Sunday, 2 December 2012

VIỆT NAM PHẢI LÀM GÌ ? (Trương Nhân Tuấn)




Dec 2, 2012 3:42 AM

Trước những hành động gây hấn ngày càng xấc xược của TQ tại biển Đông, với những áp lực về kinh tế, chính trị, ngoại giao và thậm chí quân sự… càng ngày càng đè mạnh, nhà cầm quyền VN không có phương cách nào khác ngoài việc nhẫn nhịn nuốt nhục chờ giông bão lướt qua. Nhưng vấn đề bây giờ giông bão không lướt qua mà sẽ hiện diện thường trực, với cường độ ngày càng mạnh bạo hơn. Phía TQ đã biểu lộ rõ rệt quyết tâm muốn chiếm trọn biển Đông, cùng các đảo TS, bằng đủ mọi phương cách.

VN cần phải có một phương án thích hợp để bảo vệ lãnh thổ. Nhưng VN sẽ làm được những gì trong lúc này, trong khi về mọi mặt xem chừng như đèn dầu leo lét trước gió.

Về kinh tế, theo những bình luận khả tín của các chuyên gia kinh tế gần đây, kinh tế VN không chóng thì chầy sẽ phải sụp đổ. Nợ nần ở các ngân hàng, các công ty nhà nước đã chất chồng thành núi nợ. Tin tức từ trong nước cho hay, hầu hết các hãng xưởng, công ty các loại của VN dường như đang trong tình trạng ngưng hoạt động. Văn phòng vẫn mở cửa mà nhân viên không có việc gì để làm. Để duy trì bề mặt sinh hoạt, các công ty, hãng xưởng đã vay ngân hàng, vừa để trả tiền lời ngân hàng, vừa trang trải chi phí điều hành. Kinh tế VN đang trong tình trạng chết lâm sàng, chết nhưng chưa chôn. Núi nợ ngày càng lớn, sức đè của nó ngày càng mạnh. Hậu quả sẽ nhấn chìm VN trong suy thoái dài hạn.

Về chính trị, sự việc Tổng Thống B. Obama đã không thăm viếng VN, theo như lịch trình mà Ngoại trưởng H. Clinton đã vạch ra từ nhiệm kỳ 1, cho thấy VN đã vi phạm nhân quyền ở mức độ rộng lớn. Một bài báo nước ngoài vừa bình luận rằng VN và Miến Điện đi ngược chiều nhau về nhân quyền. TT Obama đã thăm viếng Miến Điện, một nước mà cách đây hơn một năm, lãnh đạo VN đã sang đây cổ võ cho nước này từ bỏ con đường độc tài quân phiệt. Trong hai nhiệm kỳ làm thủ tướng của NTD, các vụ bắt bớ vì tội “đe dọa an ninh quốc gia” đột ngột tăng cao. Nếu xét lại từ vụ án một, ta sẽ thấy những người bị kết án đơn thuần chỉ phát biểu ý kiến của họ, cách này hay cách khác, không có vụ án nào bị can có vũ khí để “đe dọa an ninh quốc gia”. Thực chất các vụ án là tạo một không gian chính trị căng thẳng để che giấu những thất bại do bất tài của lãnh đạo trong các chính sách về kinh tế, xã hội… Nhưng nguyên nhân việc TT Obama không thăm viếng VN không hoàn toàn do tình trạng tệ hại về nhân quyền, mà còn do nạn tham nhũng ở các cấp lãnh đạo VN. Qua kỳ họp TU vừa qua, những đấu đá nội bộ đã tung ra hàng loạt hồ sơ tham nhũng của cán bộ lãnh đạo, đứng đầu là NTD. TT Obama không thăm viếng VN vì không thể bắt tay với lãnh đạo VN, những người đại diện cho dân tộc VN, thực tế là những tên tội phạm.

