Monday, 17 December 2012

HẠT ƯƠM HƯ [3/9] – (truyện dài Vũ Đình Kh.)




12:01:am 04/12/12

Chương 7

Cái xác Bảy Rắn chưa kịp chôn, còn ở trong Vườn Trầu nhà ông Xã trưởng, thì hôm sau, một chuyện trọng đại xẩy ra.
Quân Bắc Việt đang tiến vào thị trấn Diên Khánh.
Đó là vào lúc sáu giờ, khi lão Tôn thức dậy và bắt đầu ghi nhật ký phố Thành, như thường lệ.
Trời sinh ra lão Tôn, có đôi tai và cái mũi “ó đâm” rất thính!
Những tiếng ù ù… gầm rú của xích xe tăng, đang bò qua cầu Sông Cái càng lúc, rõ dần. Lão Tôn đang viết dỡ dang trang sách, đút vội vào túi quần, nghểnh tai nghe ngóng, định vị trí. Lão tung cửa chạy ra ngoài đường.
Ông Năm, chủ tiệm hình “Bóng Tối”, cũng vừa dắt chiếc vespa ra khỏi nhà. Ông khởi động đạp cái bàn đạp bên hông xe, trèo lên. Lão Tôn kêu ré lên, đưa tay vẫy vẫy.
- Ông Năm. Chờ tôi với. Tôi đi cùng ông.
Lão Tôn thót người, nhảy lên đệm xe, ôm chặt cứng hông ông Năm. Chiếc xe lao vút đi về hướng Cải lộ tuyến, nơi có cây Dầu đôi vài trăm tuổi.
Bên kia cầu Sông Cái, hàng mấy chục chiếc xe tăng T.54, nòng pháo xếp xuống, kềnh kềnh như những con bọ hung, nối đuôi nhau tiến vào thị trấn Diên Khánh. Chiếc cầu do người Mỹ xây lên, để quân lính Mỹ và Triều Tiên di chuyển trong chiến tranh và đóng quân bên kia đèo Lương Sơn, trước kia, run bần bật. Chiếc trước chạy, chiếc sau nối tiếp, cứ thế, tỏa ra đầy khói đen. Đến những chiếc gần cuối, những cái xích của tăng T.54, cào lên một lớp nhựa đường đen thui, bắn vãi về sau. Bộ đội Bắc Việt, đội nón cối, nằm, ngồi đầy bên ngoài trên chiếc xe tăng, dáo dác nhìn ngược xuôi.
Qua khỏi cây cầu, đến ngã ba Cải lộ tuyến, bọn lính Tăng khựng lại. Chúng dò dẫm phương hướng.
Quẹo trái, hay quẹo phải?
Cái nòng súng T.54 đang nâng lên cao từ từ. Chợt nhiên, nó bắn một phát đạn. Nó bắn thị uy hay bắn “sảng”!?
Vừa khi ấy, một chiếc xe Jeep của Quân Cảnh VNCH, từ dốc cầu Ông Cạn, hú còi, chạy xuống chận đầu đoàn xe tăng. Ông Bé, Xã trưởng, anh họ gã Bảy Rắn – vừa bị bắn chết sáng hôm qua – rút cây colt 45 ngang hông, bắn ba phát lệnh, rồi đeo vào tay trái cái vòng vải đỏ. Ông móc trong túi áo ra một lá cờ Mặt Trận, cột chặt vào cây ăng-ten xe!
Chiếc xe tăng đầu tiên rống ga, cái nòng súng quay phải, trái liên tục như dò dẫm. Khẩu pháo T.54 hạ xuống từ từ, chĩa thẳng vào chiếc xe jeep của quân đội VNCH, chuẩn bị loạt pháo thứ hai. Khi cái cờ xanh đỏ của Mặt Trận, được ông Xã trưởng Bécột chặt trên cái ăng-ten chiếc xe jeep, gã lái chiếc xe tăng, chợt hiểu. Nó quẹo phải, theo gã Xã trưởng tiến về phố Thành.
Ông Xã trưởng nằm vùng hú còi, dẫn đường!
Gần tới cầu Ông Cạn, cảnh cũ cũng lập lại. Lớp nhựa đường bị bóc ra từng mảng, đen đặc bay về sau. Ông Xã trưởng Bé, xuống xe, điều khiển từng chiếc tăng qua cầu, vì cầu Ông Cạn nhỏ và hẹp.
Ông Năm đèo lão Tôn, lách lẹo qua cầu, giúp ông Bé Xã trưởng, điều khiển đoàn quân tăng qua cầu an toàn. Khi đoàn tăng, qua hết cầu. Ông Xã trưởng mới nói.
- Cái băng đỏ của anh đâu rồi?
Lúc bấy giờ, ông Năm mới nhớ đến khẩu hiệu ngầm, trong tổ chức, nằm vùng. Ông lấy ra tấm vải đỏ, cột vào cánh tay.
Không hiểu lão Tôn cố ý hay tình cờ, cũng có một miếng vải đỏ khá dài, bề ngang bằng ba lóng tay. Lão cột chặt vào cánh tay, đến nổi gân.
Ông Xã trưởng và ông Năm, ngẩn người nhìn lão Tôn.
- Ông cũng là…?
Lão Tôn không trả lời, vội trèo lên ghế chiếc xe jeep ông Xã trưởng nằm vùng, nhặt đâu đó, khi lính Cộng Hòa tan rã, tháo chạy rồi bảo.
- Trước mắt… trước mắt, như… chạy lửa! Ông Bé. Cái loa, ông để chỗ nào?
- Dưới chân ông.
Chiếc xe Jeep vượt đoàn tăng, vào ngã ba A Ùi, với cờ Mặt Trận!
- Việt cộng vào rồi!
- Không, cách mạng vào rồi!
Lão Tôn thầm nghĩ.Lão mỉm cười, tự khen cái sự thông minh của mình. Là người từng trốn chạy chiến tranh trước kia ở ngoài Trung, lão đã từng chứng kiến, cảnh những tên Việt cộng nằm vùng, khi có thời cơ cướp chính quyền, như chúng thường rêu rao. Chúng thường đeo băng đỏ để dễ nhận diện nhau. Là người lo xa, lão Tôn luôn luôn giấu một cái băng đỏ như thế trong người, ngừa hậu sự khỏi bị chết oan, khi biết chiến tranh ngày càng ác liệt. Thật ra, lão chẳng ưa gì CS. Vợ lão chết dưới tay chúng mà. Lão muốn an phận làm người, có cuộc sống an nhàn, nên lão phải thủ thân!
Lão ngồi trên hai cái gọng che gió, nắng mưa, của chiếc xe Jeep nhà binh, bắt loa nói huyên thuyên.
- Đây là Mặt Trận giải phóng miền Nam, đại diện cho chính quyền lâm thời. Quân Cách mạng đã giải phóng miền Trung, thoát ách Đế quốc Mỹ, Ngụy! A lô, a lô… Quân Cách mạng đang vào. Bà con ra chào đón đoàn quân cách mạng…
Qua khỏi chợ Thành, đoàn xe T. 54 chợt ngưng ngang ngay ngã ba. Cái ngã ba bề ngang trên bốn thước, chỉ đủ cho một chiếc xe jeep hoặc xe lam ba bánh chạy. Trước mặt chiếc xe tăng là những dãy nhà lầu.
Mà cái nòng nóng súng T.54 lại quá dài! Những chiếc xe tăng T.54, đứng khựng lại. Cũng lại cái ngã ba đường! Cái nòng súng T.54 lại bắt đầu bấn loạn, như khi vào ngã ba Cải Lộ tuyến. Cái nòng súng, càng lúc, càng quay lên cao.
- Ình!
Nó bắn một phát đạn hù dọa. Rồi một phát nữa như tức tối!
- Ình!
Khi thấy chiếc xe Jeep của ông Xã trưởng, quay ngược lại. Nó thốc tháo đâm đầu tiến tới.
Trước mặt, là tiệm Pharmacy của bà Hai Thơ. Chiếc tăng rấn lên, quên rằng cái nòng súng chưa hạ xuống. Nữa cái nhà đổ sập.Chiếc tăng ủi thêm vào, rồi nó lui ra.Đất đá, gạch ngói, rớt ầm ầm phủ cả chiếc tăng. Gã lái xe mất phương hướng, cái nòng súng quẹt qua, quẹt lại, hai căn nhà hai bên đổ sập cả mặt tiền. Hàng loạt chiếc tăng phải de lại. Chiếc đầu tiên mới đủ chỗ, rướn đi tiếp.
Trời sáng hẳn.
Khi đoàn quân Bắc Việt tiến vào hai con đường của phố Thành, mọi người ùa ra, đứng hai bên đường vẩy tay và la ó, như một lũ điên. Nhiều gã trai tráng trong phố, chạy ra leo lên những chiếc tăng reo hò vui mừng.
Từ trên căn gác lững, nơi Tuấn và một người anh thường ngủ, đang là Luật sư hành nghề ở Sài gòn; Tuấn nhìn xuống.
Hình ảnh đầu tiên, đập vào mắt anh, không là những chiếc Tăng T.54, mà là những lá cờ của Mặt Trận giải phóng miền Nam treo đầy! Những lá cờ này, được treo trước nhà, hay trên sân thượng của những Hoa kiều, sống rất lâu ở phố Thành!
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, là một vị Tổng Thống anh minh.Ông rất đúng, khi ban hành nhiều sắc luật.trong đó có: Cấm người Hoa, nhiều mặt về buôn bán. Ông sợ số người Hoa ngụ cư này, thao túng kinh tế và lũng đoạn nền chính trị miền Nam.
Những lá cờ này, từ đâu ra, khi mà người dân phố Thành, lúc đó mới biết, đó là cờ: Mặt Trận Giải phóng miền Nam???
Tuấn nhìn đám người dưới đường đang vui mừng la ó, hò reo quân Bắc Việt, lẩm bẩm.
- Reo hò cho đã đi, rồi từ từ thấm đòn!
Tuấn nhìn đoàn xe tăng đang chầm chậm tiến vào. Anh nhìn thấy, dẫn đầu đoàn tăng là ông Năm trên chiếc xe vespa, sau đó là ông Xã trưởng cùng lão Tôn đang vung cái loa nói thao thao. Tuấn giật mình, hoảng hốt.
- Sao kỳ vậy? Lão Tôn là Việt cộng nằm vùng, mình không ngạc nhiên, nhưng lão Xã trưởng Bé mà cũng nằm vùng à?! Hèn chi, lão ta chứa gã Bảy Rắn giả điên, nhận bà con. Mẹ. Lão Tôn “chơi chẳng bao giờ đã”, như lời mụ Bốn Cao rao khắp phố cũng ghê gớm thiệt! Miền Nam sắp mất vào tay CS rồi!!!
Lão Tôn đưa cái loa, ngang cái mũi “ó đâm”, nói rổn rảng.
- Kính thưa đồng bào trong phố. Đây là đoàn xe tăng đầu tiên, của quân đội nhân dân chính quy, từ Hà Nội, đang trên đường vào tiếp thu Sài gòn. Họ đi đường xa, xin bà con ủng hộ quân đội cách mạng những gì có thể. Họ là bộ đội cụ Hồ! A lô… a lô… Bà con có nghe tôi nói?
Bà con có nghe tôi nói? Ai, chứ lão Tôn mà nói câu này, thì phải hiểu bằng một ý khác. Lão ghi vào sổ nhật ký là tàn đời trong giai đoạn tranh tối, tranh sáng này!
Tuấn đưa mắt quan sát.
Dân chúng bắt đầu đem mọi thứ có được mang đến tận những chiếc xe tăng, hân hoan dâng quà. Đám bộ đội còn rất trẻ, cở tuổi Tuấn, hí hửng nhận.Trên lầu cao, đám Hoa kiều liệng xuống những bao gạo nặng ký cùng đồ ăn, thức uống. Trên ban công nhà ông Thuận Thanh ném xuống những hộp sửa ông Thọ. Ông cố tình ném thật mạnh, vào đầu một gã bộ đội, rồi thụt người vào. Gã bộ đội trẻ, la ré lên, ôm cái đầu máu cùng hộp sửa ông Thọ, nháo nhác nhìn.
Tuấn lắc đầu, nhìn cái ban công nhà ông Thuận Thanh không một bóng người, chép miệng.
- Đồ vô hậu, ăn ở bạc ác. Hèn chi lão sinh chục đứa con gái, không trai!
Trời bắt đầu nóng.Cái nóng hừng hực lửa của bắt đầu vào Hè.
Đó là ngày 2 tháng 3, năm 1975.
Đoàn xe tăng nổ máy, bắt đầu di chuyển xuôi Nam, cho một hành trình kế tiếp. Ông Năm dẫn đầu đoàn xe, tiếp đến lão Xã trưởng Bé nằm vùng, cùng lão Tôn trên chiếc xe jeep với cái loa luôn luôn léo nhéo, trực hướng Cam Ranh.
