Những người kể
chuyện
Đào
Anh Dũng
dịch, theo bản tiếng Anh: http://www.nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/2012/yan-lecture_en.html
Viet-Studies ngày 11-12-12
Thưa
các thành viên Viện hàn lâm Thụy Điển, thưa các quý ông, quý bà!
Tôi
nghĩ rằng mọi người ở đây, nhờ truyền hình và internet, đã ít nhiều biết đến
huyện Cao Mật vùng Đông-Bắc xa xôi. Các bạn có lẽ đã thấy người cha 90 tuổi,
anh trai, chị gái, vợ, con gái, thậm chí cả cháu gái 1 năm 4 tháng tuổi của
tôi. Nhưng các bạn sẽ không bao giờ thấy mẹ tôi, người đang choán gần hết tâm
trí tôi. Nhiều người chia sẻ niềm vinh dự vì giải thưởng này, còn mẹ tôi thì
không.
Mẹ
tôi sinh năm 1922 và mất năm 1994. Chúng tôi đã an táng mẹ tại một vườn đào
phía Đông làng. Năm ngoái chúng tôi buộc phải chuyển mộ phần mẹ ra xa ngôi
làng, để nhường chỗ cho một dự án đường sắt. Khi xới mộ lên, chúng tôi thấy
quan tài đã mục và thi hài mẹ bị lẫn đất ẩm. Thế là chúng tôi lấy một ít đất ở
đó, thủ tục mang tính tượng trưng ấy mà, và chuyển tới một phần mộ mới. Lúc đó
tôi hiểu rằng mẹ đã hòa vào đất, rằng nếu tôi nói với đất mẹ thì cũng là tôi
nói với chính mẹ vậy.
Tôi
là con út của mẹ.
Kỷ
niệm đầu đời của tôi là chuyện mang chiếc chai rỗng tới căng-tin công cộng để
lấy nước uống. Yếu ớt vì đói, tôi để rơi và làm vỡ chai. Vô cùng sợ hãi, cả
ngày hôm đó tôi trốn trong đống rơm. Tối đến, nghe thấy tiếng mẹ gọi bằng tên
thân mật, tôi bò ra khỏi đó và chuẩn bị chịu đánh đòn, mắng mỏ. Nhưng mẹ không
đánh, thậm chí không mắng tôi. Mẹ chỉ thở phào và vò đầu tôi.
Kỷ
niệm đau đớn nhất của tôi là chuyện ra đồng với mẹ để nhặt nhạnh những bông lúa
mì. Những người mót lúa khác đã chạy tán loạn khi họ phát hiện người trông lúa.
Nhưng mẹ tôi không thể chạy vì chân bó[1],
bà bị bắt và bị người trông lúa to lớn tát mạnh đến nỗi mẹ ngã ra đất. Người
trông lúa tịch thu số lúa mà chúng tôi vừa nhặt nhạnh được rồi huýt sáo bỏ đi.
Lúc mẹ ngồi lên, môi mẹ đã rướm máu. Mẹ chỉ biết nhìn theo - một cái nhìn vô
vọng mà tôi sẽ không bao giờ quên. Sau này, khi gặp người trông lúa - giờ là
một cụ già tóc bạc - ở chợ, mẹ đã phải ngăn tôi trả thù cho mẹ.
Mẹ
bình thản nói: "Con trai, người này không phải người đã đánh mẹ."
Kỷ
niệm đẹp nhất của tôi là chuyện một ngày Tết trung Thu, buổi trưa, chúng tôi có
dịp hiếm hoi được ăn xủi cảo ở nhà, mỗi người một tô. Có một người hành
khất đứng tuổi đến trước cửa, lúc chúng tôi đang ngồi quanh bàn, và khi tôi cố
xua ông ấy đi bằng nửa tô khoai lang khô thì ông ấy giận dữ phản ứng: "Tôi
già rồi. Mọi người ăn xủi cảo nhưng muốn tôi ăn khoai lang. Sao mọi người có
thể vô cảm như vậy chứ!?". Tôi cũng phản ứng giận dữ không kém: "Chúng
tôi được ăn xúi cảo hai lần một năm đã là may mắn rồi. Mỗi người một tô nhỏ,
chỉ đủ để biết mùi vị! Ông nên cảm ơn chúng tôi vì đã cho ông khoai lang chứ,
còn nếu ông không thích thì ông có thể đi khỏi đây!". Sau khi quát mắng
tôi, mẹ đổ nửa tô xủi cảo của mình vào tô của ông ấy.
Kỷ
niệm đáng tiếc nhất của tôi là chuyện giúp mẹ bán cải bắp ở chợ, tôi đã lấy đắt
1 hào của một người già trong làng - cố tình hay vô ý thì tôi chẳng nhớ rõ -
trước lúc tôi đi học. Về nhà, chiều hôm đó, tôi thấy mẹ đang khóc - điều ít khi
xảy ra. Thay vì quở mắng tôi, bà chỉ nói nhẹ nhàng: "Con trai, hôm nay con
làm mẹ con xấu hổ!"
