toàn thuộc về họ; và họ có quyền mơ ước. Còn
những người lính chế độ VNCH thì sao? Tuấn không một mảy may tin tưởng. Kinh
qua những kinh nghiệm đi nhiều nơi, thấy nhiều việc… qua những tàn sát tập thể.
Đọc những hồi ký, truyện, và nhất là cuốn film “Chúng tôi muốn sống”, thuật lại
những ngày Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, rồi vượt biển vào Nam, do chú Tám, ba
thằng Đại, cùng Bộ Chiêu hồi trình chiếu dưới Đình, Tuấn không tin tưởng lắm.
Trước
nhất, ngày tập trung hạ sĩ quan và binh lính ở Đình, trước chợ Thành.Đúng ba
ngày, mọi binh sĩ đều trở về quê quán, làng xã quanh vùng sinh sống như một
công dân bình thường.Chỉ duy nhất, hai ông trung sĩ cảnh sát, là ba thằng Đại
cùng một ông trung sĩ bên Bộ Chiêu hồi biệt tích, không biết họ bị đưa đi đâu.
Học
tập ba ngày.Đúng ba ngày trở về, như lời cách mạng hứa.“Đúng hẹn lại lên”,
những ông Sĩ quan “hân hoan” trình diện cho 10 ngày, đều biệt tích hôm sau.Cái
Đình vắng tanh. Không loa, không tuyên truyền phủ dụ; và lão Tôn cùng giáo Sinh
mất tiêu!
-
Thằng “Chài Cộng sản” buông một tấm lưới thật tuyệt diệu!
-
Rầm… rầm… Mở cửa… mở cửa, Đại.Nếu không, tụi tao đập cửa vào.
Tuấn
giật thót người vì tiếng động chát chúa và tiếng người réo gọi như một bọn
cướp. Anh đưa cán bút, vạch kẻ hở nhìn ra. Bên kia đường, đối mặt xeo xéo là
nhà thằng Đại, bọn du kích bốn đứa cùng chiếc xe ba gác, mà mụ Bốn Cao ăn cắp
của ông A Ùi, không biết thế nào lại lọt vào tay chúng. Chúng đập rầm rầm,
nhưng không có tiếng trả lời. Những cái búa tạ bắt đầu đập “ình ình” vào những
thanh gỗ cứng như sắt, rồi cũng vỡ ra. Bọn du kích ùa vào như một lũ Sa tăng,
hừng hừng tà khí.
Bụp…
bụp…
Mấy
chục cái hồ cá cảnh, chúng đập từng cái, thống khoái như như một lũ rồ. Những
con cá Tai tượng, cá Chép… to bằng bàn tay nằm giẫy giẫy trên nền cement, rồi
tuôn ra lề đường. Chúng đạp lên cá vừa đi, vừa đập phá mọi thứ. Một thằng chúc
đầu xe “ba gác” xuống, tông thẳng vào nhà thằng Đại, la to.
-
Tiêu hủy văn hóa đồi trụy của bọn Ngụy quyền Sài gòn, các đồng chí ta ơi!
Những
kệ sách đổ ập xuống trong lòng chiếc “ba gác”, thoáng chốc đã đầy. Chúng lui xe
ra lề đường, trút những cuốn sách xuống, và lại đi vào. Cứ thế tiếp diễn. Khi
những kệ sách trống không, và chiếc “ba gác” đã đầy ắp, một thằng leo lên ngồi,
một thằng khác từ phía sau tiếp lực, đẩy chiếc xe đi về hướng trường Trung học
Diên Khánh. Mấy thằng còn lại bắt đầu dồn lại những cuốn sách ướt, khô, cao
ngút như một Kim tự tháp nhỏ gọn, chúng châm lửa đốt! Khói đen ngộp trời.Chúng
tưới thêm dầu lửa, ngọn lửa bắt đầu bùng cháy nhanh hơn.
Những
con cá to bằng bàn tay, trên vỉa hè và lòng đường, chúng giẫy giẫy và từ từ
cong lên như những cánh cung không cần sợi dây căng cứng!
-
Một mùi thơm của Cách mạng đang đem đến!
Tuấn
đưa cán bút, khép tấm gỗ. Anh mở khóa, dắt chiếc xe đạp “đòn dông”, đạp nhanh
lên trường.
*
Vừa
tới cổng trường, Tuấn đã nhìn thấy, những cuốn sách và báo đang được bọn học
trò bê ra từ thư viện nhà trường đổ hàng đống trước phòng, dưới bực thềm của
ban Giám Hiệu nhà trường. Lão Tôn với cây gậy, quơ quơ, hò hét hối thúc học
sinh.
-
Nào, mau lên các em, rồi chúng ta phải đốt cho nhanh cái thứ sách đồi trụy của
bọn Ngụy quyền Sài gòn này!