- Chiến tranh và khói lửa đang chờ họ trước mặt. Liệu đám thanh niên miền Bắc mới lớn này, dù có chết, xác lấp đầy núi rừng Trường Sơn, do một chủ nghĩa ngoại lai du nhập, có bao người còn lại để nhìn thấy một Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông – với ánh sáng chói lòa, tỏa khắp thành phố..
Ôi. Dân tộc Việt Nam, cả hai miền Nam, Bắc. Hãy bắn giết nhau đi, dù đồng chủng!
Tuấn thầm nghĩ.Anh bước vào nhà khép cánh cửa lại, anh ngồi xuống giữa nhà, nhập vào thiền và quên đi tất cả.
Một kiếp phù du!
&
Người con gái ông Năm, 21 tuổi, gọi Tuấn bằng anh, vì con cô cậu. Cô đưa cho Tuấn một tấm ảnh bằng lụa, nói.
- Ba bảo: Anh chụp lại tấm ảnh này, rồi rửa ra 200 tấm ảnh, cở 9×6. Phải xong chiều nay!
Tuấn mở mắt, đưa chân duỗi dài ra vì ngồi thiền khá lâu, rồi đứng dậy, cầm tấm ảnh.Đó là tấm ảnh của một ông già tốt tướng, râu trắng bạc phơ.Anh hỏi.
- Hình ai đây?
- Đố anh đấy!
Tuấn lắc đầu, chịu thua.
- Bác Hồ đấy nhé!
- Bác Hồ nào?
- Chính thị bác Hồ Chí Minh mà lị! Ba giữ tấm ảnh này lâu lắm rồi!
Tuấn nhìn kỷ bức ảnh lần nữa, anh không nghĩ: đó là ảnh ông Hồ. Anh nói.
- Đây không phải ảnh ông Hồ Chí Minh.Trong những tờ báo, cậu đặt mua ở Sài Gòn, Tuấn thấy hình ổng nhiều lần. Đó là khuôn mặt của một con cáo, hai tai vễnh như tai chuột, miệng thì nhọn, hơi hô, gầy đét như một kẻ nghiện thuốc lá rất nặng. Đây không thể là hình ông Hồ, một khuôn mặt phúc hậu, trái với ảnh ông Hồ trên các tờ báo Tuấn đọc hàng ngày.
- Nhưng rõ là Bác Hồ mà lại! Bởi vậy, ba mới kêu anh chụp lại, phóng ảnh 6×9, phát cho dân trong phố để… thờ!
- Mẹ kiếp. Cái dân tộc VN đến quái lạ.Thờ gì không thờ. Đi thờ một gã, đã giết chính dân tộc mình! Mậu Thân ở Huế, Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị, Bình Long chết thảm… không cho họ một bài học? – Tuấn định buột miệng, nhưng anh kịp dừng lại, nói lãng.
- Được rồi! Tuấn đi làm việc đây.
Tuấn biết, tấm ảnh đã được sửa, thêm thắt, cho đúng khuôn mặt của một Cha già lãnh đạo dân tộc!
&
Buổi chiều, ông Năm cùng lão Tôn trở về trên chiếc xe vespa. Bây giờ, lão Tôn là người sốt sắng nhất phố Thành.Lão đi vận động từng nhà, kêu gọi họ đến tiệm ông Năm, mua ảnh chủ tịch Hồ Chí Minh về thờ, không quên kèm thêm lời hù dọa.Người ta ùn ùn kéo đến mua ảnh.
Tuấn cố tránh mặt, leo lên căn gác lửng ngủ, nên không biết ông Năm bán một tấm ảnh bao nhiêu tiền.
Đang ngủ, chợt nhiều tiếng khóc thảm thiết từ dưới đường vọng lên, làm Tuấn thức giấc. Anh chạy ra ban công nhìn xuống. Một cảnh tượng làm anh đến sửng sờ. Trên con lộ nhỏ bốn thước chiều ngang, 500 thước chiều dài, bọc xuống ngã ba A Ùi. Anh thấy, trước mỗi nhà là một cái bàn thờ, với di ảnh Hồ Chí Minh, được trân trọng đặt giữa bàn, với hai cây đèn cầy hai bên, cùng bánh trái.
Tuấn thấycó người ôm bàn thờ quỳ khóc, như chính cha mẹ họ chết.Họ quỳ hàng loạt, như những công dân hiếu hạnh.
- Sao mà giống ngày Phật tử xuống đường ở Huế năm Mậu Thân!
Ô kìa…
- Bác Hồ ơi, là bác Hồ! Hu… hu… Bác sống khôn, thác thiêng, hãy về đây mà chứng giám! Bác chết chi quá sớm, để không nhìn thấy thành quả chiến thắng ngày hôm nay, Nam Bắc đã một nhà. Công ơn Bác, dân miền Nam chúng con một lòng trân trọng biết ơn! Hu… hu…
Đó là giọng khóc của mụ Bốn Cao. Mụ khóc nghe ghê, đến rợn tóc gáy, sởn cả da, gai gai! Nó nheo nhéo như cái loa ở phố treo vội vã hồi chiều, để tuyên truyền chiến thắng.
Lão Tôn tay trái đeo băng đỏ, tay phải cầm cây gậy quơ quơ, đang đi gần đó, thấy vậy bước tới. Vừa nhìn thấy lão Tôn, mụ Bốn Cao chụp vai lão Tôn, khóc nức lên đến thảm thiết.
- Ông Tôn ơi, là ông Tôn! Hu… hu…
- Nín khóc, nín khóc cô Bốn. Hôm nay là ngày đại thắng miền Nam, chớ nên khóc lóc làm mất không khí linh thiêng ngày cúng vái!
Mụ Bốn Cao nằm vật xuống, hai tay đập thùi thụi xuống đùi.
- Ông Tôn ơi, là ông Tôn ơi. Hu… hu… Sao hồi trước, ông không nói cho tôi biết, ông là người của Cách mạng, là người… của bác Hồ yêu quý của chúng ta… Tôi sẽủng hộông hết mình! – Miệng vẫn lu loa, mắt ráo hoảnh, mụ liếc nhìn lão Tôn, van lơn.
Lão Tôn khoái chí trong bụng, cúi xuống, nói nhỏ.
- Vậy, vẫn mùa hoa khế tím nhé, em Bốn Cao!
Tuấn đóng sập cánh cửa, buông câu.
- Rõ một bọn phường chèo nhơ bẩn!