Mẹ
mắc bệnh phổi nặng khi tôi vẫn còn niên thiếu. Đói rét, bệnh tật và quá nhiều
việc đã làm gia đình tôi thực sự khó khăn. Quãng đường phía trước trông thực sự
u ám, tôi có dự cảm xấu về tương lai, sợ rằng mẹ sẽ tự vẫn. Hàng ngày, việc đầu
tiên tôi làm khi bước vào cửa, sau một ngày lao động vất vả, là gọi mẹ. Giọng
của mẹ tiếp thêm nghị lực sống cho tôi. Tôi hoảng sợ nếu không nghe thấy nó.
Tôi tìm mẹ quanh nhà và trong gian xay lúa. Một hôm, sau khi tìm kiếm khắp nơi
mà không thấy mẹ, tôi ngồi khóc ở sân như một đứa trẻ. Điều đó giúp mẹ tìm thấy
tôi lúc mẹ đi vào sân với một bó củi sau lưng. Mẹ rất buồn vì tôi, nhưng tôi
không thể kể với mẹ những gì tôi đang sợ hãi. Song mẹ biết hết. Mẹ nói:
"Con trai, đừng lo, có thể mẹ không hạnh phúc, nhưng mẹ sẽ không bỏ con
trước khi Diêm Vương gọi mẹ!"
Tôi
vốn xấu xí từ lúc được sinh ra. Những người dân làng thường cười vào mặt tôi,
và những đứa hay ăn hiếp người khác ở trường thỉnh thoảng đánh đập tôi là vì
thế. Tôi chạy về nhà và khóc, mẹ tôi nói: "Con trai, con không xấu xí. Con
có mũi và hai mắt, chân tay không khiếm khuyết, vậy con xấu xí thế nào được?
Nếu con có tâm hồn đẹp và luôn làm điều đúng thì những gì xấu xí sẽ trở thành
đẹp đẽ." Sau này, khi chuyển tới thành phố, có những người được học hành
cười sau lưng tôi, và một số thậm chí cười thẳng vào mặt tôi; nhưng cứ nhớ lại
những lời mẹ đã nói thì tôi chỉ bình thản đưa ra những lời xin lỗi.
Người
mẹ không biết đọc không biết viết của tôi rất quý trọng những người biết đọc.
Chúng tôi đã quá nghèo và thường không biết kiếm bữa ăn sắp tới ở đâu, nhưng mẹ
không bao giờ từ chối đề nghị của tôi mua một cuốn sách hay một thứ gì đó để
viết lách. Do bản tính làm việc chăm chỉ, mẹ không cần những đứa trẻ lười
biếng, nhưng tôi được phép hoãn làm những việc vặt trong nhà miễn là tôi chúi
mũi vào một cuốn sách nào đó.
Có
lần một người kể chuyện đến chợ, và tôi đã lén đi để nghe ông ấy. Mẹ không vui
vì tôi bỏ bê việc vặt trong nhà. Nhưng tối hôm đó, trong khi mẹ đang vá quần áo
cho chúng tôi dưới ánh sáng yếu ớt của đèn cầy, thì tôi lại không thể ngừng kể
lại những câu chuyện mà tôi đã nghe được. Lúc đầu mẹ không kiên nhẫn lắng nghe,
vì trong mắt mẹ thì những người kể chuyện chỉ là những gã bẻm mép đáng nghi. Từ
miệng lưỡi họ không ra được điều gì tốt đẹp. Nhưng dần dần mẹ bị cuốn vào những
câu chuyện do tôi kể lại, và từ đó mẹ không bao giờ bắt tôi làm những việc vặt
trong nhà vào những ngày có phiên chợ, mà cho phép - nhưng không nói ra - rằng
tôi có thể đến chợ và nghe những câu chuyện mới. Để báo đáp lòng tốt của mẹ và
để thể hiện trí nhớ của mình, tôi kể lại, với sự phong phú các chi tiết, cho mẹ
nghe.
Không
mất nhiều thời gian để tôi nhận ra sự hạn chế trong việc kể lại những câu chuyện
của người khác, vì thế tôi bắt đầu trang trí cho câu chuyện của mình. Tôi nói
những điều mà tôi biết sẽ làm mẹ vui lòng, nếu cần thì thỉnh thoảng tôi cũng
thay đổi kết cục. Mẹ không phải thính giả duy nhất của tôi, mà sau này còn có
các chị, các cô, thậm chí cả bà ngoại tôi. Đôi lúc, sau khi lắng nghe câu
chuyện của tôi, mẹ hỏi tôi bằng một giọng trăn trở, cứ như tự hỏi mình vậy:
"Con sẽ ra sao khi lớn lên, con trai? Có thể con sẽ phải nói luôn mồm chỉ
để kiếm sống phải không?"
Tôi
biết tại sao mẹ lo lắng như vậy. Những đứa trẻ mau mồm mau miệng không được
đánh giá cao ở làng tôi. Vì chúng có thể đem đến phiền toái cho chính chúng và
gia đình chúng. Ở truyện "Những con bò", có đôi chút hình ảnh niên
thiếu của tôi, trong cậu bé mau mồm mau miệng bị những người dân làng làm khó
dễ. Mẹ, đã thành thói quen, cảnh báo tôi đừng nhiều chuyện, muốn tôi làm một
thiếu niên kiệm lời, hòa nhã và đứng đắn. Nhưng tôi lại có một sự kết hợp nguy
hiểm giữa kỹ năng nói đáng nể với khao khát mạnh mẽ. Khả năng kể chuyện của tôi
mang lại niềm vui cho mẹ nhưng lại khiến mẹ khó xử.
Có
một câu nói quen thuộc rằng "bản tính con người còn khó uốn nắn hơn cả
dòng sông". Bất chấp sự uốn nắn không mệt mỏi của cha mẹ, khao khát tự
nhiên của tôi - là nói chuyện - không bao giờ cạn, và đó là nguồn gốc cái tên
của tôi - Mạc Ngôn, hay "đừng nói" - một sự tự phê thật tréo ngoe.
Sau
khi bỏ trường tiểu học, tôi quá nhỏ để có thể lao động nặng, do đó tôi trở
thành người chăn cừu và gia súc bên một bờ sông đầy cỏ. Cái cảnh bạn học đang
chơi trong sân trường, trong khi tôi lùa lũ động vật qua cổng, luôn làm tôi
buồn và thấy rằng thật không may cho những ai - ngay cả một đứa bé - nếu phải
rời bỏ tập thể.
Tôi
để lũ động vật nhởn nhơ gặm cỏ bên bờ sông, dưới nền trời xanh nước biển, trên
thảm cỏ xa hết tầm mắt - chẳng có bóng dáng hay tiếng người, chẳng có gì ngoài
tiếng chim kêu trên đầu. Tôi cô đơn khủng khiếp, và thấy tâm hồn trống rỗng.
Thỉnh thoảng tôi nằm trên cỏ nhìn mây trôi lững lờ và hình dung ra ở đó đủ loại
hình ảnh. Khung cảnh ấy gắn liền với những câu chuyện về những con cáo với vẻ
ngoài thiếu nữ xinh đẹp, và tôi tưởng tượng rằng một hồ ly tinh đến cùng mình
chăn dắt lũ động vật. Cô gái ấy không đến. Tuy nhiên, có lần một con cáo đỏ lửa
ve vẩy cái đuôi trước mặt tôi, khiến tôi hoảng hốt rụt chân lại. Tôi vẫn ngồi
đó run rẩy khá lâu sau khi con cáo biến mất. Đôi lúc tôi ngồi thụp xuống cạnh
con bò, nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh sâu thẳm của nó, đôi mắt thu gọn bóng
hình của tôi. Vài lần tôi trò chuyện với lũ chim trên trời, bắt chước tiếng kêu
của chúng; vài lần khác tôi tiết lộ với một cái cây những hy vọng và khao khát
của mình. Nhưng lũ chim phớt lờ tôi, và những cái cây cũng vậy. Khi đã là một
tiểu thuyết gia, tôi đưa một số câu chuyện tưởng tượng ấy vào tác phẩm. Mọi
người thường công kích tôi vì tính hư cấu quá nhiều, còn những người yêu văn
học thường đề nghị tôi tiết lộ bí mật trong việc phát triển một sự hư cấu phong
phú. Phản ứng duy nhất của tôi chỉ là một nụ cười cầu hòa.
Lão
Tử, giáo chủ Đạo giáo của chúng tôi đã nói rất hay: "Sự may mắn phụ thuộc
sự không may mắn. Sự không may mắn ẩn sau sự may mắn." Tôi thôi học khi
còn bé, thường bị đói và cô đơn, và không có sách đọc. Nhưng chính vì vậy, cũng
như nhà văn Thẩm Tùng Văn của thế hệ trước, tôi đã sớm đọc cuốn sách tuyệt diệu
về cuộc sống. Trải nghiệm của tôi, khi đến chợ lắng nghe người kể chuyện, là
một trang trong cuốn sách đó.
Sau
khi thôi học, tôi bị quẳng vào thế giới của những người trưởng thành, nơi tôi
bắt đầu cuộc hành trình học qua nghe. Hai trăm năm trước đây, Bồ Tùng Linh -
một trong những người kể chuyện lớn nhất mọi thời đại - đã sống gần nơi tôi lớn
lên, nơi mà nhiều người - trong đó có tôi - tiếp nối cái truyền thống mà ông ấy
đã tạo dựng. Dù ở bất cứ đâu - làm việc trên đồng với tập thể, trong đội sản
xuất ở chuồng bò hay chuồng ngựa, trên chiếc giường có hệ thống sưởi của ông
bà, cả trên chiếc xe bò xóc qua xóc lại - thì tai tôi vẫn đầy những chuyện tình
siêu nhiên, mang màu sắc lịch sử hay những câu chuyện kỳ lạ và lôi cuốn, tất cả
đều liên quan mật thiết với môi trường tự nhiên và lịch sử các bộ lạc, và tất
cả đã đem đến một hiện thực sinh động trong tâm trí tôi.
Ngay
cả trong những giấc mơ hoang dại nhất tôi cũng không thể mường tượng rằng sẽ có
ngày những thứ ấy trở thành chất liệu cho tiểu thuyết của chính mình, vì tôi
chỉ là một đứa bé thích những câu chuyện, là người ấn tượng với những câu
chuyện mà mọi người quanh mình đang kể. Không nghi ngờ gì nữa, lúc đó tôi tin
vào thần thánh, tin rằng mọi sinh vật đều có linh hồn. Tôi dừng lại và chú ý
một cây đại thụ, nếu tôi thấy một chú chim, thì tôi tin chắc nó có thể trở
thành người nếu nó muốn; và tôi tin rằng mỗi người lạ mà tôi gặp đều là một con
vật vừa biến hóa sang. Ban đêm, những nỗi sợ hãi kinh khủng cứ theo tôi trên
đường về nhà sau khi đã tính xong điểm chấm công, vì thế tôi vừa chạy vừa hát
to hết cỡ để lấy bình tĩnh. Cái giọng đang vỡ ra của tôi lúc đó ca lên những
bài hát to và ồm ồm làm chói tai bất cứ người dân làng nào nghe thấy chúng.
Tôi
đã sống hai mươi mốt năm ở làng, không bao giờ đi xa quá Thanh Đảo, bằng xe
lửa, nơi mà tôi gần như mất hút giữa những đống gỗ khổng lồ ở một xưởng gỗ. Khi
mẹ hỏi tôi về những gì tôi thấy ở Thanh Đảo, tôi buồn rầu kể rằng tôi nhìn thấy
những đống gỗ. Nhưng chuyến đi tới Thanh Đảo đó đã gieo vào tôi một khao khát
mãnh liệt rằng phải rời khỏi làng và quan sát thế giới.
Tháng
Một năm 1976 tôi nhập ngũ và tới huyện Cao Mật vùng Đông-Bắc mà tôi vừa yêu vừa
ghét, bắt đầu một giai đoạn quan trọng trong đời, mang theo trong ba-lô bốn
cuốn "Đại cương lịch sử Trung Quốc" mà mẹ vừa mua bằng tiền bán đồ
trang sức đám cưới của mình. Vậy là tôi bắt đầu thời kỳ quan trọng nhất của
cuộc đời. Tôi phải thừa nhận rằng nếu không có khoảng ba mươi năm phát triển kỳ
diệu của xã hội Trung Quốc, và của công cuộc cải cách cũng như mở cửa sau đó,
thì tôi không trở thành một tác giả như bây giờ.
Giữa
quãng đời quân nhân tẻ ngắt, tôi đón chào cuộc cách mạng về tư tưởng và sự nồng
nhiệt với văn học trong những năm 1980, và từ một cậu bé lắng nghe rồi kể lại
những câu chuyện, tôi dần trở thành một người viết truyện. Con đường ấy lúc đầu
đầy sỏi đá, lúc tôi còn chưa biết vốn liếng văn học mà mình có được từ hai mươi
năm sống ở làng là đáng giá nhường nào. Tôi nghĩ rằng văn học là viết về những
người tốt làm những việc tốt, là những câu chuyện về những hành động anh hùng
và những công dân mẫu mực, cho nên một vài mẩu chuyện đã được xuất bản của tôi
cũng có một chút giá trị văn học.
Cuối
năm 1984 tôi được nhận vào khoa Văn học của Viện nghệ thuật Giải phóng quân
nhân dân Trung Quốc, nơi mà dưới sự chỉ dẫn của người thầy đáng kính, tác giả
nổi tiếng Xu Huaizhong, tôi đã viết một loạt truyện và tiểu thuyết, gồm:
"Những dòng chảy mùa Thu", "Sông cạn", "Củ cà-rốt
trong suốt", "Cao lương đỏ". Huyện Cao Mật vùng Đông-Bắc lần đầu
tiên xuất hiện trong "Những dòng chảy mùa Thu", và từ đó, như một
người nông dân lang thang tìm ra mảnh đất riêng cho mình, kẻ lang thang trong
văn học này cũng tìm được một vùng mà anh ta có thể coi là thuộc về mình. Tôi
phải nói rằng trong quá trình hình thành vùng văn học của mình, huyện Cao Mật
vùng Đông-Bắc, tôi bị ảnh hưởng bởi tiểu thuyết gia người Mỹ William
Faulkner và tiểu thuyết gia người Colombia Gabriel
García Márquez. Tôi chưa đọc nhiều của họ, nhưng bị lôi cuốn bởi cái
cách thức táo bạo và tự do của họ khi gây dựng lãnh địa viết mới, và tôi học
được từ họ cái điều rằng mỗi tác giả phải có lãnh địa riêng. Sự khiêm tốn và
nhún nhường là lý tưởng cho đời sống thường nhật của một người, nhưng trong
sáng tác văn học thì sự tự tin tối đa và sự cần thiết tuân theo bản năng lại là
điều cốt lõi. Tôi đã theo bước hai bậc thầy này trong hai năm, trước khi thấy
rằng mình cần thoát khỏi ảnh hưởng của họ. Đây là cách mà tôi đã làm rõ quyết
định đó trong một bài viết: Họ là hai chiếc lò rực lửa, còn tôi là một khối
băng. Nếu tôi quá sát họ thì tôi sẽ bị hóa hơi. Theo tôi, một tác giả này ảnh
hưởng tới một tác giả khác khi cả hai có sự tương đồng sâu sắc về tinh thần,
hay thứ mà người ta gọi là "những trái tim đập cùng một nhịp". Do đó,
dù tôi đọc không nhiều của họ nhưng chỉ một vài trang cũng đã đủ để tôi hiểu họ
đang làm gì và làm như thế nào, từ đó tôi biết tôi nên làm gì và nên làm như
thế nào.
Những
gì tôi nên làm thì thật đơn giản: viết những câu chuyện của chính tôi theo cách
của chính tôi. Cách của tôi là cách của người kể chuyện ở chợ, cùng với cái
cách mà tôi đã thân thuộc, là cách kể chuyện của ông bà tôi và của những cụ già
khác trong làng. Chân thành mà nói, tôi không bao giờ tuyên truyền tư tưởng cho
thính giả khi kể những câu chuyện của tôi; có lẽ thính giả của tôi là những
người giống mẹ tôi, và có lẽ chỉ là tôi thôi. Những câu chuyện đầu tay là những
trải nghiệm cá nhân của tôi: cậu bé bị ăn đòn trong "Sông cạn", hay
cậu bé không bao giờ nói trong "Củ cà-rốt trong suốt". Thực tế là tôi
đã làm gì đó sai nên bị cha phạt roi, tôi cũng đã thổi hơi vào lò cho một thợ
rèn ở một cây cầu. Tất nhiên, không thể chuyển hóa trải nghiệm cá nhân đúng như
thực tế vào truyện hư cấu, không thể trùng khớp được. Truyện hư cấu phải có
tính hư cấu, phải có tính tưởng tượng. Đối với nhiều người bạn của tôi,
"Củ cà-rốt trong suốt" là truyện xuất sắc nhất của tôi, còn tôi thì
chẳng có ý kiến gì cả. Những gì tôi có thể nói là, "Củ cà-rốt trong
suốt" có tính biểu tượng và ý nghĩa sâu sắc hơn mọi truyện mà tôi đã viết.
Cậu bé ngăm đen trong đó, với khả năng chịu đựng và tính nhạy cảm của một siêu
nhân, là tiêu biểu cho linh hồn trong mọi sản phẩm hư cấu của tôi. Không một
nhân vật hư cấu nào của tôi kể từ sau nhân vật ấy lại sát với cái linh hồn của
tôi đến vậy. Nói một cách khác, trong tất cả các nhân vật mà tác giả tạo ra,
luôn chỉ có một nhân vật tiêu biểu hơn mọi nhân vật còn lại. Với tôi, cậu bé
rất kiệm lời ấy chính là một nhân vật tiêu biểu như vậy. Dù cậu ấy chẳng nói
gì, nhưng cậu ấy lại mở lối để mọi nhân vật khác, trong sự đa dạng của họ, tự
do diễn xuất trên sân khấu của huyện Cao Mật vùng Đông-Bắc.
Trải
nghiệm của một người là có hạn, và nếu đã dốc cạn những câu chuyện của bạn rồi,
thì bạn phải kể những câu chuyện của người khác. Và vì vậy, bất chấp cái bề dày
ký ức thì, như những người lính bị gọi nhập ngũ, những câu chuyện toàn màu hồng
- của các thành viên trong gia đình, của những người dân làng cùng cảnh ngộ, và
của tổ tiên xa xưa - đều được tôi học từ miệng của các cụ già. Họ mong mỏi chờ
đợi tôi kể những câu chuyện của họ. Ông bà, cha mẹ, anh chị, cô chú, vợ và con
gái tôi đều xuất hiện trong những câu chuyện của tôi. Ngay cả những cư dân xa
lạ của huyện Cao Mật vùng Đông-Bắc cũng xuất hiện với tư cách khách mời đặc
biệt. Tất nhiên phải có sự điều chỉnh về mặt văn học để biến họ thành những hư
cấu thoát tục.
Một
người cô của tôi là nhân vật chính trong "Những con ếch" - tiểu
thuyết mới nhất của tôi. Thông báo về giải Nobel này khiến những phóng viên lũ
lượt tới nhà cô để đề nghị phỏng vấn. Lúc đầu cô kiên nhẫn đáp ứng, nhưng đã
sớm phải trốn tránh sự chú ý của họ bằng cách chạy tới nhà con trai mình ở
trung tâm tỉnh. Tôi không phủ nhận rằng cô là hình mẫu để tôi viết "Những
con ếch", song có nhiều khác biệt giữa cô ấy và người cô hư cấu. Người cô
hư cấu thì kiêu căng và độc đoán, có thể nói là thô bạo, trong khi người cô
hiện thực thì tốt bụng và lịch sự, là người vợ hiền cổ điển và là người mẹ đáng
yêu. Những năm tháng quý như vàng của người cô hiện thực tràn đầy niềm vui và
đáng để hài lòng. Người cô hư cấu thì bị mất ngủ trong những năm cuối đời, do
những thương tổn tinh thần, mặc áo choàng đen và đi bộ trong đêm như một bóng
ma. Tôi biết ơn người cô hiện thực vì không trách tôi trong việc biến đổi cô
khi đưa vào tiểu thuyết. Tôi đặc biệt nể trọng sự hiểu biết của cô về mối quan
hệ phức tạp giữa các nhân vật hư cấu với những con người hiện thực.
Sau
cái chết của mẹ, trong nỗi đau mất mát, tôi đã quyết định viết một tiểu thuyết
tặng mẹ. Chính là "Ngực lớn và hông rộng" ("Báu vật của
đời"). Khi kế hoạch đã định hình, tôi cháy trong cảm xúc ấy đến mức hoàn
thành một bản thảo gồm nửa triệu từ trong chỉ tám mươi ba ngày.