Tuấn
dựng xe vào cổng, chạy thốc vào thư viện nhà trường. Nơi đây, anh từng làm tự
nguyện viên quản thủ thư viện, vì tánh mê sách. Cả một thời tuổi trẻ của Tuấn
ngoài việc vác máy ảnh đi chụp hình, phải nói sách là món ăn tinh thần anh mê
đắm đuối. Bây giờ, những cuốn sách mà anh trân quí, sẽ bị hủy hoại trong chốc
lát làm anh đau lòng. Thằng Ban bò, tay đeo băng đỏ, vừa hối bọn học sinh mang
sách vất đi, vừa đi theo chúng kiểm soát chặt chẻ. Sau tháng Tư, những con
Chuột bắt đầu ló ra, khoe hình hài… một lũ ăn cơm Quốc gia thờ ma CS, trong đó
có gia đình Tuấn, Ban bò và rất nhiều nữa… Họ chính là những nhân tố quyết định
vận mệnh đất nước, cho một chính quyền tự do non trẻ ở miền Nam vừa mới thành
hình.
-
Ban! Ai bảo mày làm việc này, hả, hả?
Ban
bò lần đầu tiên thấy Tuấn cộc cằn đến nghiêm trọng. Hắn ngớ người ra.
-
Không có mày tao phải làm! Dù sao, tao cũng là Đoàn viên, đoàn thanh niên cs Hồ
Chí Minh, lại là đoàn phó.
Tuấn
lặng im, vì Ban nói đúng!
Tuấn
được lão Tôn, bấy giờ là Giám thị trường, chỉ định và kết nạp vào đoàn thanh
niên cs, vì có nhiều thân nhân hoạt động cs từ thời kháng chiến chống Pháp và
sau này của hai chính quyền Đệ Nhất, Nhị. Vì thế, mọi sinh hoạt của học sinh
đều qua sự giải quyết của Tuấn, ngoài ông Hiệu trưởng, lão Tôn và ông chính trị
viên học đường. Mấy anh lớp 12, cũng phải e dè và sợ Tuấn. Tuấn dịu giọng.
-
Mày đi ra ngoài kiểm soát các bạn mang sách ra. Tao ở trong này.
Thằng
Ban bò lầm lủi, đi ra, không hầm hè đe dọa vui đùa như trước.Lần đầu tiên trong
đời, Tuấn thấy sức mạnh của một tập thể cầm quyền. Nó mạnh đến dễ sợ!!! Sức
mạnh ấy, không là vai u, thịt bắp, mà là một sự gắn bó hữu cơ đến vô lý: – Tập
thể của những người có quyền hành – dù lớn, nhỏ đến cở nào trong sinh hoạt
đảng, đoàn! Đó là chìa khóa “vạn năng” để ngoi mình trong chế độ cs.
Tuấn
nhìn quanh căn phòng. Sách và báo, ngổn ngang đến não lòng! Ôi, những cuốn sách
cho anh vào đời, giờ thế này sao?Anh đi lòng vòng, muốn khóc. Trong góc cuối
căn phòng, dành riêng cho những loại sách nghiên cứu và ngoại ngữ, Tuấn thấy
hai cuốn Tự điển 1, 2, bản Pháp Việt, Việt Pháp: Larouse. Anh mừng muốn rú
lên.Lúc bấy giờ, những cuốn Tự điển loại này rất hiếm ở miền Nam, nhất là ở
những thành phố nhỏ như Diên Khánh. Tuấn học sinh ngữ Anh và Pháp từ người chị
là giáo viên sinh ngữ Anh, lúc vào hệ trung học, nhưng nghe và nói, anh hoàn
toàn mù tịt! Bà chị Tuấn, mỗi khi nói chuyện với ông anh Luật sư của Tuấn, họ đều
nói bằng tiếng Pháp, dùng những từ khó hiểu hơn. Tuấn thắc mắc, anh chị đều
nói.
-
Mày còn nhỏ, không nên hiểu và nghe!
Tuấn
vô cùng ấm ức! Bây giờ nó nằm đây! Làm quản thủ thư viện bao năm, nhưng Tuấn
chưa bao giờ tìm thấy. Đủ hiểu, thư viện của một trường trung học tỉnh lẻ, nó
lớn đến dường nào!
Chờ bọn học sinh ra khỏi thư viện, Tuấn chộp hai cuốn Tự điển vào nách. Anh ngó quanh tìm chỗ giấu. Không một chỗ nào khả dĩ giấu được. Tuấn trèo lên bậc cửa sổ phòng, nhìn quanh. Bên kia là hành chánh quận Diên Khánh, sau lưng là trại Pháo binh… Anh nhìn ông Thiên trên cao, hét.
Chờ bọn học sinh ra khỏi thư viện, Tuấn chộp hai cuốn Tự điển vào nách. Anh ngó quanh tìm chỗ giấu. Không một chỗ nào khả dĩ giấu được. Tuấn trèo lên bậc cửa sổ phòng, nhìn quanh. Bên kia là hành chánh quận Diên Khánh, sau lưng là trại Pháo binh… Anh nhìn ông Thiên trên cao, hét.
-
Chỗ nào đâây, hả… Trời!?
Trên
đầu Tuấn là tấm bửng cement, che mưa nắng cánh cửa sổ trong phòng. Anh bám đôi
tay, hít thật mạnh, đưa cả thân người lên cao, bỏ hai cuốn Tự điển vào đó. Tuấn
vừa nhảy xuống, thằng Ban bò bước vào.
-
Ông làm gì vậy?
Lần
đầu tiên, thằng Ban gọi Tuấn bằng ông! Tuấn đáp.
-
Tao, đang đái vào cái Chi khu Diên Khánh của bọn Ngụy quyền!
(Còn
Tiếp)
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment