Monday, 17 December 2012

HẠT ƯƠM HƯ [2/9] – (truyện dài Vũ Đình Kh.)




12:10:am 03/12/12

Chương 4

Chưa một dân tộc nào có những cuộc chiến tranh dài lâu như dân tộc Việt Nam. Và cả sự chịu đựng của người Việt Nam, phải làm cả thế giới kinh ngạc lẫn bội phục.
Chiến tranh và đói nghèo, đã hút cạn kiệt trên thân xác con người Việt Nam vốn còm cõi, hơn 4 ngàn năm văn hiến. Giữ nước, giữ bờ cõi của Tổ tiên để lại, đã là một gánh vác nặng nề cho nhiều Nhân sĩ trí thức và người dân yêu nước. Một Nguyễn Trãi phải nén thù nhà, đưa tiễn cha là Nguyễn Phi Khanh qua Ải Nam Quan – như một dâng hiến tôi đòi và thần phục Bắc triều – để dốc lòng phù Chúa mới, quên chuyện thù nhà, phải trả nợ nước.
Nước Việt Nam hình cong như chữ S, chạy dài dọc bờ biển Thái Bình Dương, từ Ải Nam Quan tới Mũi Cà Mau, tài nguyên rất phong phú, là miếng mồi ngon, béo bở mà bọn phương Bắc rất thèm muốn, và vì đây là “Cửa Lớn” thông thương ra Thái Bình Dương qua eo biển Maclaca.
Bao ngàn năm, chúng luôn muốn thâu tóm mảnh đất giàu, đẹp và màu mỡ này, nhưng bao giờ chúng cũng thất bại nặng nề, dưới sự kiên trì, gan dạ với đất nước của con dân Việt.
Việt Nam luôn là một mảnh xương hóc, đâm vào cái yết hầu dơ dáy của gã Đại Hán to lớn, nhưng vô cùng thô bỉ! Do đó, bằng mọi cách, chúng phải tiêu diệt tộc Việt tìm đường ra Cửa Lớn.
Sự thâm nhập chủ nghĩa lai căng Tam vô của Cộng sản, bắt đầu từ thập niên 1930. Đảng CSVN thành lập ngày 03/02/1930 (thực ra là đảng CS Đông Dương), dưới chiêu bài độc lập và giải phóng dân tộc, do Hồ Chí Minh đứng đầu, giả danh ái quốc, qua hệ thống cộng sản quốc tế, tại miền Bắc; đã làm thay đổi cuộc diện xã hội và đời sống của nhân dân miền Bắc và sau này của miền Nam.
Vĩ tuyến 17 Bến Hải, là một vết chém nham nhở, thâm độc, và vô cùng đau đớn, trên thân thể Mẹ Việt Nam, bởi một chủ nghĩa lai căng mới vừa xuất hiện không lâu!
Sau những biến động lịch sử đã qua, và còn đang đến ở những vùng khác trên đất nước.Nhiều đêm, ngồi trước một màn hình tròn, nhỏ để sửa những cuộn film, Tuấn từng suy nghĩ thế. Là con mọt sách, như bạn bè thường gọi, anh luôn kiếm tìm những loại sách, vừa mới xuất bản ở Sài gòn. Đặc biệt, Tuấn mê Phan Nhật Nam như điếu đổ, và Duyên Anh!
Tuổi 17, chưa hẳn đã trưởng thành, nhưng cũng không còn là đứa con nít trí năng tồi tệ.
Tám tuổi, Tuấn mồ côi cha.Sau đó, Mẹ thì điên điên, khùng khùng, khi thấy những xác chết, sau khu vườn rộng mát của bà, là những con dân Việt bắn giết nhau đến tồi tệ, tàn ác.
&
Cả ngày nay, không hiểu vì sao Bảy Rắn thấy bồn chồn trong dạ, vừa làm, vừa ngồi không yên. Đưa đôi tay rắn chắc, nhanh nhẹn, hắn bào lướt trên mảnh ván. Những âm thanh “rúut, rúut” trên mặt gỗ nghe nhẹ tênh, thật ngọt.Bảy Rắn lẩm bẩm chữi thề mấy tiếng, rồi vứt cái bào trên mảnh ván, gạt mồ hôi trán.
- Đ.m! Giờ này, sao chưa thấy “mấy chả” vô kìa. Hay có sự cố gì đây?
Bảy Rắn leo xuống con “ngựa gỗ”, xỏ đôi chân cáu ghét vào dép, rút trong túi quần cái khăn trắng – vật bất ly thân – quấn ngang đầu, thít chặt lại. Hắn cầm cái bào gỗ, suy nghĩ lung lắm, rồi cẩn thận bọc lại lớp vải mỏng lận sau lưng, sẳn chai sơn đánh vẹc-ni, Bảy Rắn bỏ vào túi áo, đi ra ngã ba A Ùi.
Bấy giờ là buổi trưa.Trời nắng chang chang như đổ lửa, không một ngọn gió.Phố Thành im lìm trong không khí cực căng thẳng.Mọi nhà đều đóng cửa, im lìm trong cái nắng nóng chảy da thịt. Bảy Rắn chạy sang bên kia đường, nép vào tường của Chùa Thành, nơi các Sư nữ đang tu, ngóng mắt nhìn lên Đình dò dẫm.
- Mẹ! Tụi Nghĩa quân chéc ngủ trưa hết rầu!Trong lúc không biết làm gì, đi đâu. Bảy Rắn chợt thấy binh nhất Cu dài từ dưới cầu Ông Cạn lơn tơn đi lên! Gã vừa đi, vừa thổi khúc nhạc quân hành, mà gã đã bị khai trừ không lâu, sau khi nhập ngũ.
- Trời ạ. Thằng lạ đời! Bữa nay, lại bày đặt mặc áo! – Bảy Rắn lẩm bẩm.Đúng là lạ đời! Binh nhất Cu dài mặc cái áo không biết nhặt ở đâu, dài quá gối. Thấy Bảy Rắn đứng dang hai tay trước Chùa sư nữ, gã trố mắt, ngạc nhiên đứng khựng lại, nhìn Bảy Rắn. Lần đầu tiên, Bảy Rắn “dám” xâm phạm con đường đi của gã, sau “hiệp ước đình chiến”!
Đã lâu, sau một trận chiến gay go bằng đòn gánh, thúng và đá đất, dân chúng ở ngã ba A Ùi đã sắp xếp cho câu chuyện êm xuôi.
Chuyện thế này: Binh nhất Cu dài và Bảy Rắn là hai cực điên rất đối chọi nhau.
Cu dài thì ngơ ngơ, ngẩn ngẩn, thích ở truồng đi lang thang. Bảy Rắn vừa lươn lẹo, ma mãnh, lại vừa khùng khôn! Bảy Rắn thích ăn ngon. Cu dài lại thích ăn bông vạn thọ! Đường bên này là Trần Quí Cáp, có ngôi Chùa do các Sư nữ trụ trì. Trước Chùa xếp những hàng bông vạn thọ dài, hai bên cửa sắt.Cu dài mặc sức ngắt ăn. Bên kia là đường Phan Bội Châu, có những thùng nước lèo luôn bốc hơi nóng hổi, khiêu khích khẩu vị của ông A Ùi. Thế là, Cu dài chọn con đường bên Chùa mà đi; dĩ nhiên Bảy Rắn đi bên A Ùi vì thích ăn ngon.
Thường nhật, Cu dài sống bằng nghề gánh cá mướn quanh năm, khi những chiếc xe lam từ Nha Trang chạy lên Thành vào mỗi sáng sớm. Khi gánh đôi thúng cá, gã luôn mặc cái áo che khuất hạ bộ, xong việc, gã cởi áo xách cu đi về cây Dầu đôi ở xã Diên An. Bảy Rắn là dân thợ mộc nổi tiếng chính tông, ai ai cũng biết. Không hiểu sao, năm rồi, thi thoảng hắn cũng cầm cây đòn gánh ra gánh mướn cá, định chiếm “thị trường làm ăn” của Cu dài!
Thấy Bảy Rắn định chiếm thị trường làm ăn của mình, Cu dài tức tối, liền đổi chiến thuật thầm lặng! Sau những gánh cá tanh lờm mỗi sáng sớm, Cu dài với cây bút chì vắt ngang tai, đi từng nhà, gạch ngang, dọc, xéo từng số nhà treo ở mỗi góc, miệng lẩm bẩm những câu vô nghĩa.
Gã đi từ đầu phố đến cuối phố đường Trần Quí Cáp, nhằm mục đích kiểm soát hành vi xâm phạm giới tuyến của Bảy Rắn!
Chỉ có Đại tướng (hoặc Tổng thống, mới làm cái việc ấy – nhưng cũng chưa chắc- mới dám làm!) Vì thế, dân ở Thành gọi Cu dài là Đại tướng Lê văn Cu, và Bảy Rắn bị hạ xuống hai bậc: Thiếu tướng Bảy Rắn!
Thế là một trận thư hùng xẩy ra. Thúng, đòn gánh, đá đất… bay vun vút giữa sáng tinh mơ. Vì vậy, mấy bà bán cá mới phân định “biên giới” hai bên. – Cu dài bên đường Trần Quí Cáp, vì thích ăn bông vạn thọ của Chùa, Bảy Rắn bên kia A Ùi vì thích ăn ngon. Cấm xâm phạm chủ quyền giới tuyến… lẫn nhau!
Vậy mà hôm nay, thằng cha Bảy Rắn dám xâm phạm chủ quyền! – Cu dài buông cây kèn, hỏi.
- Thiếu tướng Bảy. Ngài chiếm mặt đường của tôi, rồi còn vung tay chận tôi là nghĩa làm sao? – Nói xong, Cu dài nhảy hai chân tanh tách như con khỉ đột. Thân thể gã nghiêng ngã, con cu lúc thò ra, thục vô như trái bắp đầy râu đen thui. Gã thổi khúc quân hành lớn thêm cho khí thế.
- Đại tướng cái con cặt gì mày. Thằng điên khoe cặt, thì có! Tao nhịn mày lâu rồi. Tại sao mày chọn con đường bên phải, còn tao bên trái?
- Thưa ngài Thiếu tướng! Tui không chọn, mà “nhân dân”… bán cá, chọn cho tui!
- Á, à… Mày khùng mà còn khôn! Mày có bao giờ thấy chiếc xe Lam nào, đậu bên đường lề trái chưa? Chỉ có thằng thực dân, đế quốc và bọn thuộc địa ngoan ngoãn! Hầu hết, xe phải đậu bên lề phải trước cổng Chùa. Mày đi với chính quyền, như một thứ bị bắt buộc, – mày – phải – đi – lề – phải! Như nó vạch cặt ra, bắt mày phải bú! Mày cướp cơm chim của ông!
- Có! Mấy ông tài xế đậu xe trước cái vòng cong của quán ông A Ùi, đậu lề trái, ngược ngạo coi đời như vung. Thưa thiếu tướng! Bây giờ tui nói thiệt: Ông bước qua bên kia A Ùi!
- Hừm… Tao không bước, mày làm gì tao!?
- Á, à… Ông xâm phạm “hiệp ước”. Tôi đánh thấy mẹ ông!
Vừa nói, Cu dài nhào tới, vừa thổi kèn, vung tay đấm tới tấp. Bảy Rắn lùi lại, vì biết, thằng cu to này, dĩ nhiên nó có đôi tay hộ pháp dũng mãnh. Hắn rút cái bào gỗ, dứ dứ.
- Tao bào cái mặt… điên tướng của mày, như bào tấm thớt, ngon ơ!
- Bào đi, bào đi… thử cái coi, biết liền, ngài Thiếu tướng! – Cu dài vỗ vỗ vào má nghe bành bạch thật to, thách thức.
Bảy Rắn nhìn cái lưng cong vòng, đôi vai chắc nịch thường gánh cá mỗi sáng sớm, rồi hắn nhìn xuống con cu của Cu dài đang ló ra, đong đưa. Hắn gờm gờm.
- Ông đếch thèm chơi nữa. Đồ… Chí phèo, bạo lực chân tay, óc lò xo, chập chùng lên xuống! – Bảy Rắn lậng lưng cái bào, định đi qua bên kia đường (mà ông A Ùi, vừa kéo cánh cửa vì nghe tiếng đốp chát của hai gã điên), đớp tô phở nóng tái, nạm gân gầu.
“Réét, réét…”
- Dừng tay, dừng tay… hai cha điên!
Bảy Rắn chợt té xuống, nằm quằn quại dưới lề đường, la ré lên, hai tay ôm đầu, với cái tang trắng nhuộm đỏ bên thái dương, rồi lẹ làng đút vào túi quần chai sơn đánh vẹc-ni!
Anh lính Nghĩa quân trong Đình chạy ra, với cái còi trên miệng, dí cây súng M.16 vào lưng hai kẻ điên, dẫn về Đình.
Bảy Rắn được ông anh xã trưởng bảo lãnh ra chiều hôm đó. Binh nhất Cai dù, tức Cu dài bị hốt về trại Trung Dũng, nơi vừa huấn luyện tân binh, cũng là nơi nhốt thường phạm.
Vừa được ông anh xã trưởng bảo lảnh ra, Bảy Rắn bước sang bên kia đường là chợ Thành, đưa đôi mắt rắn rà suốt từ đầu chợ, đến cuối chợ. Hắn nói như rên.
- Mẹ nó. Chờ mỏi con mắt!
Chiều bắt đầu buông tối, Bảy Rắn lùng sục lần nữa quanh nhà lồng chợ. Không thấy gì, hắn nhảy tót lên tấm phảng chặt thịt heo, cong mình nằm im.
Bảy Rắn lại vừa “xâm phạm chủ quyền bản địa” của binh nhất Cu dài. Dù Cai dù, đang ngồi tù!
Nằm một chập, không thấy động tịnh gì, Bảy Rắn bực bội, rón rén bước xuống tấm phảng chặt thịt heo, dạo thêm một vòng chợ. Hắn chợt thấy, trong một góc tối, dường như có bóng người đang ngồi nấp lấp ló sau gờ tường. Tưởng người đưa tin xuất hiện, Bảy Rắn mừng húm, chạy nhanh tới.
Thì ra mụ Nuôi đang ngồi chồm hỏm tiểu tiện! Hắn thất vọng, chửi mụ Nuôi.
- Mụ Nuôi. Mụ làm gì mà ngồi đái tồ tồ, nghe như nước suối đổ vậy?
Mụ Nuôi giật mình, kéo quần cái rột để che đôi mông trắng hếu. Mụ đứng dậy, trừng trừng nhìn Bảy Rắn. Mụ chợt nhớ, buổi trưa hôm nay, giữa Bảy Rắn và Cu dài có chuyện xích mích động chân tay đến đổ máu, Cu dài phải ngồi tù. Mụ điên tiết.
- Tui đái giữa chợ, chớ không đái vào cái mả cha nhàông nhé. Làm người ta hú hồn. Đồ điên!
- Mụ nói ai điên? – Bảy Rắn nhìn láo liên quanh lồng chợ, tính toán. Dường như, mụ Nuôi ngửi thấy sự đe dọa trong cặp mắt rắn của Bảy Rắn. Mụ nói lớn.
- Cái mả cha nhà ông điên, chứ ai. Tui thích đái ở đâu, đó là quyền của tui. Đây là nơi công cộng!
Bảy Rắn lấm lét xuống giọng.
- Nhưng mụ đái, nghe tồ tồ đến phát ớn!
- Ớn, hay thèm cái lỗ, gây ra tồ tồ? Ông làm gì, đêm hôm cứ rảo quanh chợ đến mấy bận. Không sợ, tụi Việt cộng đang sắp về tới nơi, nó cắt cái của quý… thèm cái lỗ gây ra tiếng động tồ tồ?
- Mụ Nuôi. Mụ giả điên hay điên thật?
- Bảy Rắn. Ông điên thật hay giả điên vậy? Bớ người ta… – Mụ Nuôi la toáng lên. Bảy Rắn hoảng hốt chạy thục mạng về nhà, quên luôn nhiệm vụ.
&
Thông thường, hằng đêm, muộn lắm chín giờ tối, cả nhà ông Năm đi ngủ. Một giờ sáng, chuông đồng hồ gõ bí boong, bí boong… Cả nhà thức dậy công tác vệ sinh và bắt đầu lên gác ngồi thiền đến hai giờ.
Chợp mắt hơn ba giờ nữa, Tuấn thức dậy. Trời còn tối, Tuấn phải cố gắng “retouch” cho xong cuộn film, trước khi đi đến trường. Cả tháng nay, trường học đóng cửa vì không khí sôi động của chiến tranh ngày càng cao.
Ngồi vào ghế chưa nóng chỗ, Tuấn nghe những tiếng vang vang.
- Chạy mau… chạy mau, chúng sắp tới rồi!
Ở những thành phố nhỏ, người ta không làm những cánh cửa sắt kéo ra, vào rất tiện và nhanh, mà là những thanh chắn bằng gỗ dày và cứng không thua gì những thanh sắt. Nó được lắp vào nhau, thẳng đứng, cở hai gang tay (20 centimet), thanh này nối thanh kia, được chốt bên trong bằng một cây vắt ngang. Vì thế, cánh cửa lúc nào cũng có những lỗ hỏng một đường dài, thẳng đứng.
Tuấn lấy cái cán cây bút lông vạch kẻ hở, nhìn ra.
- Úi chao! Người ở đâu mà chạy nhốn nháo thế kia! Lính có, thường phạm có, vừa chạy vừa tuột cả áo quần, súng đạn vất bừa bãi xuống lòng đường! Họ vừa chạy, vừa la toáng lên vì mừng rỡ lẫn sợ hãi. Lính thì sợ hãi vì đang tan hàng. Tù nhân thì mừng vì vừa thoát ra khỏi nhà tù.
- Việt cộng vào rồi, bà con ơi! Chạy thôi…
Họ chạy như ma đuổi, dáo dác tỏa tứ hướng. Ông Năm mở bung cánh cửa, chạy theo đoàn người hoảng hốt.
- Cậu chạy đi đâu vậy? – Tuấn hỏi.
- Ở nhà chờ Cậu… cách mạng về rồi!
Ông mất biến sau ngã ba chợ Thành.
Tuấn hoang mang.
- Mẹ nó. Cách mạng! Cách mạng, đã chôn vùi nửa triệu dân miền Bắc, cũng nửa triệu dân miền Nam, qua chiến tranh. Ta từng biết qua, đọc sách, báo, hình ảnh…
- A lô, a lô… Đại diện cách mạng lâm thời miềm Nam VN, đang tiến về Diên Khánh! Xin mọi người ở yên trong nhà, để quân cách mạng lâm thời dàn xếp, trị an thành phố! A lô, a lô…
Dường như, đó là tiếng nói của Bảy Rắn, Tuấn ngờ ngợ như thế.Tuấn nhìn ra, chỉ thấy sương lờ mờ. Đúng là Bảy Rắn, với cái tướng đi xiên xẹo như rắn của hắn, vai đeo cây a-ka 47 bá ngắn. Mặc Bảy Rắn nói, đám lính và thường phạm vẫn tháo chạy.
Khi bóng người cuối cùng còn sót lại chạy lạch bạch, túm hai vạt áo lính dưới hạ bộ. Chạy qua khỏi Bảy Rắn một đoạn, gã quay lại, với cây súng ngắn trên tay dấu sau lưng. Bất thình lình, gã đưa súng lên, dí vào trán Bảy Rắn.
- Thằng Thiếu tướng giả điên, giả khùng, Bảy Rắn kia. Mày vất cha cái loa và cây A-ka, cho tao được nhờ! Mày tưởng ở cái xứ Thành này, chỉ có tao: Đại tướng, và mày: Thiếu tướng là điên sao!? Mày lầm rồi, Bảy Rắn ạ! Nhiều, nhiều lắm… trên cái đất nước hệ lụy chiến tranh này!
- Mày… mày… không điên à? – Bảy Rắn bỏ súng xuống, run run hỏi.
- Tao trốn lính, bởi tao hèn. Tao sợ chết, đành giả điên! Nhưng tao không mải quốc, cầu vinh: “Ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản. Mày hiểu không!”
Binh nhất Cu dài, kẻ bị đào thải khỏi chiến tranh vì tật nguyền: tâm thần giả trá. Gã đưa nòng súng ngắn, lượm đâu đó, khi chạy thoát khỏi nhà tù, lần xuống yết hầu của Bảy Rắn bóp hai tiếng chát chúa, rồi vụt chạy đi. Bóng Cu dài loãng dần, như ma trơi trong màn sương.
Cả thân người Bảy Rắn bật ngữa về sau đánh cái “bịch”. Hai tay quơ quơ, như bắt những con chuồn chuồn trong cơn bão rớt, trước khi mưa chụp xuống. Dòng máu nơi yết hầu, sủi bọt. Những vòng tròn bong bóng màu đỏ, nhỏ tí lăn tăn phì ra… như con nít thổi ống đu đủ bằng xà phòng. Bảy Rắn trợn trừng đôi mắt.Bây giờ mắt hắn thật to, hai đồng tử mở rộng một màu trắng đục vàng, của kẻ nát rượu, bị bệnh sơ gan, không ti hí như mắt rắn thường ngày.
Trời chưa sáng, còn nhọ mặt người. Chưa ai kịp nhìn thấy kẻ sát nhân, cả lời hạch tội, ngoài Tuấn, vì cái dáng quen quen của binh nhất Cu dài, thường đi ngang nhà anh mỗi sáng, cầm cây bút chì quẹt, gạch, xóa những con số.
Cùng lúc, ông Năm chạy về, thấy Bảy Rắn nằm thẳng cẳng. Ông la lên.
- Đồng chí Ba Nhân! Đồng chí làm sao vậy?Ai bắn đồng chí?
- Thằng… thằng…
Bảy Rắn nghẹo đầu qua một bên, hai mắt trợn trừng, tay bắt chuồn chuồn rồi buông xuống nhanh chóng. Bấy giờ trên hai mép Ba Nhân, tuôn ra hai giòng máu đỏ thắm. Đây là máu thật. Không phải thứ máu, màu đỏ của vẹc-ni, mà hắn thường dùng để đánh lừa kiếp nhân sinh!
- Hắn tên Ba Nhân, chứ không phải Bảy Rắn. Có bao nhiêu Bảy Rắn ở miền Nam VN?
Tuấn tự hỏi và kéo tấm ván hở, đóng lại.
Như sau này, cái bóng ngã nghiêng của Cu dài, đầu bị cạo trọc lóc khi ở tù, sẽ đóng lại vĩnh viễn trong tiềm thức anh.

*

Chương 5

Thời chiến tranh chết chóc, bất cứ ở ngóc ngách nào cũng lan tràn người trốn chạy chủ nghĩa CS. Mậu Thân là cuộc tháo chạy khủng khiếp nhất, sau đó, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, ở miền Trung.
Lão Tôn là một trong số người dừng lại phố Thành, trên đường trốn chạy chiến tranh ấy. Ở Thành không nói đến lão Tôn, là một thiếu sót vô cùng to lớn.
Không biết bắt đầu từ bao giờ, người dân ở Thành, gọi y là lão Tôn, dù lúc đó, lão chưa tới 40 tuổi. Hay cái tướng loắt choắt, hoặc cái mặt già khằn với cái mũi diều hâu gãy gập, mà lão mang danh xưng này? Không một ai nhớ cả! Nghe người này gọi y là lão, người khác bắt chước
như một thói quen biếng nhác nghĩ suy. Lâu dần thành quen. Sau này, lão Tôn đương nhiên thành bậc trưởng thượng trong phố.
Dân tộc VN cũng quả là một dân tộc lạ! Khi đã được gọi là Ông, Bà, hoặc Lão… thì họ có cái nhìn xã hội dân sự, khác hơn những người bình thường; dường như đó là sự hợm hĩnh của thói đời? Tình trạng này rơi đúng vào lão Tôn, sau này.
“Lá lành đùm lá rách” là câu châm ngôn, ai ai cũng quý trọng.Lão Tôn được đùm bọc bởi người ở Thành. Gần 30 tuổi, vợ chết trong chiến tranh, với hai mặt con, gái và trai, cùng hai trái “lựu đạn và một cây súng” luôn luôn muốn nổ tung bất cứ lúc nào, lão nhập vào đời sống nhân sinh ở phố Thành. Chẳng ai còn muốn nhớ lão, đến đây từ đời kiếp nào.
Người ta chỉ nhớ: thoạt đầu vào đây, lão chiếm cái đường luồng (một con hẻm tương đối rộng) đi tắt ra mặt sau là con quốc lộ 1, dựng “cái chòi nhỏBa Vành tam giác” của bà Huyện Thanh Quan, chiếm đóng trái phép. Lão kiếm được tấm ván nhỏ mốc thít, treo trước… chòi, cái bảng:
“Tiệm may Bình dân”.
Nhà thì thông thống như một bàn tay khép lại, nhọn híp, nhìn từ trước ra sau chỉ ba thước, đầu voi, đuôi chuột, mà lão dám để bảng hiệu là Tiệm may!
Dân trong phố, thấy vậy, thương tình, góp mỗi người một chút vật chất, tạo dựng cơ ngơi đưa lão vào sinh hoạt đời sống cộng đồng nhân sinh.Ông Nha sĩ, sống kề bên cái chòi của lão Tôn, với một mảnh đất lớn, thấy tội nghiệp cho ba bố con mồ côi, vừa mới chân ướt chân ráo từ ngoài miền Trung vào.Ông đề nghị dân chúng trong Thành, lấp cái đường luồng, và cắt thêm hai mét chiều ngang đất của ông, cho lão Tôn. Cái đường luồng, rộng hai mét, cộng chiều ngang ông Nha sĩ cho; căn nhà của lão Tôn, ngang tầm vừa, nhưng sâu hun hút, có cả vườn cây trái xum xuê.
Khi cái nền cement vừa hoàn tất, dân trong phố mỗi người cho thêm một chút nữa: một tấm ván, một cánh cửa, những viên gạch, những mái ngói, những cây cột… thì căn nhà của lão Tôn đã hoàn thiện, chỉn chu.
Lão Tôn có cái tánh hơi dị kỳ. Lão thường hay ghi nhật ký. Ai tặng cái gì, lão ghi không sót một mảy may.
Ông xã trưởng cho một bộ ghế gỗ và cái bàn ăn, lão ghi vào sổ.
“Vào ngày… tháng… năm… ông xã trưởng, anh bà con ông Bảy Rắn có cho tôi, cái…, tôi muôn vàn biết ơn”.
Ông Thôn trưởng Thái, tặng bộ ván ngựa cũ, lão ghi vào sổ.
“Ông Thôn trưởng Thái, tặng gia đình tôi bộ ván ngựa tuy cũ, nhưng rất chắc chắn. Mặc dù, tôi chưa biết ông nhiều, nhưng nhờ thằng Tuấn cháu ông Năm tiệm hình “Bóng Tối” chở về qua cái xe ba-gát của lão A Ùi. Tôi mang ơn ông Thái không bao giờ thiếu sót. Cũng mang ơn ông A Ùi cho mượn cái xe ba-gác”.
Ông Năm tiệm hình, tặng vô số đồ dùng, mà ông thường trao đổi với người lính Triều Tiên, qua những phi vụ chụp ảnh hàng loạt – họ không trả bằng tiền, mà trả qua những món hàng quân tiếp vụ của người Mỹ cung cấp trong chiến tranh.
Lão cũng ghi… Nhưng mà ghi tường tận hơn.
“Ông Năm chủ tiệm hình “Bóng Tối”, là một người “đặc biệt” nhất trong phố Thành.Ông có tiệm chụp ảnh duy nhất ở đây.Ông thường quan hệ tốt với chính quyền đương tại, ra vào Chi khu mỗi tuần, để chụp ảnh những gì quân đội muốn. Tuy nhiên, ông cũng có những liên hệ với những người Triều Tiên, qua tham chiến tại chiến trường VN, đóng ở đèo Lương Sơn. Binh lính Triều Tiên, lúc bấy giờ cũng nghèo. Thằng đàn ông nào xa quê hương, đất nước, sống xứ lạ, ngoài chiến đấu dành sự sống, thì gái ghiếc, là tiêu chỉ số hai. Bọn Triều Tiên, gọi những gái điếm từ Nha Trang vào nơi chúng ở, làm tình tập thể, rồi chúng chụp hình, đem đến tiệm “Bóng Tối” của ông Năm in ra hình. Chúng không đủ tiền thanh toán, chúng trả bằng những món hàng quân tiếp vụ mà người Mỹ cung cấp.”
Ai cho gì, lão cũng ghi ráo! Người ta đồ rằng: lão Tôn phải là người hay chữ nên thường ghi chép mọi sự việc xảy ra hàng ngày trong phố, nên họ… phục y, gọi là lão Tôn!
À. Thì ra thế!
Dựng xong căn nhà bề ngang bốn thước, với vườn cây trái xum xuê sau nhà, lão Tôn bắt đầu phô trương bảng hiệu bề thế hơn: “Tiệm may Tôn Tẩn. Chuyên may veston ngoại hạng – xuất phát từ Paris”!
Ai cũng ngỡ ngàng. Mấy ông hiểu chuyện than thở:
“Mẹ kiếp. Paris! Dân giá áo túi cơm, cùi cụi làm ăn, biết Paris ở đâu, mà may với mặc”!?
Tuấn cũng chưa bao giờ thấy bất cứ một nhân vật nào trong phố, mặc veston!
Hôm khánh thành tiệm may, lão Tôn “chơi” cái áo “vét” dài tới gối, hai gót chân bùng nhùng những nếp thừa (vì quá lùn, nhưng lão không chịu cắt gọn lên. Có lẽ lão tiếc hoặc có lẽ lão làm vậy, để gạ bán cho ai đó trong phố học đòi làm sang. Trời biết!). Lão trịnh trọng treo một phong pháo đỏ lòe, ngắn ngủn đốt khai trương cửa tiệm. Lão bái tay, vung tứ hướng cũng nói lời trịnh trọng cám ơn dân trong phố Thành, đã cưu mang ba cha con lão.
- Tôi và hai con từ miền Trung chạy vào đây sinh sống trốn họa Cộng sản, đã nhờ bà con lối xóm, nương vai mà giúp những ngày đầu khốn đốn, bơ vơ nơi xứ người. Tôi vô cùng trân trọng những tấm lòng hỉ sả, thịnh tình giúp đỡ của bà con.Xin cám ơn.Xin cám ơn lần nữa của Tôn này.
Lão khum tay vái tứ hướng lần nữa, khi kết thúc lời tường trình.

*
An cư, lạc nghiệp, có cuộc sống thoải mái, lão Tôn bắt đầu giở quẻ.
Quen thói mấy mó cây bút, lão Tôn lại bắt đầu ghi nhật ký phố Thành. Ai làm gì, nói sao… trên trời, lão ghi tất!
Chiều chiều, trời buông xuống chút bóng mát, lão Tôn tà tà, tay chấp sau đít thong thả đi từ đầu phố đến cuối phố. Cái phố nhỏ như lòng bàn tay, dài 500 mét, với hai con đường mang tên hai nhà Cách mạng đầu thế kỷ 20, chống thực dân Pháp. Lão đi như nhàn tản, nhưng đôi mắt như cú vọ của lão, không bỏ sót một chỗ nào.Cái mũi “ó đâm” (mà bọn thằng Đại, Tuấn thường gọi) của lão đánh hơi liên tục. Lão biết tất tần tật mọi sinh hoạt dân chúng trong phố, như nhìn vào lòng bàn tay.
Này nhé, lão bắt đầu ghi tanh tách:
“Thằng Cu dài, là một thằng bình thường, không điên như thiên hạ thường nghĩ! Đôi mắt người điên, không tinh anh đến ranh mãnh như nó. Nếu nó điên, tại sao biết Bảy Rắn “chiếm lĩnh thị trường… gánh cá”, rồi cứ đi lên, xuống khu phố Thành dò xét. Thứ nữa. Nó điên, khoe cu, đi ngoài đường khơi khơi, sao lại mặc áo, khi gánh những thúng cá.Xong việc, nó lại cởi áo, xách cu lại đi khơi khơi ngoài đường? Một thằng điên không bao giờ nhớ, một bài hát quân hành, cứ lập đi, lập lại không sai trật một mảy may. Tại sao không là một bài hát khác? Điên mà cũng biết nốt nhạc đồ, pha, la, sol?
Cu dài giả vờ điên?Hay Cu dài điên?”
“Gã Bảy Rắn cũng không điên nốt. Điên mà biết ăn ngon chưa hẳn là điên! Tất nhiên, khứu giác Bảy Rắn còn lành mạnh. Khứu giác qua hệ thống thần kinh tuần hoàn, có lành mạnh mới biết thưởng thức những cái ngon nhất trên đời! Một người điên có thể nào, bào tấm ván, cưa cây gỗ, chạm những hình Long, Phụng thật sắc sảo… trên những cái tủ thờ”? Rồi lão tự trả lời và lại ghi tiếp.
“Nhưng mà lạ! Tại sao thằng Cu dài mình bảo nó không điên, nhưng nó lại thích ăn bông vạn thọ?! Mấy sư nữ trong Chùa, thấy Cu dài đớp bông vạn thọ, bèn mua thêm xếp hàng dài làm phước. Còn thằng cha Bảy Rắn không điên, mà sao khi xe nhà binh chạy trên quốc lộ 1, hắn lại chạy ù ra, nằm thẳng cẳng dưới lòng đường? Thật nhức đầu!”
Rồi tiếp.
“Bà quả phụ Bốn Cao, chồng vắn số vì thượng mã phong.Mụ này có đôi mắt thật lẳng lơ.Mụ nhìn đàn ông thèm khát như thiếu thốn lâu đời. Con mụ này tất nhiên phải dâm! Tôn ta cũng thích mụ.”
“Ông Thái An, người Tàu, là kẻ hút á phiện chính cống! Hằng đêm, cứ 9 giờ, ta đứng ngoài cửa sổ nhà ông ta, một mùi hương thơm thoang thoảng bay ra ngào ngạt. – Lão Chệt này đúng là kẻ hủy hoại văn hóa và giống nòi Việt Nam!”
“Ông Thuận Thanh, chủ hiệu bán và sửa xe máy có 4 cô con gái, đều học trường tư ở Nha Trang, mà không thích học ở Thành, cũng có trường Tư, Công. – Ông này ỷ giàu có, khinh mạn nền giáo dục địa phương!”
Còn nhiều lắm! Nói chung, đó chỉ là thứ người thích soi mói đời tư kẻ khác. Soi mói là thú tính thường tình của một số người nhỏ nhen, đố kỵ. Nhưng soi mói, ghi thành sách quả là điều bất thường!
Cuốn sổ này, thằng Đại lấy được, trong vườn nhà lão Tôn, khi rình hái trộm những trái khế. Lúc đó buổi trưa, thằng Đại vừa bám tường trèo lên đôi vai của Tuấn, nó chợt thụt đầu xuống, đưa tay ngang miệng. Hai đứa vào nhà lấy cái thang gổ, trèo lên ló đầu quan sát. Tuấn thấy lão Tôn đang ghi ghi, chép chép, cái gì đó ra điều khoái trá lắm.Viết một lúc, lão bỏ cây viết xuống bàn, tự thưởng cho mình, bằng cách rít ống thuốc lào kêu sòng sọc, rồi chiêu ngụm trà, mắt lim dim ra điều khoái cảm.
Thằng Đại nói.
- Lão Tôn, dường như là nhà văn mày ạ!
- Sao mày nghĩ thế? – Tuấn hỏi.
- Chỉ có nhà văn, mới có những nếp tư duy, suy nghĩ kiểu đó! Thằng Đại nói bừa.
- Mày có bao giờ, thấy một ông nhà văn nào, ngồi viết chưa, mà nói vậy?
- Chứ mày không nghe dân trong phố nói: lão Tôn là người hay chữ à! – Thằng Đại phân trần.
- Cứ cầm cây bút ghi ghi, chép chép, là mày cho là nhà văn?
- Ừm… ừ!
- Vậy, mày hãy minh chứng điều này nhé.
Hai thằng lén lút ngồi đợi những buổi trưa hè. Một hôm đang ngồi rình lão Tôn hí hoáy viết, chợt thấy anh Tẩn, con trai lớn lão Tôn, đang là sinh viên năm thứ ba Sư Phạm ra gọi.
- Cha. Có khách lại may đồ.
Lão Tôn buông cây bút, bỏ dỡ trang sách, hấp tấp vào nhà.Thằng Đại liền nhảy tót xuống, chạy vội đến cái bàn, lấy cuốn sách, bỏ vào túi quần, bám cành cây khế đu vội trở về nhà.
Hai đứa ngồi đọc từng trang, rồi cười khe khé như hai thằng điên.
Đêm xuống, thằng Đại rủ Tuấn cùng đi.Hai đứa xé từng trang của những nhân vật bi ai, thảm thương, đút vào kẽ hở nhà các nạn nhân.
Rồi cả phố Thành bắt đầu biết!
Người ta bắt đầu sợ… sự thông thái của lão Tôn! Dân phố Thành muốn cô lập lão Tôn, nhưng đã muộn. Khách may mặc áo quần là từ những vùng quê, chứ không ở phố Thành.

*
Mụ Bốn Cao từ khi đọc được những lời “bình” của lão Tôn viết về mình như thế, dĩ nhiên, mụ không cho một ai biết. Nhưng cây kim, bọc trong vải lâu ngày cũng phải ló ra. Tuy nhiên, những nạn nhân, ai ai cũng ra điều: Ta đây không có trong danh sách bệnh hoạn của lão Tôn!
Tự thân mụ Bốn Cao, vừa tức lão Tôn, vừa khoái những gì lão “bình” về mình.
Mụ Bốn Cao là nhân vật ở Thành mà ai cũng biết: Mụ giầu lắm!
Xuất thân từ kẻ nghèo hèn, mua trái xây (sây, say?), một loại trái nhỏ như ngón tay, màu đen, vỏ mềm như nhung, giá rất rẻ, mà bọn đàn bà thường thích. Loại này thường mọc trên núi, vì thế người Dân tộc thiểu số vùng cao thường hay hái bán cho dân đồng bằng. Mụ Bốn Cao, vì nghèo, thường đón xe Lam đi lên tuốt Thanh Minh, rồi cuốc bộ cả ngày đường, mua về bán độ nhật qua ngày. Rồi dần dần, như một phép lạ, mụ mua nhiều thứ từ rừng núi Khánh Vĩnh, đem về dưới phố bán. Mụ phất lên!
Mụ Bốn Cao mua nhà ngay phố, bỏ xóm Lò Heo bẩn thỉu ngoài phố, bắt đầu cuộc trường chinh làm giàu. Mụ đi ngược lại tính làm người! Càng giàu, mụ càng ác và bủn xỉn hơn.Người Dân Tộc thiểu số vốn thật thà chất phát, họ ở núi rừng, nên tánh tình cũng hoang dã nơi sinh ra họ, không giống bọn người Kinh vốn ma mãnh và dối trá để sống còn.Đồng tiền ở trên núi là vô dụng đối với họ, vì thế, họ buôn bán với mụ Bốn Cao bằng những trao đổi vật chất.Thời đó một ký muối, đường chả là bao, nhưng đối với người Dân tộc thiểu số nó lớn lắm.Muối để chấm măng
luộc, đó là khoái khẩu và đường lại càng quý hiếm của người miền cao.
Mụ Bốn Cao đã từng chứng kiến: muối nó quý hiếm đến dường nào, đối với người Dân tộc thiểu số vùng cao.
Mấy tháng đầu đi buôn, mụ phải nhờ người Dân tộc dẫn đường.Đi cả ngày trời, mỏi cả chân, khô cả miệng, Mụ than van, hỏi gã Dân tộc.
- Chừng nào tới bản làng?
- Ngắn lắm nhé. Còn hai cái con rựa nữa, mới tới nhé!
Gã Dân tộc chỉ vào cây rựa đang vác trên vai, trả lời. Sau này, mụ Bốn Cao mới biết: mỗi một cây rựa khi nào đi mỏi cả chân tay, khát cả cổ họng, thở muốn đứt hơi, thì gã Dân tộc mới sang cây rựa qua vai kia. Đó chỉ mới hết một cây rựa. Nghĩa là mới nữa chặng đường đi!
Có một lần, mụ chứng kiến cảnh đám ma của người Dân tộc thiểu số, làm mụ sửng sờ sự quý hiếm của muối và đường ở vùng cao.
Ở Khánh Vĩnh, giáp giới Lâm Đồng và Bảo Lộc, người Dân tộc thiểu số phần lớn là người Bana và Thái Trắng. Thân thể họ cao lớn hơn dân thiểu số khác. Đặc biệt là dân Thái Trắng. Họ trắng và đẹp hơn cả người Kinh, – cũng giống như dân Ấn Độ – cũng có những người da trắng, mà khi ta nhìn vào tưởng họ là người phương Tây.
Người Dân tộc thiểu số, thường chia của cải cho người thân, khi quá vãng. Họ chia đều như khi còn sống. Hồi ấy, mụ Bốn Cao thấy một gia đình có của ăn, của để chia như thế này: Nơi ngôi mộ, gia đình chia sẻ từng cái nồi đất, cái chén, đôi đủa… và ngay cả một con trâu còn sống, được cột trong một cây tre cắm chặt xuống đất cạnh ngôi mộ. Con trâu sau này đi đâu, ra sao đó là điều… của Thượng Đế.
Ngày đầu tiên lấp mộ, họ đóng một cọc tre, đã được đục thủng và thông những mắt tre bên trong lòng ống. Họ đổ vào đó: gạo, thức ăn và những hạt muối. Nhìn họ, tay run run bỏ vào ống những hạt muối, như tiếc rẽ – không như, họ thản nhiên cột con trâu vào cọc! Mụ Bốn Cao không biết bao lâu, họ sẽ ngưng tiếp tế thức ăn cho người đã khuất. Điều đó, mụ bất cần!
Mụ chỉ cần biết: muối, đường, là một sự quý hiếm nhất ở những vùng cao, vùng sâu, của Dân tộc thiểu số thật thà, mà mụ cần khai thác triệt đễ, để: “Sống chết mặc bây, tiền tao bỏ túi!”
Mụ bất cần biết:
- Người Dân tộc thiểu số, phải băng núi rừng, vừa chống, vừa trốn mọi loài thú dữ, xuống đồng bằng: mua, bán, trao đổi hàng hóa đôi bên. Ấy là: cọp, beo, rắn, rít… Đó là loài động vật vô tri, vô thức, thích ăn tươi, nuốt sống mọi loài. Loài thứ hai: Việt Cộng. Trên bạt ngàn rừng Khánh Vĩnh, kéo dài tới địa phận giáp giới thành phố Buôn Mê Thuột, chúng trú ẩn trong rừng sâu, dọc dãy Trường Sơn, đầy rẫy. Chúng cấm người Dân tộc thiểu số, xuống đồng bằng trao đổi mua, bán, để chúng dễ khống chế họ, và bắt họ – một số – theo CS chống chính quyền VNCH.
Để từ đó, mụ Bốn Cao khai thác tối đa, bóc lột họ, làm giàu. Và mụ, ngày càng giàu nhanh hơn, qua những đổi chác, bớt từng cân muối, đường…
Thằng chồng của mụ – Hai Heo – từ lúc ngóc đầu, ngoi lên cái xã hội thượng lưu, gã quên đi cái lò heo, mỗi ngày, giết hàng chục con heo, đít phọt ra hàng đóng phân, mà gã phải bụm đôi tay làm người, để nâng niu, đem bán làm phân bón. Gã bắt đầu ăn chơi vung vít! Bào ngư, vi cá mập xuất xứ từ thằng Chệt Đại Hán… thật tầm thường. Phải bàn tay, chân gấu, óc khỉ, rượu X.O… mới đúng điệu giựt… cặc, của xã hội thượng lưu. Gái điếm thời bấy giờ, tràn lan như một cơn bệnh dịch, khi người Mỹ, Triều Tiên và nhiều nước Đồng minh tràn vào. Những cái bars, từ bar số 1 đến bar số 9, dọc đại lộ Duy Tân ở bãi biển Nha Trang đầy nhóc các “nường” giang hồ. Gã tha hồ hưởng sái. Hai Heo chết vì thượng mã phong ở tuổi 40, để lại mụ vợ với đôi vú còn săn cứng!
Là một kẻ tham và ác, mụ Bốn Cao không bao giờ muốn đi thêm bước nữa! Chả ai dại gì, đi chia sẻ những gì mình cướp giật và lật lọng. Nhưng con người, không bao giờ thoát ra cái dục vọng bản năng làm người: ăn, ngủ, đụ, ỉa là trên hết!
Mụ Bốn Cao bắt đầu thử thời vận!
Một hôm, mụ đem cái vấy ngắn mua đâu đó nhờ lão Tôn “ráp” cho xuống quá đầu gối.Sở dĩ, mụ nhờ lão “ráp” cho dài xuống thêm chút nữa, vì cái vấy quá ngắn so với thân hình quá cao của mụ – như cái tên Bốn Cao.Mụ cao cả thước bẩy.
Vì ngang hàng tuổi tác nhau, mụ nói.
- Nhờ anh Tôn “ráp” cho… em, xuống quá đầu gối một chút!
Lão Tôn săm soi cái vấy, đoạn khen.
- Vải thật tốt. Chị Bốn ướm thử vào người cho tôi xem!
Mụ Bốn Cao đưa cái vấy, ướm thử trước ngực, ưởn ẹo nói.
- Anh thấy sao?
- Ừ… ừ, hơi ngắn đấy. Chị vén cái quần lên, để tôi đo cho chính xác!
Thế là lão Tôn đo. Thật ra, lão cần quái gì phải đo, khi sửa cái vấy cho dài hơn! Lão đo từ rún (lưng quần) kéo xuống, rồi quặt ngược về sau. Nhìn hai cái mông đít tròn ủm, săn chắc, vì thời nghèo khó thường đi bộ, leo núi, của mụ Bốn Cao, mắt lão bắt đầu lờ đờ, lẫn thống khoái. Lão Tôn cứ kéo tới, kéo lui, kéo lên, kéo xuống mấy bận mà chưa… đo xong.
Lão Tôn cứ lộn số đo hoài! Lão vờ gắt gõng.
- Chị đứng yên cho tôi đo chớ. Cứ dựng ngược như ngựa: đạp, đá, trước, sau, làm sao tôi đo chính xác. Chị lại cao, tôi thấp!
- Đo gì đo hoài vậy? Cứ kéo lên, kéo xuống, kéo xuôi, kéo ngược, làm tôi thấy… ngứa muốn chết!
- Sao kỳ vậy! Chị ngứa chỗ nào?
Thế là từ chỗ đo và ngứa, lão Tôn và mụ Bốn Cao… đo và ngữa rất khít khao! Họ “ráp” vào nhau khít rịt. Da liền da!
Chuyện này cũng chỉ thằng Đại biết trước nhất! Nó nói với Tuấn.
- Lúc đó, lão Tôn, y chang như… con thằn lằn ôm cột đình!
- Hé héé… – Hai thằng ôm bụng cười.