Trong
"Ngực lớn và hông rộng", tôi không ngần ngại kết hợp chất liệu phụ
với trải nghiệm thực tế của mẹ, nhưng trạng thái cảm xúc của mẹ thì được hư cấu
đến mức hoàn toàn giả tạo hoặc chỉ là sự pha trộn của nhiều người mẹ ở huyện
Cao Mật vùng Đông-Bắc. Dù viết "gửi tới linh hồn mẹ tôi" ở trang đề
tặng, nhưng cuốn tiểu thuyết ấy thực sự dành cho tất cả những người mẹ ở khắp
nơi, có lẽ, minh chứng cho tham vọng đầy tự phụ của tôi là, bằng nhiều cách
khác nhau, tôi hy vọng huyện Cao Mật vùng Đông-Bắc là hình ảnh thu nhỏ của
Trung Quốc, thậm chí của toàn thế giới.
Qúa
trình sáng tác của mỗi tác giả là không lẫn với ai. Mỗi tiểu thuyết của tôi đều
khác với phần còn lại về cốt truyện và ý tưởng chủ đạo. Một số tiểu thuyết,
chẳng hạn "Củ cà-rốt trong suốt" xuất phát từ giấc mơ, trong khi một
số khác, chẳng hạn "Cây tỏi nổi giận" lại bắt đầu từ những sự việc có
thật. Dù khởi nguồn của tác phẩm là giấc mơ hay là đời sống hiện thực, thì chỉ
khi kết hợp với những trải nghiệm cá nhân, tác phẩm mới có được cá tính, mới
nổi tiếng với những nhân vật đặc biệt - được xây dựng bằng những tình tiết sống
động, sử dụng ngôn ngữ đầy tính suy tưởng, và tỏ ra là một cấu trúc được chế
tác tốt. Ở đây tôi phải nhấn mạnh rằng trong "Cây tỏi nổi giận", tôi
đưa một người kể chuyện, ca sĩ có thực vào một trong những vai quan trọng nhất.
Tôi ước rằng mình đã không sử dụng tên thật của anh ấy, dù đã trau chuốt những
lời nói và hành vi của anh ấy. Đây là chuyện thường xuyên xảy ra với tôi. Ban
đầu tôi sử dụng tên thật của nhân vật để có một cảm giác thân thuộc, và sau khi
hoàn thành công việc thì có vẻ như đã quá muộn để thay đổi những cái tên đó.
Điều này khiến cho những người bắt gặp tên của họ trong tiểu thuyết của tôi đã
tìm cha tôi để trút giận. Cha luôn xin lỗi thay tôi, nhưng sau đó cha kêu gọi họ
không nghiêm trọng hóa vấn đề. Cha nói: "Câu đầu tiên trong "Cao
lương đỏ", 'Cha tôi, con của thổ phỉ', chẳng làm tôi buồn, vậy tại sao mọi
người lại không vui?".
Thách
thức lớn nhất của tôi khi viết tiểu thuyết là làm việc với những vấn đề xã hội,
chẳng hạn trong "Cây tỏi nổi giận", không phải vì tôi sợ việc phê
phán nhiều mặt tối của xã hội, mà vì những cảm xúc nóng nảy và sự giận dữ sẽ
đưa đến những hành động chính trị nhằm trấn áp văn học và biến tiểu thuyết
thành báo cáo về vấn đề xã hội. Với tư cách là một thành viên của xã hội, tiểu
thuyết gia có quan điểm và góc nhìn của riêng mình; nhưng khi viết thì họ phải
lấy quan điểm nhân văn và chịu sự dẫn dắt của nó. Được vậy thì văn học mới
không chỉ quan quẩn với các sự kiện mà còn vượt qua chúng, không chỉ liên hệ
với chính trị mà còn vĩ đại hơn chính trị.
Có
thể vì tôi đã sống quá dài trong hoàn cảnh khó khăn, nên tôi nghĩ rằng mình
hiểu biết sâu sắc về cuộc sống. Tôi biết sự tự tin thực sự là gì, và tôi hiểu
lòng trắc ẩn đúng nghĩa. Tôi biết cái miền đất mờ ảo trong trái tim và trong lý
trí của mỗi người, miền đất mà ở đó không thể định rõ đúng hay sai, xấu hay
tốt, và cái lãnh thổ mênh mông này là nơi mà các tác giả thoải mái phô diễn tài
năng. Miễn là làm việc hợp lý và miêu tả rõ ràng cái miền đất mờ ảo và nhiều vẻ
này, thì nhất định sẽ vượt qua chính trị và thu được thành công trong văn học.
Cứ
nói mãi về công việc của tôi thì sẽ rất chán, nhưng cuộc đời và công việc của
tôi lại không thể tách rời nhau được, cho nên nếu không nói về công việc của mình
thì tôi không biết nói gì nữa cả. Hy vọng mọi người sẵn lòng lượng thứ cho tôi.