*

Chương 8

- Ình… ình…
Hai tiếng nổ lớn vào sáng sớm, làm mọi người trong phố nhốn nháo.
Dân chúng tưởng Việt cộng pháo kích phố Thành, trước khi đưa quân đội Bắc Việt vào. Từ sáng hôm qua, khi đoàn xe tăng đi ngang qua phố, rồi xuôi về Sài Gòn, nhiều lời đồn truyền tai nhau. Họ bảo: Cộng sản ác lắm. Đàn ông họ bỏ tù và bắn hằng loạt, đàn bà mà son phấn họ sẽ cắt, rút móng tay, chân. Cộng sản đi đến đâu, là pháo kích bừa bãi vào nơi sắp chiếm đóng…
Vì thế, khi nghe hai tiếng nổ lớn, mọi người đều hoảng hốt.Ngoài chợ Thành, kẻ buôn người bán, quẩy gánh, thúng, đóng các sạp hàng, chạy tán loạn. Phút chốc cái chợ tan hoang, tiêu điều. Rau cỏ, bánh trái vứt bừa bãi, không còn một bóng người lai vãng.
Vài gia đình, lại rón rén mở cửa bước ra đường nghe ngóng. Không một động tĩnh.
Im lìm đến đáng sợ!
Vài phút sau đó, sự chờ đợi như đến căng cứng, không thể chịu nỗi nữa, tất cả mọi cánh cửa mở bung ra; nhưng, họ vẫn lấp ló bên trong cánh cửa, nhìn dè chừng.
Vài phút sau đó nữa, họ thấy một tốp người từ trong nội thành chạy ra.
Đầu tiên là bốn chiếc xích lô của dân Ba Làng nghèo khổ, ngoài phố, gần lò mỗ heo, dẫn đầu. Trên những xe xích lô chất đầy hàng của Quân tiếp vụ do người Mỹ cung cấp cho chiến trường miền Nam. Sau những chiếc xích lô, là những chiếc xe đạp chở quá tải, bánh xe gần như xẹp lốp, cố gắng đạp cho nhanh. Sau đó nữa, là những con người, tay xách tay mang, cả kẹp vào nách, mọi thứ mà họ lấy được. Cuối cùng là mụ Bốn Cao, ngồi sau bọc-ba-ga, chiếc xe ba-gác của ông A Ùi.
Gã H’nia đang cố đạp cho nhanh, nhưng vì tải nhiều thứ, nên gã vừa thở hổn hển, vừa trẹo chân đạp.
- Đồ ở đâu mà nhiều vậy, chị Bốn? – Vài người hỏi.
Mụ Bốn Cao nín khe, làm như không nghe.Mụ hối gã Dân tộc.
- Đạp nhanh lên H’nia, rồi còn trở lại chở tiếp. Tối có “thưởng”!
Gã Dân tộc thiểu số, bấy giờ đã rành tiếng Việt lắm rồi.Gã biết cả những gì bọn người Kinh ma mãnh, thường nói bóng gió, đẫy đưa.
H’nia ở đợ cho mụ Bốn Cao gần chục năm, từ khi là một thanh niên cao, to 16 tuổi, từng dẫn đường mụ.Gã càng hiểu biết tánh tình của mụ chủ hơn.Những buổi trưa, cả phố, mọi nhà đều đóng cửa ngủ trưa.Đó là lúc, gã thỉnh thoảng trổ tài. Gã tắm truồng… theo kiểu người Dân tộc vùng cao, mà mụ chủ của gã đã dạy!
Mụ Bốn Cao vô sinh, nên H’nia đi lên, xuống trong nhà thoải mái.Thường, gã đống cái khố, che cái cần che, vô tư đi long nhong trong nhà mụ Bốn Cao.Ra ngoài đường, đố ai biết H’nia là một người Dân tộc thiểu số. Chỉ khi nào nhìn vào hàm răng gã khi cười, toàn vàng là vàng, do ông Nha sĩ gần nhà lão Tôn trồng, mới biết gã là ai. Nhưng ít khi H’nia cười. Có cười, ấy là đôi môi nhích lên vén một bên như con đỉa, không đuôi, không đầu, vừa khinh khỉnh, vừa ngu dại của núi rừng Khánh Vĩnh.
Gã bắt đầu nhử, như mụ Bốn Cao từng rình!
Ở đợ cho mụ Bốn Cao nhiều năm, H’nia trở thành một gã người Kinh láu cá vô thường.Trái lại, mụ Bốn Cao đổi ngược, trở chứng, thích thành một thứ người dân tộc lai căng.Mụ thích ngắm gã ở đợ tắm truồng và mặc khố đi trong nhà.Mụ còn bắt H’nia thổi khèn. Ôi. Tiếng khèn của H’nia vào buổi trưa ngái ngủ, vào những canh khuya khó chợp mắt, thao thức, như tiếng con rắn rung chuông, đụt vào tai mọi cư dân trong phố. Tiếng trầm trầm, bỗng bỗng giữa trưa và giữa đêm, nghe đến tê tái cả người.
Cái tánh ác, ranh và tham, thì mụ Bốn Cao giầu lắm!
Nhưng mụ lại có cái đầu thiểu năng!
Mụ Bốn Cao và gã H’nia làm gì giữa trưa hè oi ả, nhiều người nhìn thấy.Nhà nào cũng có lầu.Có lầu cao, lầu thấp. Họ nhìn thấy thông thống cái giếng con, cạnh cái sân gạch của nhà mụ! Nó trần trụi, như khi mụ nằm, ngồi, đứng trên thân thể cao lớn của gã Dân tộc vùng cao, đang ngày càng bắt đầu ranh mãnh, quỷ ma.
Nhưng H’nia là người dễ dạy.Thật ra, gã càng ngày càng lém lỉnh.Gã cung cúc phục vụ bà chủ tận tụy và không bao giờ hé môi.Vì gã biết, đường về Bản làng đã bị khép kín, khi lần cuối H’nia trở về thăm cha mẹ già. Nơi đầu ngàn, của núi rừng trùng trùng, điệp điệp cây cối vươn cao của quận Khánh Vĩnh, gã nhìn thấy một tấm bảng gổ, ghi hàng chữ:
“Cấm vào. Khu Cách mạng trú đóng!”. Kèm theo cái hình sọ người, màu đen cùng hai cái xương trắng bắt chéo nhau!
Đây không còn là vùng “da beo”, mà là khu Việt cộng trú đóng, vượt khỏi sự kiểm soát của quân đội VNCH.
Nghe có “thưởng” cho tối nay, H’nia cong đít lên, rướn người đạp tới.Cái mông tròn ủm của gã, chỉa vào mặt mụ Bốn Cao. Mụ đưa tay, xoa xoa cái mông u ú thịt, rồi bóp mấy cái thật mạnh. Gã Dân tộc biết, khi bà chủ vui hay hừng chí thường có cử chỉ ấy. H’nia khoái lắm. Đêm nào được ‘thưởng”, gã lâng lâng cả người qua ngày hôm sau. Nghĩ đến cảnh tượng, mụ Bốn Cao ngồi trên bụng mình, như ngồi trên lưng con ngựa điên trở chứng, phi vun vút tới đoạn đường cuối đầy hãnh tiến, đôi vú thây lẩy còn săn cứng, của mụ chủ, nhấp nhô, nhấp nhô, trùng trùng vó ngựa, gã cứng cả người sảng khoái.
H’nia tắp xe vào lề, vác mọi thứ đem vào nhà. Mụ Bốn Cao khóa cửa. H’nia quay đầu xe trở ngược, mụ Bốn Cao nhảy lên ngồi chàng hảng, sau cái bọc-ba-ga. Mụ ôm thắt lưng, lần xuống, kín đáo véo vào mông H’nia thật mạnh. Gã Dân tộc thấy đau nhói lên, nhưng hừng chí, đạp chiếc xe ba-gác lao vun vút. Đến ngã ba chợ, khi quặc cái cua, chiếc xe nghiêng qua một bên, muốn lật. Mụ Bốn Cao ré lên.
- Từ từ, chỗ này dễ lật. H’nia, mày nhớ hông? Tối có “thưởng”!