*
Còn lão Tôn thì sao?
Đi xa hơn chút nữa, lão Tôn thường dạo quanh xóm, rồi đi lần ra xa hơn, ngoài ngoại ô có cuộc sống nông thôn, tìm hiểu dân tình. Cái tệ nhất, là lão thường hay xin những gì người ta có. Cái quần, cái áo, cánh cửa, thậm chí vài trái ớt, trái cà, trái ổi, trái chanh… lão cũng xin nốt!
“Ăn cho bớt nhạt miệng!”
Người ta càng không ưa, lão Tôn càng dấn tới như một khiêu khích.Thấy lão từ xa bước vào cổng nhà mình, chủ nhà quay lưng định đi, nhưng lão gọi ngay.
- Ông ơi, anh ơi, bà ơi! Cho xin trái chanh nhá!
Tuấn lại càng không ưa lão Tôn!
“Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún…”.
Anh thường nghiên cứu trong bộ tử vi, hàng năm. Lão Tôn rình khắp mọi ngã đường, thì Tuấn rình lão tại gia.
Bên kia đường nhà Tuấn, là nhà thằng Đại, bạn thân học cùng lớp, từ Tiểu, đến Trung học. Nhà Đại cùng vách nhà lão Tôn. Nói “rình” thì không đúng! Nơi sau vườn của lão Tôn, như đã kể ở đoạn trên, nhà lão có mấy cây khế ngọt đến… trần đời! Trái bé tí bằng rẻo tay con nít, tẻo teo, đến khi thành hình cánh 5 sao, từ dưới nhìn lên thấy mà thèm. Chúng ngọt rót!
Chỉ là tình cờ.Một hôm, cây khế vượt cao lên hồi nào thằng Đại mới thấy. Nó cao vượt phủ cái bức tường gạch ba mét, trái lúc lắc chỉu nặng, đong đưa qua bên này nhà thằng Đại. Khế, chỗ nào mà chả có.Nhưng thường là chua. Khế nhà lão Tôn, ngọt ơi là ngọt! Bằng ngón tay cái nó đã ngọt, không chát ngắc như những cây khế khác. Thế là bọn Tuấn, mỗi mùa khế vừa ra hoa tím ngắt cả khoảng trời, cả bọn háo hức chờ.Mùa khế năm sau, trái vừa to bằng ngón chân cái, thằng Đại gọi Tuấn qua hái khế đầu mùa.
Thằng Đại vác cái thang gỗ ra, trèo lên.Tuấn trèo lên sau nó. Hai cái đầu vừa ngóc lên bức tường, nhìn sang, Tuấn ngượng ngùng.
Ui chao. Lão Tôn đang làm tình! Cái mông teo tóp, nhỏ như hai bàn tay chụm lại, đang “dập nhịp” liên tục, trồi lên, thụp xuống, trên thân mụ Bốn Cao. Chưa tới hai phút, lão rên “hừ hừ”, đôi chân cong ngược lên trời, trẹo vào nhau, run phừng phực!
Mụ Bốn Cao, đang ngất ngay, bỗng xụi lơ, khi đôi chân lão Tôn rớt xuống, còn giẫy giẫy mất cái như đàn sai nhịp.Lão nằm im.Cái thân hình ngắn ngủn, nên cái đầu lão đặt nơi đôi vú thây lẩy của mụ Bốn Cao.Mụ nằm im, hậm hực liếc xéo lão Tôn.Hoa khế đầu mùa, tím tái, rụng nhanh khi cơn gió gọi, rớt xuống hai thân thể trần truồng.
- Nỡm. Chả bỏ bèn gì. Đồ gà chết!
Lão Tôn nhặt cụm hoa khế màu tím, rớt trên đôi vú của mụ Bốn Cao, lãng tránh.
- Anh yêu màu tím hoa… khế! Bốn, thông cảm cho anh. Bao nhiêu năm dài… Cho anh hẹn kỳ sau!
- Hứứ. Tức bắt chết. Lần sau, mà còn gà chết nữa, bà cho nhịn luôn nhé!
Thằng Đại kết thúc cảnh làm tình, bằng cái hích cùi chõ vào hông Tuấn, nói khẽ.
- Đó, mày thấy chưa. Lão Tôn bây giờ chẳng khác con thằn lằn nằm trên cột đình!
Thằng Đại đứng trên đầu thang. Tuấn bên dưới, tay bụm quần, lò dò trèo xuống trước. Anh nhìn lên, thấy thân hình thằng Đại, có cáì gì như biến đổi, hơi lạ kỳ… như mình. Tuấn bụm miệng cười.
- Đại. Sao con chim của mày, nó chỉa ngang, coi hơi kỳ kỳ!
Thằng Đại mắc cở, tuột xuống kêu một cái “rột”. Con chim của nó đã trở lại như bình thường.
Có lẽ mấy nấc thang, dập cho cu cậu mấy nhát, tởn đời!?

*
Một hôm khác, thằng Đại trèo lên vai Tuấn, chợt khựng ngang, thụt đầu xuống.
- Gì vậy, mày?
Thằng Đại đưa tay ngang môi “suỵt” một tiếng nhỏ. Hai đứa ngồi thụp xuống chờ.
- Cha. Thiên hạ đồn ầm lên kìa. Cha “chơi” bà Bốn Cao thế nào, mà bả nói cha chơi bả “không đã”, trên rừng hoa khế tím. Trời ơi.Nhục ơi, là nhục. Nhục quá cha ơi! – Anh Tẩn, rên rỉ.
- Tao không vợ, tao chơi đàn bà, có gì mà lạ!
- Con biết chớ. Nhưng cha chơi, cha cũng phải nhớ tới cái mặt con và con Nhị chớ. Tụi con là dân Sư Phạm mà cha! Sau này, biết ăn nói làm sao với bọn học trò.
- Cái mặt tụi mày, không bằng con cặc của tao. Bỏ quên nó bao năm đến mốc thếch để nuôi tụi mày ăn học nên người. Bây giờ, mày bày đặt dạy đời tao hả. Bố khỉ!
- Cha. Cha ơi! Sao cha nói vậy?Lễ nghĩa còn mà. Cha dạy chúng con như thế! – Anh Tẩn khóc hù hụ như một đứa con nít.
- Tao dạy chúng mày, chứ tao không dám dạy thiên hạ. Dạy thiên hạ như thế, chúng đạp vào mồm tao không còn cái răng nói điều đạo đức giả!
Hai cha con cãi nhau chí chóe. Anh Tẩn giận cha, bỏ học, và đi đâu biệt tích xứ Thành!
Lão Tôn hậm hực bỏ đi vào nhà, lấy cuốn sổ nhỏ trong túi áo ra, ghi.
- Con mụ Bốn Cao thật đáng gờm. Mụ thổi gió, đưa đèn!

