Nguyễn-Xuân Nghĩa
Monday,
May 04, 2015 5:12:05 PM
Một
phúc trình “giải ảo” từ Hội Đồng Cố Vấn Kinh Tế của tổng thống Mỹ
Thứ
Sáu Mùng Một vừa qua, Hội Đồng Cố Vấn Kinh Tế (CEA) của tổng thống Hoa Kỳ có một
phúc trình với nội dung đáng chú ý: Vừa hỗ trợ vừa sửa lưng ông Barack Obama về
hồ sơ thương mại. Nhờ đó, may ra nước Mỹ giành lại thế chủ động trong cuộc
tranh đua với Trung Quốc.
Hãy
nói về bối cảnh. Hoa Kỳ hiện đang thương thuyết hai hiệp ước quan trọng về kinh
tế với các quốc gia thuộc hai đại dương tiếp cận với lãnh thổ. Một đàng là Hiệp
Ước Đối Tác Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TPP) với
11 quốc gia trên vành cung Thái Bình Dương từ Tây bán cầu qua Đông Á, là Úc,
Brunei, Canada, Chile, Nhật, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và
Việt Nam. Bên kia là Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Đại Tây Dương Về Thương Mại và Đầu
Tư (Trans-Atlantic Trade and Investment Partnership, T-TIP) với 28 nước của
Liên Hiệp Au Châu bên kia Đại Tây Dương.
Trong
hai hiệp ước, T-TIP có trọng lượng hơn về kinh tế vì bao gồm phân nửa sản lượng
toàn cầu. Nhưng Hoa Kỳ vốn có sẵn quan hệ thương mại và đầu tư khá tự do với
nhiều nước trong khối nên việc thương thuyết chỉ đẩy mạnh thêm việc hợp tác cho
toàn diện. Ngược lại, TPP lại quan trọng cao hơn về chính trị vì quy tụ các nước
có sản lượng kinh tế là 37% sản lượng toàn cầu nhưng có Nhật Bản mà không có
Trung Quốc.
Muốn
hoàn thành, Hoa Kỳ cần đạo luật tái tục mỗi năm năm cho phép Hành Pháp Thương
Thuyết theo thủ tục nhanh gọn (gọi là “fast track” trong đạo luật Trade
Promotion Authority, TPA). Đạo luật bị Đảng Dân Chủ gạt qua một bên từ năm
2012. Tháng trước, nhờ sự đề xướng của phe Cộng Hòa và sự hưởng ứng của vài dân
biểu nghị sĩ Dân Chủ, hai ủy ban hữu trách tại Thượng và Hạ viện vừa đệ nạp lại
một dự luật TPA mới để xin hai viện thông qua.
Trở
ngại xảy ra là sự chống đối từ Đảng Dân Chủ và các thế lực xã hội và chính trị
xưa nay vẫn hỗ trợ Đảng Dân Chủ và có khuynh hướng chống tự do thương mại (tự
do mậu dịch và đầu tư).
Khi
còn ra tranh cử tổng thống, Obama cũng thuộc khuynh hướng ấy và đòi rà soát để
điều chỉnh một hiệp ước tương tự là Tự Do Thương Mại Bắc Mỹ (NAFTA), được Tổng
Thống Bill Clinton ban hành từ năm 1994 với nhiều lá phiếu Cộng Hòa hơn Dân Chủ.
Năm 2008, Tổng Thống George W. Bush ủng hộ sáng kiến của bốn nước sáng lập mạng
lưới đối tác ban đầu của hệ thống TPP, nhưng khi nhậm chức vào đầu năm 2009, Tổng
Thống Obama ngần ngại mất gần một năm, đình hoãn kỳ họp đầu năm đó, trước khi ủng
hộ. Sau 20 kỳ họp giữa các nước, hiệp ước TPP có hy vọng hoàn thành năm nay, nếu
đa số trong Quốc Hội Mỹ biểu quyết đạo luật TPA. Đó là bối cảnh chính trị.
Trong
tình hình hiện tại, điều khó là tranh thủ được 218 phiếu tại Hạ Viện, nơi mà
phe Cộng Hòa có 244 ghế và Dân Chủ có 188 ghế, đa số là chống TPP. Cả hai phe
chống (chủ yếu là Dân Chủ) và thuận (chủ yếu Cộng Hòa và ông Obama) đang tranh
luận và thuyết phục lẫn nhau.
Giữa
bối cảnh ấy, phúc trình hơn 50 trang của Hội Đồng Cố Vấn Kinh Tế CEA, gồm các
kinh tế gia được tổng thống chọn lựa để cho ý kiến về chánh sách kinh tế có lợi
nhất, mới có tầm quan trọng.
***
Bản
phúc trình khá chuyên môn này kiểm điểm lại kết quả hợp tác và hội nhập kinh tế
từ nhiều thập niên để đưa ra lập luận ủng hộ nguyên tắc tự do và bác bỏ lý luận
của phe chống, kể cả vài lý luận quen thuộc của ông Obama khi chưa ráo riết ủng
hộ TPP. Chuyện ấy khiến ta tự hỏi, vì sao các chính khách Dân Chủ như Clinton
hay Obama lại hưởng ứng việc hội nhập kinh tế mà nhiều người trong đảng lại chống?