*
Tuấn dắt chiếc xe đạp “đòn dông”, phóng ra đường chạy theo H’nia, qua cửa Đông, rồi về phía trại Trung Dũng Diên Khánh. Trước mắt anh, là một cảnh hổn độn đến dễ sợ!
Bọn thanh niên, phá cửa kho đạn, đem súng ra bắn ầm ì. Thằng Đức, người xã Diên Thạnh, lớp 11 ban A, đang đưa cây M.16 ngắm bắn những trái gòn treo lơ lững trên cây. Vài thằng khác, mang mấy cây M.72, dài hơn nửa thước, to bằng bắp vế, ra khu tập bắn, loay hoay tìm cách sử dụng. Thì ra, hai tiếng nổ lớn lúc sáng sớm, làm tán loạn dân tình, do mấy ông mãnh này gây ra!
- Không nên dây dưa với bọn thanh niên đang hăng máu. Tẩu là thượng sách!
Tuấn nghĩ thế. Anh bỏ đi và đạp xe lên Chi khu Diên Khánh.
Một cảnh tượng cũng không kém gì dưới trại Trung Dũng!
Người ta khiêng, vác mọi thứ, sau khi đập khóa, cửa hàng Quân tiếp vụ. Gạo, vãi trắng xóa đầy đường từ cổng vào Chi khu.
Tuấn dựng xe nhìn.
Hàng đống đồ Quân tiếp vụ, cho chiến tranh, cho sinh hoạt đời sống để chống chiến tranh, chồng chất lên nhau cao ngút như núi. Lòng tham con người bị chiếm lĩnh bởi vật chất trước mắt, làm họ mờ đi lí trí. Cái gì có trước mắt, là họ lấy.Cao, trèo không tới, họ lấy từ bên dưới. Thế là họ rút ra.Những bao gạo, và những thùng đồ hộp, được họ rút ra không suy tính.
Những tấn hàng từ trên cao đổ xuống. Bấy giờ, họ mới biết đang làm điều ngu xuẩn!
Máu đổ ra lênh láng bởi những thùng đồ hộp tiếp tế của quân đội Mỹ đổ ụp xuống; và, nhiều người chết trên những bao gạo 50 ký có lằn vải chỉ xanh.
Nhưng người ta vẫn lao vào, như con thiêu thân!
Tuấn thấy mụ Bốn Cao đứng ngoài cửa canh chừng chiếc xe ba-gác, mắt láo liên.
- H’nia. Cái tủ lạnh, cái tủ lạnh…Mày bỏ bao gạo, khiêng cho tao nhanh… – Mụ Bốn Cao chỏ miệng vào, gào lên.
H’nia, bỏ bao gạo xuống, theo cái chỉ tay của mụ Bốn Cao. Gã quay sang trái, định cõng cái tủ lạnh thì mọi thứ, đều đổ ụp xuống!
Mụ Bốn Cao chết điếng người, khi thấy K’nia nằm khuất dưới những bao gạo, đầy máu. Mụ định chạy, nhưng một bàn tay, dường như lớn lắm, vô hình, nắm vai mụ, bóp cứng làm mụ tê tái cả người, đứng yên…

*
Lão Tôn đang ngồi viết nhật ký. Lão ghi lại chiến tích oai hùng của đoàn quân giải phóng, thì nghe hai tiếng nổ lớn. Lão cũng dò dẫm như mọi người, len lét nhìn xem tình hình. Cái mũi “ó đâm”, cùng đôi tai chuột, hít hít liên tục, dò xét, ngửi, nghe. Lão biết, đây là giây phút quyết định cho cuộc đời và con cái lão.Lão không muốn tạo nghi ngờ, như khi ông Xã trưởng nằm vùng từng hỏi.
Lão Tôn chờ!
Khi đợt thứ hai hôi của, lão quyết định cột cái khăn đỏ trên cánh tay trái, khệnh khạng bước ra đường với cây gậy ngắn quơ quơ.
Vừa khi ấy, mụ Bốn Cao, cùng H’nia, bước xuống chiếc xe ba-gác, khi tới gần nhà. Lão nhìn quanh, thấy nhiều người đang chạy ngược xuôi, đi hôi của, lão nói.
- Bốn. Cô lấy xe ông A Ùi làm cái chi vậy?
Mụ Bốn Cao hoảng hốt, nói.
- Cha A Ùi trốn mất rồi! Chả bỏ lại cái xe ba-gác, em thấy tiếc, định đem về sau này xài!
- Chớ không phải em Bốn, vừa mới “phùa” đầy nhóc hai cái xe ba-gác? Đừng gạt anh!
- Anh Tôn. Mình yêu nhau dưới bầu trời, có dàn hoa khế tím, như một chia sẻ ngọt bùi yêu đương.Bốn có gì, sẽ chia sẻ với anh. Đừng nói với ai nhé!
- Không được! Anh là người Cộng Sản, là người của Cách mạng tiên tiến, vì dân, như bác Hồ kính yêu từng nói.Bác đã vì nhân dân miền Nam chúng ta, đáp tàu thủy qua Pháp, làm bồi bàn, mà nên danh, nên sự nghiệp ngày nay. Anh không thể nào, làm trái những điều Bác mong muốn: Ta phải tự chủ bản thân, không ăn cắp, không ăn xin của ai và không lấy vật của người khác dù là của địch!
- Tôn ơi. Sao lại nói vậy?
- Ta không nói. Bác Hồ nói vậy! Ta, kẻ làm người cách mạng, chí công vô tư. Tôn này là đầy tớ của nhân dân. Vì nhân dân, Tôn này làm tất cả!
- Ông muốn gì? Mụ Bốn Cao đỏ mặt, chuyển sang tái. – Mụ gào lên.
- Bốn ơi! Bốn đã đi hai chuyến rồi. Chuyến này, Bốn nên dành cho anh!
- Ê. Lão Tôn, đừng quá đáng nha. Người ta kháo rằng: ở phố Thành này có ba “khứa lão” nằm vùng: ông Năm tiệm hình“Bóng tối”, cha Bảy Rắn điên điên, khùng khùng giả dạng, và lão Xã trưởng Bé vừa mới xuất hiện. Còn Tôn. Tôn ơi… mày là thằng Cách mạng dỏm. Nghe chữa!
Lão Tôn như điên lên! Lão quơ quơ cây gậy, mà từ khi lão ngồi chễm chệ trên chiếc xe jeep của lão Xã trưởng Bé nằm vùng cho giặc. Lão cầm cây gậy, như mặc định: lão có toàn quyền sinh sát trong tay, sau ông Năm chủ tiệm hình “Bóng Tối” và gã Xã trưởng Bé nằm vùng. Lão định tát mụ Bốn Cao vài cái cho hả giận. Khi cây gậy lão Tôn vừa mua để làm dáng uy quyền, bị giữ cứng ngắt bởi một bàn tay to lớn, thò ra gọn gàng. Tiếng thổ âm, lơ lớ.
- Tôn. Mày liệu cái thần hồn của mày. Xéo ngay!
Lão Tôn nhìn “thằng Mọi”, (như lão hằng nghĩ) thân thể nó toàn máu me đầm đìa, taycầm con dao quắm dọa. Lão Tôn sợ rum rúm, bỏ gậy chạy vụt đi.
Đó là tiếng nói từ núi rừng Khánh Vĩnh của H’nia.
Mụ Bốn Cao, nhìn sửng H’nia, đôi chân run run. Chợt nhiên, mụ quỳ mọp xuống.
- Anh H’nia yêu thương của em!
Gã H’nia nhào tới, hai con mắt lồi ra, như mắt ma, quỷ của rừng Khánh Vĩnh. Đôi mắt đỏ kè lẫn máu.Gã đè mụ Bốn Cao xuống, bóp cổ.
Cái lưỡi của mụ Bốn Cao, càng lúc, lặc lè dài thêm ra. Nó dài hơn cả thước, quấn vào cổ gã Dân tộc định siết mụ! Gã H’nia cầm con dao quắm đi rừng, thường đeo ngang hông hồi còn trẻ, chém xuống thật lực.
Mụ Bốn cao la ú ớ trong cổ họng, máu tuôn ra đầm đìa.Nhưng, mụ vẫn cố đưa cái chân dài, đạp vào hạ bộ H’nia.
Nhưng… mụ đá vào thinh không. Gã Dân tộc biến mất!
Mụ Bốn Cao ngồi bật dậy, đưa tay rờ cần cổ, rồi thọc tay vào miệng, xem còn lưỡi không. Mụ thở hồng hộc.Trán mụ tươm đầy mồ hôi.
Mụ biết: mụ vẫn còn sống và không bị cắt lưỡi.
Đó chỉ là giấc mơ, bị ám ảnh bởi cái chết của gã Dân tộc có tên H’nia!