*

Chương 6

Khi những tiếng kêu hoảng hốt của ông Năm, chủ tiệm hình “Bóng Tối” la lên, mọi cánh cửa bắt đầu mở toang ra, lóe sáng ánh đèn điện trong nhà. Cả khu phố sáng hực, mọi người nhìn nhau trong im lặng, rồi cùng chạy đến chỗ ông Năm đang ngồi, ôm Bảy Rắn.
- Á, áá…
- Trời ơi, ông Bảy Rắn làm sao vậy?
- Ai bắn ổng? – Có tiếng hỏi.
- Có ai thấy khôông? – Một tiếng rống to, trả lời.
- Ác. Bắn chi kẻ khùng!
Có kẻ chạy.Chạy thục mạng, chạy đi đâu đó như gặp phải ma quỷ.
Cũng có những người tò mò, bu lại mỗi lúc một đông.
- Đúng là Bảy Rắn rồi! Ai đã bắn ông ấy?
Những câu hỏi sửng sốt, vọng lại qua cánh cửa.
- Mấy người bước ra xa, để ổng thở! – Một ai đó lên tiếng.
- Thở cái gì nữa, mà thở. Ổng chết rồi. Hai phát vô cổ, có trời mà cứu! – Có tiếng đáp lại.
Tuấn khép hờ cánh cửa, đi vô nhà ngồi thụp xuống cái ghế đẩu con con, ôm đầu, nhìn màn hình tròn tròn, rất sáng. Anh kéo cuộn film, đang “retouch”, nhìn.
“Anh không chết đâu em.Người ở lại Charlie. Xuân này con không về. Biển Mặn…”
Tuấn ôm mặt, khóc nấc lên.
- Mẹ nó, tụi cộng sản. Chúng nó vào rồi. Ông Phan Nhật Nam ơi! Ông Duyên Anh – Vũ Mộng Long ơi! Chạy đi, cho mau!
Cây bút lông dùng để sửa những tấm ảnh ngày nào, bây giờ, chính là thủ phạm tiêu hủy mọi thứ. Tuấn dùng nó, đâm toặc những thước film nuôi sống anh và gia đình người Cậu.
- Anh không chết nè… Charlie nè… Xuân này nè…! Hức… hức…
Tuấn băm nát tất cả. Thước film lòng thòng rơi xuống nền ciment. Còn gì nữa để mà tiếc nuối, khi cái họa CS ngày càng đến gần, thấy rõ?
Tuấn lại đi ra, nhìn qua khe hở của cánh cửa, thấy người mỗi lúc một đông hơn trước nhà, nơi Bảy Rắn vừa bị Cu dài bắn chết, bằng hai phát súng của khẩu colt 45. Trong đám đông đó, Cu dài đứng lẩn thẩn ngoài vòng, đi tới lui, ra điều ngu ngơ.
Tuấn chợt nhớ tới cây Ca-bin M2, mới đêm qua, khi gác xong khu phố Thành, bỏ đâu đó trên căn gác lững.
Mặc mẹ Binh nhất Cu dài, mặc mẹ gã Bảy Rắn, tên thật Ba Nhân, mặc mẹ Cậu Năm của Tuấn là Việt cộng nằm vùng. Tuấn chạy lên căn gác ngó dáo dác, không thấy cây súng đâu. Tuấn đi ra ban công, ló đầu nhìn xuống cảnh hổn độn bên dưới, đang bu quanh cái xác Bảy Rắn.
Rồi Tuấn chạy ngược lại vào nhà tìm cây súng. Lục lọi mọi xó xỉnh, không thấy. Tuấn mới chợt nhớ cây súng, đêm qua gác xong, anh giấu đâu đó trên cao. Tuấn nhìn lên, cây Ca-bin M2, vẫn còn đó trên nóc tủ. Tuấn với tay lấy súng. Anh dáo dác nhìn, cầm cây súng đi quanh quẩn trên căn gác lững, tìm chỗ để giấu nó, nhưng vô vọng. Chợt nhiên, Tuấn nhớ trên trần nhà, có một khung vuông nhỏ, đủ một người trèo vào. Anh vội trèo lên, mở tấm ván đun đầu chun vào, nhét vội cây súng ở một chỗ khuất nhất, rồi trèo xuống.
- Tao để đó, chơi tụi mày!
Tuấn từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, hai chân quỳ xuống dũi về sau, đặt mông ngồi xuống, ôm đầu.Anh bắt đầu nhớ lại tất cả những gì của tuổi 17 đã thấy, đã nghe, đã đọc và đã ghi trong đầu.
Mười hai tuổi, Tuấn đã cùng ông Năm, đi rong ruổi khắp cái quận Diên Khánh này.
Bất cứ làng xã nào, có trường học, là hai Cậu cháu phải có mặt vào những tháng hè sắp tới kỳ thi Tiểu học (Trường Trung học, chỉ có hai, một công và tư. – Công, Trung học Diên Khánh, Tư, – Trung học Dân Trí – đều nằm trong nội thành), để chụp ảnh cho học sinh.Vì thế, chiến tranh nhiễu nhương dân chúng ở đâu, Tuấn đều chứng kiến, và đã chụp lại những tấm ảnh.Thông thường là những cái chết, từ hai phía quân đội bắn giết nhau. Việt Cộng giết dân lành, Chi khu Cảnh sát nhờ ông Năm chụp ảnh, để ghi lại sự tàn ác mà Việt cộng đã gây nên. Những vụ “khui” hầm mật của Việt cộng (do dân chúng bao che), cũng được chụp ảnh, khoe chiến tích.Súng đạn, bom mìn, được tiếp tế từ Nga, Tiệp, Trung Quốc và tự chế xếp hàng loạt.Một địa phương nhỏ như tỉnh Khánh Hòa, ít xẩy ra những trận đánh lớn, mà khí tài như vậy, thì những vùng ở cao độ chiến tranh thường xuyên, nhiều đến cở nào?
Những công dân thành phố trên đất nước này, có lẽ họ chả hiểu gì mấy về chiến tranh, mà sự chết chóc thảm thương, đa số thường xuất phát ở nông thôn.
Trong một lần, hai Cậu cháu đèo nhau trên chiếc xe Vespa, đi chụp ảnh ở một trường Tiểu học tại Suối Dầu, Tuấn khóc mấy ngày liền khi nhìn cảnh ghê rợn ấy.
Ngày đầu tiên chụp ảnh, Tuấn đang loay hoay gắn máy vào chân máy hình, một bé gái khoảng 10 tuổi bước đến ngồi trên cái ghế, im lặng nhìn anh. Tuấn ngước lên và sửng sờ đến tê tái!
Đôi mắt xanh như mắt mèo, nhìn anh trong suốt đến dễ thương.Mái tóc vàng óng cột đuôi gà, sau ót bằng một sợi dây chuối khô, thấy thương. Cô bé ấy, nhìn anh thợ chụp ảnh, không lớn hơn mình bao nhiêu tuổi, cười vu vơ…
- Anh chụp em, cho đẹp nhé!
Một tràng tiếng Việt thanh thót đến trong trẻo vụt ra từ đôi môi đỏ, nhỏ nhắn, làm Tuấn giật thót người. Tưởng con nhỏ Mỹ nào, sinh ở VN, theo cha mẹ thời chiến tranh! Tuấn sững sờ gật đầu, rồi chụp. Một thằng bé bước vào. Nó đen thui như cột nhà cháy, nhe hàm răng trắng ởn cười lỏn lẻn, ngồi xuống ghế. Và những đứa bé khác xuất hiện, có đứa mắt nâu, tóc màu bạch kim, có đứa quăn tít như người Phi Luật Tân. Tuấn bắt đầu thấy kinh hãi. Anh nói.
- Cậu ơi. Sao kỳ vậy!?
- Chúng là Mỹ lai… Đồng minh lai, cháu à!
Tuấn sửng sốt nhìn ông Năm. Anh không thể ngờ rằng: sao một câu trả lời đến vô cảm như thế? Một câu trả lời, sau này, giữa Tuấn và người Cậu, không còn coi nhau như người thân.
Chụp hình lũ trẻ Lai xong, Tuấn giận ông Năm, cuốc bộ, rồi đón xe Lam về nhà trên, 10 cây số.
Thời đó, dọc suốt từ xã Suối Hiệp, Cây Cày, Suối Dầu… vô đến Cam Ranh là căn cứ chính của Mỹ thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa, lính Mỹ đóng dọc ở những thành phố ven đường.
Bọn con lai ra đời từ đó, như một nghiệp chủng cho chính chúng.
Vài hôm sau, Tuấn một mình đạp xe vào giao ảnh cho nhà trường.
Hỡi ơi. Ngôi trường bé tí ấy, do chính phủ xây cho con Lai của nạn đĩ điếm tràn lan ví có quân đội Mỹđóng, đã bị san bằng, bằng những loạt đạn pháo kích từ núi rừng Suối Tiên rót xuống.
Tất cả đã thành bình địa. Hoang vắng đến xơ xác! Tuấn đi tìm con bé, được anh chụp tấm ảnh đầu tiên, nhưng không thấy. Có lẽ con bé đã chết trong trận pháo kích của Việt cộng.
- Mấy em đâu rồi? – Tuấn gào lên, khản đặc trong cổ.
- Việt cộng nó pháo và chết hết rồi! – Một bà già lưng còng, đang bươi rác nơi ngôi trường nhỏ đã bị đổ sập, nói.
Tuấn quỳ xuống, gào.
- Hết Mậu Thân… bây giờ Suối Dầu. Trời ơi!
Bắt đầu từ năm 1973, sau Hiệp Định Paris, khi người Mỹ đã đi đêm với Trung quốc trước đó vài năm. Họ bỏ rơi miền Nam, mà tự họ can dự vào, để rồi sau đó giết một Tổng Thống của nền Đệ nhất Cộng Hòa vì không theo đường lối chủ trương của họ.
Người Mỹ đã phủi tay, một cách tàn độc!
Cũng bắt đầu, từ năm 1973, sau khi người Mỹ rút đi, mọi trường Trung học trên toàn cỏi miền Nam, có chương trình Quân sự Học đường. Mọi học sinh từ ban Tú tài 1 (tức Đệ nhị, lớp 11, sau này) đều phải tham gia tập luyện Bán quân sự. Trong một tuần, phải có mấy tiết, học bắn, leo trèo… như một người lính chính thức.
Thời đó, Tuấn còn nhỏ, 15 tuổi, nên chưa tham gia.
Đầu tháng 2, 1975, khi chiến trường miền Trung như một nồi canh mướp, sôi bùng bục đầy nhớt nhao; dù rằng được đưa lên bếp lửa “Truyền thanh, Truyền hình”, hâm lại cho nóng, nhưng nó vẫn thiu thối. Chi Khu Diên Khánh, bắt đầu bắt những thanh niên 17 tuổi, cầm súng, gác thay cho những anh lính Nghĩa Quân ngày một ít dần, vì bổ sung quân số. Người Mỹ rút đi, đã để lại sự thiếu sót…
Hôm ông Xã trưởng, bà con với Bảy Rắn, tụ tập thanh niên ở ngoài đình, chợ Thành, tuyên bố.
- Các anh, bây giờ là rường cột nước nhà. Bọn CS khát máu, đang tiến vào Huế, Đà Nẵng như vũ bão.Một tấc đất Tổ tiên để lại, quyết không nhường cho kẻ thù.Ai dâng đất cho Giặc, quyết phải cửu tộc tru di. Phải tự quyết!
Nhận súng xong, cả bọn thanh niên, mếu máo.
- Ông Xã trưởng. Chúng cháu… chưa bao giờ cầm súng!
- Tụi mày giỡn mặt chắc. Hai năm cầm súng học đường, đâu rồi?
- Chỉ là lý thuyết, ông Xã trưởng ơi! Làm chó gì có: Quân sự học đường! Một thằng nào đó, hỗn hào, gào to.
- Tao bất biết! Cái này chính quyền lo!
Quân sự học đường, chỉ là một ảo ngữ! Đã là quân sự thì phải có súng ống, đạn dược. Những thứ này, người Mỹ đã và đang cúp mọi viện trợ chi phí chiến tranh, thì làm gì tới bọn học trò có mà học, để chống Cộng! Tuấn cho rằng: đây là một hình thức mị dân, khống chế cái nỗi sợ đang dần mất một miền Nam. Một cây súng carbin M2, với một kẹp đạn, bỏ bèn gì khi Việt cộng tấn công?
Đêm đầu tiên, nhận cây súng đi trực, Tuấn được bố trí ngay ngã ba A Ùi. Ngã ba A Ùi, đối diện khu Vườn Trầu, nơi CS thường ra vô. Đánh, giết vài người nào đó, rồi chạy vô Vườn Trầu mất hút, đó là chiến thuật của người CS: khủng bố!
Mỗi hai thằng thanh niên “Tự quyết”, nhận một cây carbin M.2. Đêm này, Tuấn gác, đêm sau ra ngã ba A Ùi, giao lại súng cho thằng kế tiếp gác đến sáng! Xã Diên Toàn thuộc phố Thành, chưa tới 20 thanh niên vào tuổi đó.
Tuấn và thằng Lương, cùng chung cây súng. Một tuần sau, thằng Lương trốn, đi lên núi làm cách mạng! Báo hại Tuấn, một tuần phải gác ba ngày.