Tôi
là một người kể chuyện hiện đại, là người bị che mờ bởi cái quá khứ của các tác
phẩm trước đây, nhưng với tiểu thuyết "Đàn hương hình" tôi đã nhảy ra
khỏi cái bóng ấy. Có thể nói các tác phẩm trước đây của tôi là một loạt những
lời độc thoại, không có độc giả; nhưng bắt đầu từ tiểu thuyết này, tôi phác họa
rằng mình đang đứng ở một quảng trường công cộng và say sưa kể câu chuyện của
mình cho đám đông thính giả. Phong cách ấy là phổ biến trong truyện hư cấu,
nhưng đặc biệt phổ biến ở Trung Quốc. Đã có lúc tôi cần mẫn nghiên cứu về
truyện hư cấu hiện đại của phương Tây, và tôi đã thử sức với mọi phong cách kể
chuyện. Nhưng cuối cùng thì tôi trở lại những phong cách cũ của mình. Nhưng
chắc chắn sự trở lại này không thể không có những điều chỉnh. "Đàn hương
hình" và các tiểu thuyết sau đó đều là sự kế thừa phong cách tiểu thuyết
cổ điển của Trung Quốc nhưng được bổ sung các kỹ thuật văn học phương Tây.
Những gì gọi là truyện hư cấu cách tân, hầu hết đều là kết quả của sự pha trộn
này, sự pha trộn không chia cắt những phong cách trong nước với những kỹ thuật
nước ngoài, mà có thể kết hợp truyện hư cấu với những loại hình nghệ thuật
khác. "Đàn hương hình" chẳng hạn, kết hợp truyện hư cấu với nhạc kịch
địa phương, trong khi một số tác phẩm trước đây còn có mỹ thuật, âm nhạc, thậm
chí cả xiếc nữa.
Cuối
cùng, tôi mong các bạn hãy rộng lượng cho tôi nói chuyện về tiểu thuyết
"Sống đọa thác đầy". Cái tên tiếng Trung bắt nguồn từ kinh sách Phật
giáo, và tôi được biết rằng các dịch giả của tôi đang cố chuyển tải nó sang
ngôn ngữ của họ. Tôi không hiểu rõ kinh sách Phật giáo và chỉ có kiến thức hời
hợt về tôn giáo. Tôi chọn cái tên này vì tôi tin rằng những nguyên lý cơ bản
của niềm tin Phật giáo thể hiện tri thức tổng quát, rằng nhiều tranh chấp của
loài người là vô nghĩa trong thế giới Phật giáo. Theo quan điểm cao quý đó về
vạn vật thì thế giới của con người thật đáng thương. Tiểu thuyết của tôi không
phải một luận văn về tôn giáo; trong đó tôi viết về số phận, những cảm xúc,
những hạn chế và sự hào phóng của con người, về cuộc tìm kiếm niềm vui của họ
và những độ dài mà họ sẽ đi, những sự hy sinh mà họ phải trả, để giữ vững những
niềm tin của mình. Theo tôi, Lan Lian - một nhân vật đối đầu với những xu thế
hiện hành - là một anh hùng chân chính. Một nông dân, ở ngôi làng bên cạnh, là
hình mẫu cho nhân vật này. Thời niên thiếu, tôi thường thấy anh ấy đi lướt qua
cửa, đẩy một chiếc xe kẽo kẹt bánh gỗ, trước xe là con lừa què được dắt bởi người
vợ chân bó. Mang tính chất chung của xã hội cũ, tổ lao động lạ lùng này có cái
hình ảnh không ăn nhập với thời đại. Trong con mắt trẻ con của chúng tôi, họ là
những chú hề chống lại các xu thế lịch sử, khiến chúng tôi tức giận tới mức ném
đá họ khi họ đi ngang qua chúng tôi trên phố. Sau này, sau khi tôi bắt đầu
viết, người nông dân ấy và hoạt cảnh của anh ta thâm nhập tâm trí tôi, và tôi
biết rằng một ngày nào đó tôi sẽ viết tiểu thuyết về anh ta, rằng không sớm thì
muộn tôi sẽ kể câu chuyện của anh ta cho cả thế giới. Nhưng tôi đã không thể
thực hiện được điều ấy cho tới năm 2005, khi tôi xem bức tranh tường của Phật
giáo "Sáu đường luân hồi của Samsara" ở một ngôi đền, thì tôi đã biết
chính xác phải làm như thế nào để kể câu chuyện của anh ta.
Giải
Nobel của tôi gây tranh cãi. Lúc đầu tôi nghĩ rằng tôi là đối tượng của những
tranh cãi, nhưng về sau tôi nhận thấy rằng đối tượng thực sự lại là một người
không liên quan đến tôi. Cũng như một người đang xem kịch trong nhà hát, tôi
quan sát những màn biểu diễn quanh mình. Tôi thấy người giành giải thưởng này
vừa được đeo những vòng hoa chúc mừng, vừa bị bao vây bởi những người công kích
và bôi nhọ. Tôi sợ anh ấy sẽ gục ngã trước sự tấn công, nhưng anh ấy đã trụ lại
được giữa những bông hoa và những viên đá, với một nụ cười trên mặt; anh ấy lau
sạch bùn và bụi, bình thản đứng sang một bên và nói với đám đông:
Đối
với một tác giả, viết là cách nói tốt nhất. Các bạn sẽ tìm thấy mọi điều tôi
muốn nói trong các tác phẩm của tôi. Lời nói bị gió cuốn đi, còn những câu chữ
đã được viết ra thì không bao giờ bị xóa bỏ. Tôi mong các bạn hãy kiên nhẫn đọc
các cuốn sách của tôi. Tôi không thể ép buộc các bạn, và ngay cả khi các bạn
làm như vậy thì tôi cũng không trông chờ các bạn thay đổi ý kiến về tôi. Chưa
có tác giả nào, dù ở bất cứ nơi đâu, lại được mọi độc giả của mình yêu thích;
điều đó đặc biệt đúng trong những lúc như thế này.