*

Chương 9

Mặc dù đã xuống sống hoà lẫn cùng người Kinh, nhưng H’nia vẫn đeo bên người một báu vật khó ly thân từ truyền kiếp núi rừng, đó là con dao quắm. Khi con dao quắm chặt đứt cái lưỡi mụ Bốn Cao, mụ biết mình sẽ chết. Mụ vái thầm.
- Hãy tha tao H’nia ơi. Vì lòng tham của tao, mà mày phải chết! Tao sẽ cúng vái mày, đưa độ mày về miền tiên cảnh.
Tuy nghĩ vậy, nhưng cái bẩm sinh từ đói nghèo và lòng tham, ác hằng bám vào máu quá lâu; mụ vẫn cố đưa đôi chân dài thường leo núi trước kia, đạp mạnh vào hạ bộ H’nia. Có lẽ, câu vái thầm, đi trước hành động đá vào hạ bộ gã Dân tộc, nên H’nia đã rút rui.
Dù trong cơn mơ, mụ Bốn Cao cũng biết có một cái gì đó linh thiêng mách bảo mụ: hãy coi chừng lão Tôn nguy hiểm, mà H’nia hiển lộng trong mộng!
Mụ ngồi bẹp dí sát tường, ôm đầu khóc thút thít, nhớ lại từ thời ấu thơ.
Mụ ở đâu, sinh ra ở quê quán tỉnh, làng nào trên cái đất nước chiến tranh triền miên này, mụ không nhớ nỗi. Khi có trí óc, mụ biết rằng đang sống cơ cực trong một cái lò mổ heo, ngoại ô phố Thành, gần con sông Cái, bên kia xã Diên Thủy.
Mụ sống lừng lững như một dây leo hoang dại mạnh mẽ, vươn cao theo ánh mặt trời, như một định luật: sự sống còn của muôn loài! Và lớn dần,theo thời gian khổ cực. Mụ trổ mã con gái và có thân hình khá cao, gợi cảm.
Hai Heo là một gã sống bạt mạng, coi trời bằng vung.Sướng hôm nay, khổ ngày mai gã chẳng bao giờ để ý tới.Gã chỉ sống cho ngày hôm ấy.Ăn như heo. Ngủ như heo. Dơ bẩn như heo. Làm tình như heo.Đó là cung cách sống cũa gã, khi mới 16 tuổi, suốt ngày quần quật trong cái lò mỗ heo.
Khi cái Cao vừa tròn 16 tuổi, gã thường dẫn con bé ngu ngơ, vào những chuồng nhốt những con heo sắp bị đưa đi hành hình nay mai, vẫn còn rậm rực gieo giống. Ở thời thơ ấu của cái Cao, là giao giống và gieo giống! Nó bám vào não trạng mụ suốt cuộc đời đang đi sau này.
Mụ lấy Hai Heo. Khi giàu lên, Hai Heo bắt đầu cuộc sống sa đọa và chết trên bụng con đàn bà nào đó. Mụ oán Hai Heo không cho mụ một mụn con nào, trước khi chầu Diêm vương. Mụ thường nghĩ, làm đàn bà mà không đẻ đái sinh con, nó có cái gì đó bất thường. Từ đó, là cái ác bắt đầu nảy sinh trong con người mụ.Mụ thường nghĩ, người đàn bà sinh con, để có cái nối tiếp tộc dòng là điều quan trọng nhất.Nhưng cái quan trọng nhất, của người đàn bà, là, muốn làm thiên chức của một bà mẹ, biết thương yêu con.
Mụ Bốn Cao không có những cái thiêng liêng làm người đó.Mụ hận đời và muốn phá toanh hoanh cuộc đời này.Gã đàn ông nào thích ong bướm, mụ sẽ làm những gì đã nghĩ.Mụ đi qua nhiều gã đàn ông trong phố. Ai dèm pha, xiên xỏ, mụ bất cần! Mụ cần một đứa con, chứ mụ không cần một lời chê trách: con đĩ dâm loàn.
Gã H’nia, đáng tuổi con mụ. Những ngày đầu, được nó dắt vào bản làng buôn bán, mụ cũng thương nó như con.Sau này, khi nhận nó làm con nuôi, cả phố ai cũng biết. Càng làm ăn với người Dân tộc thiểu số, mụ khám phá ra nhiều cái lợi, cái giàu có từ núi rừng. Mật ong, mật gấu, trầm hương, kỳ nam… Đó là chưa nói đến những loài sinh vật quý hiếm, kiếm ra vàng –đổi từ muối. Chỉ bốn, năm ký trầm và kỳ nam đeo trong xách tay mụ và trong cái gùi đeo trên lưng gã H’nia xuống núi, cùng cái dao quắm luôn đeo ngang hông của gã Dân tộc cao lớn, chở che
trên suốt đường rừng Khánh Vĩnh, xuôi đồng bằng.
Mụ có thể tậu vài căn nhà trên phố.
Gã Dân tộc thiểu số H’nia, chỉ ranh mãnh trên thân xác của mụ Bốn Cao, khi xuống đất người Kinh làm người.Cánh rừng bạt ngàn Khánh Vĩnh đã khép lại vì thời cuộc và chiến tranh.H’nia đành chịu thua. Sự trung thành và lòng biết ơn, đã cột chặt gã với mụ Bốn Cao, với miếng mồi nhục dục!
Thế nhưng, vì lòng tham vô độ, mụ Bốn Cao đã để H’nia chết thê thảm dưới những bao gạo 50 ký, chỉ viền xanh.
Bây giờ, mụ mới thấy sợ sự cô đơn bủa quanh, một mình trong căn nhà, lúc nào cũng có bóng dáng trước kia của H’nia đứng tắm ở truồng, sau giếng; hoặc, mặc khố đi quẩn quanh trong nhà, hông đeo con dao quắm theo thói quen rừng núi không rời được.
Mụ chợt òa khóc lên.
- H’nia… H’nia ơi.Tao thương mày như con. Tao đã lầm rồi!
Mụ Bốn Cao vấn tóc, cột cao lên, bó một túi sau ót. Mụ xách cái rổ, trong đó đựng: trầu, câu, vôi, dăm mớ rễ, nhúm thuốc lá… kẹp vào nách. Mụ ngần ngừ, nhìn, ngó trước sau trong nhà, tiếc rẻ…
Sau cùng, mụ tặc lưỡi, quả quyết… đi xuống chùa Sư Nữ