*
Trước đó vài năm, nói tới tiệm phở, bánh bao, dầu cháo quẩy A Ùi, ai ai cũng khen nức nở. Tuấn không nhớ nỗi, một ông Nhà văn nào đó, tình cờ đi ngang Diên Khánh, ghé vào ngã ba A Ùi, thưởng thức món phở của lão, khen toáng lên trên báo Sài Gòn.
Vậy mà, sau này, lão A Ùi là một cư dân vô ý thức nhất, trong mắt Tuấn.Quanh năm, suốt tháng, lão cứ mặc cái quần đùi mỏng, rộng thình, dài quá gối, với cái bụng phưỡn ra như bụng đàn bà chữa ở tháng thứ tám.Mặt mũi luôn mồ hôi tươm ra phát khiếp. Khi lão đi, cái giống trong đáy quần lão đung đưa: tích tắc, tích tắc như cái kim đồng hồ. Lão không mặc nội y! Không những lão, mà hầu như mọi công dân Hoa kiều đều như vậy! Ở Thành, người Tàu chiếm đến 30% dân số, đa số là người Hải Nàm (Hải Nam), di dân từ lâu đời. Họ là những di dân tốt, biết tôn trọng luật pháp VN. Cái xấu nhất là họ ăn nói to tiếng giữa đám đông, khạt nhổ không cần che đậy, và nhất là hay mặc quần đùi, ở trần hoặc mặc áo piyama đi ngoài đường. Nhìn một gã Chệt đi đường, dù giầu có đến đâu như lão A Ùi, áo vắt ngang vai, cái quần đùi thông thống, cái giống quỷlúc lắc theo nhịp đi, ai cũng lắc đầu!
Tiệm phở và bánh bao A Ùi, là căn nhà lầu đúc lớn nhất phố Thành. Nó ba tầng và có sân thượng hẳn hoi.
Hình như, ông A Ùi cố tình thì phải. Từ khi, mụ Bốn Cao mang đầytai tiếng với lão Tôn thợ may – chơi không “đã” trên rừng hoa khế tím – may áo veston, có nguồn gốc tận Paris. Mụ cáo từ, nghỉ chơi lão Tôn! Ông A Ùi, trước kia thường mặc piyama đi ngoài đường, nay mặc quần đùi thông thống… ra vẽ thể thao.
Nhà ông A Ùi, cách nhà mụ Bốn cao, dăm sải chân bước qua đường. Người ta đồn rằng: ông A Ùi, có bà vợ điên bị nhốt trên lầu, có kẻ hầu người lo mọi thứ. Ăn phở tái, nạm, gân, gầu… bụng ông càng lúc phình ra như cái trống chầu. Mụ Bốn Cao càng lúc càng giàu mạnh thêm. Mụ thuê gã Dân tộc lần đầu tiên, mụ gặp đi… bằng hai hai cái rựa, mới hết một ngày đường.
Mụ bảo.
- Tao thuê mày, một tháng 50 ngàn đồng, để làm mọi thứ, nhớ chưa? Kể cả…
Anh Dân tộc thiểu số, gật đầu lia lịa.
Thời đó, lương một Trung sĩ VNCH gần 30 ngàn, một tháng, có thể mua không biết bao nhiêu trăm ký muối! Gã Dân tộc là một vệ sĩ trung thành nhất hành tinh này.
Một hôm, mụ Bốn Cao nói.
- H’nia. Mày ra sau giếng tắm, ở truồng, tao coi.
Ai, chứ H’nia ở truờng tắm suối là điều tự nhiên, hằng có trong đời sống sinh hoạt thường nhật của gã.Gã thản nhiên đứng cởi truồng tắm.Gã kéo gàu nước xối ào ào, thích thú.
Mụ Bốn Cao nhìn gã Dân tộc, chê.
- Không bằng cha A Ùi. Chỉ có cái mả to con!
Mụ bắt đầu rình.

*
Thông thường, những thằng (lính) mới cầm súng thuở ban đầu, thường chọn những nơi cao, làm nơi để quan sát tình hình, trận địa.
Ở độ cao thì dễ nhìn, dễ khám phá ra địch và dễ dàng bắn xuống.
Tuấn và một thằng bạn, đòi cho bằng được ông A Ùi, phải cho lên sân thượng nhà ông để canh gác. Thời chiến tranh, ai cầm súng, người đó mạnh.Vì thế, Tuấn mới biết ông A Ùi có một bà vợ điên bị xích khóa nhốt trên lầu.
Nhưng đó là sự suy nghĩ ngu xuẩn nhất, của những thằng mới cầm súng lần đầu, là Tuấn.
Đêm hôm sau nữa của phiên gác, hai đứa đang đi tới lui, thì:
“Cắc cùm”!
Thằng bạn của Tuấn, chưa kịp thân quen, đã nằm giẫy rần rật với phát đạn trên trán. Nó mới 17 tuổi! Dân Lò Heo mổ thịt, nghèo rớt mồng tơi.
Tuấn rùng người ngồi thụp xuống, nhìn sang bên kia Vườn Trầu. Một bóng đen chạy thụt vào. Tại sao tên Việt cộng ấy lại đi giết một thanh niên. Để làm gì? Nếu là một trận đánh xáp lá cà, cho ra kẻ thua, người thắng, bắn chết một nhân mạng, cũng là đúng, vì nhu cầu tấn công, gây hỗn loạn. Đằng này, giết người xong lại chạy trốn. Vậy giết người với mục đích gì? Khủng bố hay bệnh hoạn? Hay đó là bản chất tàn bạo của người CS?
Hai đêm sau nữa, lại một thằng chết. Thằng này nhỏ con, như con nít 15 tuổi, tóc vàng hoe, đá banh rất cừ, không biết con cái nhà ai, cũng nghèo rớt mồng tơi. Đêm hôm đó, đang gác trên căn lầu ông A Ùi, nó mắc tiểu tiện, định đái xuống đường, Tuấn quơ tay không cho. Khi anh đi ngược lại mặt sau, trước là cổng Chùa Sư Nữ, thằng này xỉa cu đái xuống đường. Nó đái trên hàng dây điện cao thế 240 volt, chết tức tưởi, không một lời trối trăn!
Tuấn vuốt đôi mắt của nó đang mở trừng trừng, miệng sùi bọt trắng phếu ở mép. Có lẽ, nó không hiểu tại sao mình chết!
Chính quyền dạy học sinh, nhưng chính quyền chưa dạy người dân thất học cái lý lẽ hiểu biết làm người!
Cho đến bao giờ?
Hay mạng con người Việt Nam, rẻ hơn một con chó. Nghìn đời!?
Bấy giờ, Tuấn mới biết: Anh còn ngu hơn một con chó! Chó khôn còn biết liếm mặt Chủ! Chủ ở đâu, chỗ nào, chó nó thấy và liếm mặt Chủ. Thằng Việt Cộng ở chỗ nào trong bóng tối, khi cái nhà lầu đúc của ông A Ùi, trên cao, ánh sáng của bóng đèn điện tràn lan, tỏa sáng!

*
Tuấn đổi chiến thuật! Bàn với thằng bạn mới.
- Bây giờ, tôi với bạn đừng đi chụm nhau. Phố Thành có hai con đường: Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu, hai đường lên xuống trong phố; ngoài kia là con Quốc lộ 1, một đường. Ông chọn đường nào?
- Tôi chọn con Quốc lộ 1! Thằng bạn trả lời dứt khoát.
Hai đứa chia nhau đi gác.

*
Ở những thành phố nhỏ, khoảng chín giờ, đèn đóm tối om. Dân lao động thường ngủ sớm, để ngày mai mở cửa bán buôn lúc năm giờ. Ở thôn quê, còn sớm hơn nữa.
Tuấn đeo súng vào vai, dạo một vòng phố Thành, lên xuống vài dòng. Một điều lạ mà anh chợt khám phá.Nhà lão Tôn bật đèn điện, thì mấy phút sau, nhà mụ Bốn Cao cũng bật lên rồi tắt. Căn lầu đúc cement trên cao của ông A Ùi, đèn chợt tắc, và một bóng đèn trước nhà bật sáng lên.
- Ám hiệu gì đây? Gọi Việt cộng chắc!
Tuấn ôm cây súng, chun vào hàng rào thênh thang nhà ông Nha sĩ, ngồi chờ.
Mụ Bốn Cao mặc cái vấy, trước kia lão Tôn “ráp” cho dài thêm xuống đầu gối. Mụ ngó trước, nhìn sau, vén vấy, kéo qua bên hông, định bước xuống tam cấp. Lão Tôn chợt hiện ra như ma, quỷ.
- Bốn. Em định đi đâu vậy? Mấy hổm rày, anh chờ Bốn mỏi mắt. Anh chờ Bốn… thiết tha. Bốn biết hông?
- Chờ cái mả mẹ ông, biết chưa. Chơi hoài… đéo sướng!
Lão Tôn né, lập lại.
- Bốn, định đi đâu vậy. Tôn đưa đi được không?
Mụ Bốn Cao, kéo hai cánh cửa gổ xập mạnh, bật cái đèn trước cửa, chớp sáng lên, rồi tắt ngay.
Lão Tôn lầm bầm.
- Con đĩ ngựa dâm loàn. Hết thằng Tôn này tới lão A Ùi!
Lão cầm cây bút ghi vào cuốn sách trong bóng tối.
“Thấy cái con mẹ gì, mà lão Tôn bày đặt ghi ghi, chép chép, như một thứ bệnh hoạn mãn tính!”
Tuấn lầm bầm, đưa cây súng lên nhìn.
- Hình như… đó là một khúc gỗ mun, làm cảnh!?

(Còn tiếp)

© Đàn Chim Việt




No comments:

Post a Comment

View My Stats