Dù
tôi muốn im lặng, nhưng trong dịp này tôi phải làm một điều gì đó, xin hãy cho
tôi nói:
Tôi
là một người kể chuyện, do đó tôi muốn kể cho các bạn một vài câu chuyện.
Khi
tôi là một học sinh cấp ba vào những năm 1960, trường tôi tổ chức một buổi
ngoại khóa để công bố những hình ảnh đau đớn và mất mát, ở đó, dưới sự chỉ đạo
của giáo viên, chúng tôi đã khóc thảm thiết. Tôi để nước mắt lăn trên má nhằm
tạo ấn tượng với giáo viên, và xem một số bạn nhổ nước bọt ra tay và xoa nó lên
mặt làm nước mắt giả. Tôi thấy một bạn không ướt mặt, vẫn im lặng và không lấy
tay ôm mặt. Bạn ấy chỉ nhìn chúng tôi, mắt mở to ngạc nhiên và không hiểu
chuyện gì đang xảy ra. Sau buổi ngoại khóa, tôi đã mách với giáo viên và bạn ấy
bị cảnh cáo. Sau này, khi tôi tỏ ra sự hối hận vì việc làm đó, giáo viên bảo
rằng có ít nhất mười bạn khác cũng làm như tôi. Bạn ấy đã qua đời ít nhất là
mười năm rồi, còn lương tâm tôi rất dằn vặt mỗi khi nghĩ về bạn ấy. Nhưng tôi
đã học được một số điều quan trọng từ sự cố này, đó là: Khi mọi người quanh bạn
đều khóc, bạn vẫn có quyền không khóc, và khi những giọt nước mắt chỉ để làm
cảnh, thì không khóc là càng đúng đắn.
Có
một câu chuyện khác: Hơn ba mươi năm trước, khi tôi ở trong quân đội, có một
buổi tối khi tôi đang ngồi đọc sách trong phòng thì một sĩ quan cấp trên mở cửa
bước vào. Ông ấy nhìn lướt xuống và ngồi trước mặt tôi rồi thì thầm: "Này,
mọi người đâu cả rồi?". Tôi đứng lên và nói to: "Ông bảo rằng tôi
không phải một người hay sao?". Hai tai sĩ quan cao cấp đỏ lên vì bối rối,
và ông ấy đi ra. Suốt một thời gian dài sau đó tôi lấy làm tự hào về cái điều
mà tôi coi là một phong thái hiên ngang. Sau này, sự tự hào ấy trở thành sự cắn
rứt của lương tâm.
Xin
vui lòng nghe tôi, chỉ một câu chuyện cuối nữa thôi, câu chuyện mà nhiều năm
trước ông tôi đã kể cho tôi: Một nhóm tám người thợ xây ở ngoại thành đến trú
bão trong một ngôi đền. Sấm ầm ầm bên ngoài, trút những quả cầu lửa xuống chỗ
họ. Họ thậm chí còn nghe thấy cả âm thanh tựa rồng thét. Họ kinh hãi, mặt tái
mét. Một người nói: "Trong chúng ta có một người nào đó hẳn là đã gây tội
khủng khiếp đối với trời. Ai có tội thì tình nguyện bước ra nhận lấy hình phạt
và cứu những người vô tội khỏi sự đau đớn". Tất nhiên chẳng có ai tình
nguyện. Cho nên một trong số bảy người còn lại đề nghị: "Vì không ai muốn
bước ra, nên tất cả chúng ta hãy quăng mũ rơm của mình ra cửa. Mũ của ai bay
qua cửa thì người ấy có tội, và chúng ta sẽ đòi người ấy bước ra và nhận lấy
hình phạt của mình". Thế là họ quăng mũ của mình ra cửa. Bảy cái bị thổi
ngược vào trong, một cái bay ra ngoài. Một người bị buộc bước ra và nhận lấy
hình phạt của anh ta, và khi anh ta không chịu, bảy người còn lại nhấc bổng anh
ta lên và quẳng anh ta ra cửa. Tôi dám cá rằng các bạn đều biết kết cục của câu
chuyện: Ngôi đền sụp xuống liền ngay khi anh ta vừa bị quẳng ra khỏi cửa.
Tôi
là một người kể chuyện.
Kể
chuyện đã giúp tôi có được giải Nobel văn học.
Nhiều
điều thú vị đã xảy đến với tôi sau khi đuợc giải thưởng này, và chúng thuyết
phục tôi rằng sự thật và công lý vẫn tồn tại vững vàng.
Vì
thế trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục kể những câu chuyện của mình.
Cảm
ơn mọi người!
[1] Chân bó (bound feet) là một tập tục để làm đẹp ở địa
phương, cũng như tập tục nhuộm đen răng hay đeo vòng kéo dài cổ ở nơi khác.
Dịch giả gửi cho viet-studies
ngày 11-12-12
No comments:
Post a Comment