*
Lão Tôn cầm cây gậy vừa mới “xin mượn” hôm qua ở cửa hàng mụ Bốn Cao, sau màn kêu khóc nhớ ơn bác Hồ. Cây gậy thật đặc biệt.Nó màu đen mun. Cái cán khắc hình người Dân tộc nam, hông đeo con dao quắm, một cái gùi nho nhỏ sau lung, vừa tầm tay nắm. Đầu gậy thật to, như cái gậy bóng chày, tụi Mỹ dùng để đập trái bóng nhỏ xíu, thỉnh thoảng, chiếu trên kênh truyền hình VN.Lão quơ quơ như người sành điệu, bước ra khỏi nhà. Lão nhìn quanh, bước qua bên kia đường, nơi tiệm phở của ông A Ùi đã đóng cửa hai hôm nay. Lão bắt đầu đi từ đầu phố, đôi mắt láo liêng.
Dân trong phố, bây giờ càng ngán lão hơn. Ai ai, cũng nghĩ tới cuốn nhật ký của lão, không biết khi nào được tung ra “thị trường chữ nghĩa dân gian”! Bấy giờ, cuốn nhật ký ấy, nó không còn đút trong túi quần của lão như trước. Nó nằm chình ình trong túi áo của lão, nghênh ngang, chìa một nữa ló ra, như dằn mặt mọi người!
Lão Tôn khoái chí, mỉm miệng cười, đưa tay vò cái mũi “ó đâm” gãy gập, đến đỏ choét. Lão dừng lại suy nghĩ thoáng chốc.
- Đi đâu đây?
Đoạn, lão bước đến nhà ông Thái An người Hoa.
Quả thật, ông Thái An là người nghiện thuốc phiện lâu năm, như trong nhật ký lão Tôn hằng ghi. Thuốc phiện, đại khái từ rất lâu, xuất phát ở các xứ quanh vùng Ấn Độ. Nó được nhập vào Hoa Lục thời: “Người Trung Quốc và Chó, không được vào công viên”! Thực ra, thuốc phiện như một thứ cần sa sau này. Nếu biết dùng nó, (ít) vô hại, là sử dụng đầy đủ và có tiền. Nhiều người Hoa dùng thuốc phiện, chủ ý cho sự kích thích ăn uống, no, ngon và sống lâu. Người Việt lại cho rằng, thuốc phiện là một thú độc hại, nên tránh. Nó cũng gây kích thích trí tưởng tượng đi xa hơn của con người, nhất là ởnhững nghệ sĩ.
Ông Thái An là chủ một tiệm vàng người Hoa, lớn nhất phố Thành.
Lão Tôn bước vào nhà ông Thái An, tay quơ quơ cây gậy như thị oai.
- Nị hủ mạ!
- Dà… hủ… hủ… Mời ông cán bộ ngồi!
Lão Tôn khoái chí, làm mặt nghiêm.
- Ông An nè. Tôi biết, ông hút thuốc phiện từ bao nhiêu năm nay. Nhưng tôi là người không nhặt cọng tóc nhỏ, chỉ nghĩ đến điều lớn lao. Chẳng hạn… góp sức với đất nước, chính quyền cách mạng, tạo lập xã hội an bình, đuổi quân Ngụy ra khỏi bờ cõi, như ngày hôm nay. Nhưng tôi lại không ngờ, đến ngày hôm nay, ông vẫn còn muốn làm hư hỏng cộng đồng dân tộc tôi. Ông vẫn hút thuốc phiện như ngày nào. Đó là một thứ quốc cấm!
- Ôi. Ông Tôn ơi! Tôi đã bỏ rồi!
- Bỏ! Sao mùi thơm vẫn còn?
Ông Thái An, rên.
- Ôi. Mấy cái sái, nó hại tôi, ông Tôn ơi. Sái hai, sái ba còn lại, cho để nhớ… buồn ấy mà!
- Ông An, không được. Tôi không muốn nghe cái… để nhớ mà buồn của ông! Cách mạng là đi về phía trước, là đạp đổ cái hủ lậu, tha hóa, xây dựng cái mới hơn, đẹp hơn. Chớ… không để nhớ mà buồn! Ông hiểu không?
Lão gõ, gõ mấy ngón tay ngắn ngũn trên mặt gương cái bàn dài, không còn bao vàng bạc đá quý. Lão kêu lên.
- Á, à. Sao trống trơn vậy? Nhật ký tôi viết cho ông nè!
Khỏi cần đọc nhật ký của lão Tôn, ông Thái An biết phải làm gì.
- Ông chờ tôi chút!
Lão Chệt già đem ra một gói vải màu đỏ khá nặng, biếu lão Tôn. Đôi mắt lão Tôn sáng hực lên, như đôi đèn pha của chiếc xe jeep, sáng sớm hôm qua dẫn đoàn xe tăng từ Cải lộ tuyến vào phố Thành.
- Cám ơn… Cám ơn, ông. Sự thành tâm của ông, với cách mạng, chúng tôi sẽ ghi vào số!