Phải chăng vì ở vào vai trò lãnh đạo Hành Pháp, họ phải lấy quyết định vì quyền
lợi quốc gia hơn là vì lý do cục bộ?
Về
nội dung, các kết luận của hội đồng CEA gồm có mươi điểm sau đây.
Hoa
Kỳ chỉ có 5% dân số toàn cầu và giao dịch với 95% còn lại, nơi mà hàng rào quan
thuế và các hạn chế ngoài thuế suất trung bình hiện nay là 6,8%, vẫn là sự cản
trở. Nếu giải tỏa được trở ngại ấy, Hoa Kỳ sẽ có lợi. Huống hồ là trong cùng
ngành sản xuất, doanh nghiệp nào của Mỹ mà hướng về xuất cảng (cho 95% dân số
kia) thì hưởng lợi tức cao hơn. Với thành phần trung lưu, đối tượng ông Obama
muốn nâng đỡ, việc được mua hàng nhập cảng rẻ hơn cũng là mối lợi, nhờ đó dư lợi
tức để tiêu vào việc khác. Đấy là ba lợi thế khá căn bản và dễ hiểu, nếu người
ta muốn hiểu.
Đi
vào chi tiết kỹ thuật hơn với khá nhiều số liệu, khi mở cửa cạnh tranh - như
mua vật liệu và bán thành phẩm cho xứ khác, năng suất của doanh nghiệp và sản
lượng kinh tế cũng tăng: Xứ nào cũng khai thác ưu thế tương đối của mình để sản
xuất ra mặt hàng có lợi nhất. Tự do thương mại cũng nâng tiêu chuẩn lao động và
lợi tức của xứ khác, cho nên họ sẽ mua thêm hàng của Mỹ.
Và
ngược với lý luận của trào lưu chống toàn cầu hóa hay bảo vệ môi sinh, tự do
thương mại không gây thêm ô nhiễm mà còn cải tiến dị biệt lợi tức nam/nữ (phụ nữ
có lương cao hơn), giải trừ nạn kỳ thị thiểu số, kỳ thị di dân và nâng tiêu chuẩn
về nhân quyền. Đây là phát giác ly kỳ nhất của hội đồng CEA, vì thiên về xã hội
và chính trị.
Sau
cùng, Mỹ có tiềm lực cao về canh nông và dịch vụ. Nếu mở rộng việc hợp tác với
các nước thì sẽ khai thác được tiềm năng đáng kể, cụ thể là tăng sản lượng kinh
tế nhờ xuất cảng nông sản và có thể thu về 800 tỷ nhờ xuất cảng dịch vụ.
Chi
tiết lý thú hơn cả là hội đồng CEA bác bỏ lý luận của cánh tả, rằng các hiệp định
thương mại tự do thường làm doanh nghiệp Mỹ đầu tư ra ngoài để kiếm lợi nhờ
nhân công rẻ, làm công nhân Mỹ mất việc. Đây là lập luận sai lầm của những người
đã chống hiệp định NAFTA, kể cả Obama. Hiện tượng “mất việc ra ngoài” vì quyết
định “outsourcing” của doanh nghiệp Mỹ không xảy ra.
Ngược
lại, và ta trở về hồ sơ Trung Quốc, chính là các hiệp định tự do mậu dịch do Bắc
Kinh ký kết với các nước mới gây vấn đề cho Hoa Kỳ.
Các
hiệp định ấy cho xứ khác lợi thế gia nhập thị trường Trung Quốc với tiêu chuẩn
thấp hơn về lao động và môi sinh nên sẽ thu hút doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào các
xứ đó để kiếm lời. Các hiệp định tự do thương mại của Hoa Kỳ đặt tiêu chuẩn cao
hơn nên cải thiện môi trường kinh doanh sản xuất trên toàn cầu, giúp doanh nghiệp
Mỹ bán hàng qua nhiều hơn qua xứ khác mà khỏi cần đầu tư trực tiếp ra ngoài. Tức
là không làm công nhân Mỹ bị mất việc.
Diễn
lại theo bạch văn thì trò làm ăn theo kiểu Trung Quốc mới là vấn đề cho nước Mỹ
và cho thế giới.
***
Vì
kinh tế cũng là chính trị, những khúc mắc chuyên môn về kinh tế thường lọt khỏi
tầm nhìn của quần chúng, và để các chính khách bẻ queo sự thật cho mục tiêu
chính trị của họ.
Hội
Đồng Cố Vấn Kinh Tế của ông Obama không là chuyên gia kinh tế thuộc cánh hữu, bảo
thủ và ác ôn, cố duy trì những lý luận phản động. Nói rộng hơn, giới kinh tế gia
có thể có khác biệt về lý luận nhưng vẫn dựa trên cơ sở khách quan về khoa học
nên sự dị biệt ấy không khiến họ coi nhau là kẻ thù và gán cho người kia nhiều
ý đồ mờ ám. Giới chính trị - nhất là các nghiệp đoàn Mỹ - không bị ràng buộc
vào thực tế như vậy nên tha hồ tung ra lập luận mị dân để lừa phỉnh quần chúng
ngây dại của mình.
Và
tạo điều kiện cho Bắc Kinh lừa phỉnh thiên hạ.
No comments:
Post a Comment