*
Lão Tôn dợm hơn mươi bước chân, đã tới nhà ông Thuận Thanh.
Ông Thuận Thanh, có mười cô con gái. Cả mười cô con gái này, từ Tiểu học tới Trung học, đều học ở Nha Trang cách Thành 10 cây số, cuối tuần mới về.
Dân trong phố, chả mấy ai ưa ông.
Hai vợ chồng ông Thuận Thanh, xuất thân từ miền Bắc vào, sau cuộc di cư Cộng sản khủng khiếp. Họ làm giàu trên hai chiếc xe bán nước mía, đi khắp Thị trấn Diên Khánh. Khi phất lên, thoạt đầu, ông Thuận Thanh mua một chiếc xe “ca”, chạy tuyến đường Sài Gòn-Nha Trang. Sau đó, con số xe mỗi lúc một nhiều hơn. Ông lập ra hãng xe “Thuận Thanh”. Ông phất lên nữa từ đó. Rồi mở cửa tiệm đại lý nhiều hãng xe máy ở Nhật. Càng lúc ông càng giàu thêm.
Dường như, con người nghèo khổ từ lúc sinh ra, đến khi có của nã thông thường, bắt đầu hợm hĩnh về nhân sinh quan cách sống.Mụ Bốn Cao cũng vướng vào cái nghiệp tục lụy này. Ông Thuận Thanh nói rằng:
- Nền văn hóa, giáo dục ở Diên Khánh không bằng Nha Trang!
Lão Tôn ghi vào nhật ký. Để đó!
Lão bước vào nhà ông Thuận Thanh.
- A. Chào ông Thuận.(Thanh, tên bà vợ).
- Chào đồng chí Tôn! – Ông Thuận Thanh riu ríu.
Lão Tôn vờ sụ mặt xuống.
- Ai là đồng chí của ông?
- Thôi mà anh Tôn. Chúng ta là dân ngụ cư, nên bênh vực che chở cho nhau!
- Ngụ cư? Đúng! Che chở cho nhau? Đúng! Nhưng ngụ cư mà phách lối như ông, ai ưa!? Che chở cho nhau? Mà ông chê khinh ngành giáo dục quận nhà, cho con đi học tận dưới Nha Trang! Ông có đọc nhật ký của tôi, bị một thằng khốn nào đó tán phát trong phố, làm… lộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của tôi. Trong đó tôi có ghi: Ông. Là chủ của tám chiếc xe“ca” mười bánh, đường Sài Gòn – Nha trang, có hơn 50 chiếc xe máy vừa Honda, Suzuki… và vô khối những chiếc xe đạp, cùng đồ phụ tùng.
Ông Thuận Thanh bắt đầu run. Lão Tôn giáng tiếp một đòn thật mạnh.
- Ông từ miền Bắc di cư vào. Ông cũng từng đọc báo của bọn Ngụy Sài Gòn. Chúng rêu rao viết rằng, trong đợt Cải cách miền Bắc, gần hai trăm ngàn dân bị giết oan uổng.Ông nghĩ sao, khi miền Nam không cùng một hệ thống chính trị của họ?
- Tôi biết. Tôi nghe mà anh Tôn! Gia đình tôi có ai còn sống sót sau vụ Cải cách ruộng đất ở giáo xứ Quỳnh Lưu.Là dân cùng ngụ cư, anh giúp tôi nhé.
- Dĩ nhiên, tôi sẽ giúp ông! Là người của Cách mạng, tôi khuyên ông, nên giải quyết những chiếc xe máy.
- Giờ phút này biết giấu ở đâu, ông Tôn? – Ông Thuận Thanh gào lên.
Lão Tôn gãi gãi cái tai chuột bên phải, tay kia vò cái mũi “Ó đâm” đến đỏ choét. Chợt lão reo lên.
- Trong khu vườn cây ăn trái nhà tôi!
Ông Thuận Thanh mừng lắm, dúi vào tay lão Tôn, một bọc vải khá nặng.

*
Lão Tôn bước ra khỏi cửa hàng xe máy, xe đạp, định bước qua bên kia đường cho nhân vật thứ ba, như lão đã sắp xếp trong đầu.
Chợt lão thấy mụ Bốn Cao, tay cắp rỗ trầu cau, lủi thủi bước nhanh về phía chùa Sư Nữ, mắt đỏ kè vì khóc.
Lão ngoắc tay.
- Cô Bốn, đi đâu?
Mụ Bốn Cao đang đi chợt khựng lại. Thấy lão Tôn đưa tay vẫy, mụ co rúm người. Giấc mơ buổi trưa, trở lại nơi mụ.
Bây giờ, mới đúng là giấc mơ!
Sau giấc mơ, người ta thường nghĩ hoảng bởi giấc mơ gây ra tình tiết! Người nằm mơ, thường hành động trong hỗn loạn. Muốn đi cho mau, nghĩ cho mau rồi đi, để trốn tránh những gì họ làm, để trốn thoát sự dằn vặt bi ai chốc lát trong lòng. Nghe lão Tôn gọi một cách nhỏ nhẹ và thân thiện, mụ Bốn Cao như hả tấm lòng, quên đi giấc mơ và lời cảnh cáo của gã Dân tộc H’nia.
Mụ Bốn Cao kéo cái đầu lùn chủn lão Tôn vào ngực, hôn lên trán, giống như khi chiến thắng của đoàn quân xe tăng hôn vào cái mũi “ó đâm” của lão. Mụ thỏ thẻ.
- Gì vậy anh Tôn?
- Nè. Nhà Bốn có thể chứa 50 chiếc xe máy hon-da?
- Chi vậy Tôn?
- Đừng hỏi! Bao nhiêu chiếc?
- Cả trăm chiếc, còn được!
- Nghe này. Tối nay, anh và lão Thuận Thanh, sẽ chuyển sang nhà Bốn 20 chiếc xe hon-da. Số xe này là của anh và Bốn đấy nhá!
Mụ Bốn Cao rung rung đôi chân, muốn khụy.
- Trời ơi. Mười chiếc xe máy hon-da của Nhật sắp là của tôi!
- Ừ! – Lão Tôn cười.
Mụ Bốn Cao cũng: “Ừ”, một tiếng thánh thót, khỏe re.
Mụ quên rằng: mụ đang giằng xé tâm can trong lòng, để xuống chùa Sư nữ… cắt tóc đi tu! Mụ quên luôn cái giấc mơ của H’nia báo mộng!
Lão Tôn cười bí hiểm, vuốt cái mũi ó đâm liên tục đến đỏ choét!

(Còn tiếp)

© Đàn Chim Việt






No comments:

Post a Comment

View My Stats