Về ngoại giao, thái độ của Kampuchia trong các hội nghị ASEAN trong năm qua, cho thấy nước này đã tách khỏi quĩ đạo của VN để đi vào quĩ đạo của TQ. Kể cả nước Lào. Hiện nay Lào đang cho xây dựng nhiều con đập trên sông Cửu Long vởi chủ đầu tư là TQ hay Thái Lan, hệ quả của việc này sẽ đe dọa lẽ sống của hàng chục triệu người dân VN đang sinh sống tại hạ nguồn. Hai nước Kampuchia và Lào đã từng là vệ tinh của VN trong hàng vài thập niên. TT Hunsen là “người” của VN đưa lên. Điều này cho thấy sự phá sản của ngành ngoại giao VN. Mối liên hệ “chính trị” giữa các đảng cộng sản của các nước VN, Lào, Kampuchia không còn là hấp lực để VN giữ hai nước này trong vòng ảnh hưởng của mình. Hấp lực hiện nay là “kinh tế”. VN không có 50 triệu đô la để biếu cho Kampuchia, như TQ đã biếu, dĩ nhiên nước này “đâm sau lưng VN để đi vào quĩ đạo TQ. (Hiện nay có “tuyên bố phản đối TQ” của các trí thức VN về vấn đề đường 9 đoạn chữ U in trên hộ chiếu của TQ, trong đó có phần yêu cầu TQ “từ bỏ mọi âm mưu bẻ từng chiếc đũa trong bó đũa” chia rẽ các nước ASEAN. Điểm tuyên bố này không thực tế, nếu không nói là phi lý. Khối ASEAN chưa từng đoàn kết để gọi là “bó đũa”. Vả lại, trong bang giao quốc tế chỉ hiện hữu về quyền lợi, thể hiện qua kinh tế, chính trị hay chiến lược. Xương máu của VN đổ ra đánh đuổi bọn diệt chủng Pol Pot cho dân Kampuchia để được dân tộc này hôm nay trả ơn như vậy là điều không thể chấp nhận. Nhưng “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Nên trách ngoại giao VN bất tài hơn là trách TQ “bẻ đũa”.)

Về quân sự, VN sẽ làm được gì với khả năng quân sự của TQ, về mọi mặt không quân, hải quân ngày càng tối tân, mạnh bạo ? Những chiếc tàu ngầm của VN mua của Nga đến nay vẫn chưa giao. Nguyên nhân do VN không có tiền để trả, tàu đóng chưa xong, hay do áp lực của TQ khiến Nga chần chờ giao tàu ? Hiện nay nghe tin Nhật sẽ bán tàu ngầm cho VN. Đây là tin vui nhưng chừng nào thì có tàu ? VN có bao nhiêu giàn hỏa tiễn Bastion để phòng thủ hiệu quả bờ biển dài 3.000 km ? Và phòng thủ trong bao lâu ? Sẽ không ngạc nhiên khi nghe ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Quốc phòng, luôn miệng “tụng niệm” câu thần chú “biết ơn đảng và nhân dân TQ… VN nguyện hợp tác chiến lược toàn diện với TQ…” để TQ không nổi điên “làm bậy”.

VN phải có phương án nào để tránh sụp đổ ?
Không có phương án nào xem chừng là điều tốt nhứt. Chế độ độc tài toàn trị CSVN sụp đổ là điều tốt nhứt để dẹp bỏ những bất công, thối nát, tham nhũng, bất tài… trong tập thể lãnh đạo. Có vậy VN mới có thể chấn hưng lại mọi mặt về kinh tế, giáo dục, xã hội…

Nhưng một sự sụp đổ như thế có thể đưa VN vào hỗn loạn, hay khủng hoảng lãnh đạo lâu dài, có nguy cơ mất trắng biển Đông cho TQ.

Phương án là phương án giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ, hải phận của đất nước Việt Nam. Phương án đã có, người viết đã từng đưa ra. Vấn đề là CSVN không thực hiện, vì họ chủ trương thà mất nước chứ không để mất đảng.

Ai cũng thấy đòi hỏi của TQ về biển như trình bày trong tấm bản đồ chín đoạn chữ U là phi lý, vì nó không dựa trên một nguyên tắc luật học nào. Nhưng đòi hỏi chủ quyền của TQ ở các đảo HS và TS là có căn cứ. Thái độ của VNDCCH trong một thời gian dài, từ 1949 cho đến năm 1975, đã minh thị hay ám thị, nhìn nhận chủ quyền của TQ.

Trong cùng quảng thời gian đó, VNCH là phía chính thống, theo công pháp quốc tế, có chủ quyền tại HS và TS. Vấn đề sẽ là nhà nước CHXHCVN phải « kế thừa » danh nghĩa của VNCH tại HS và TS. Nhưng việc kế thừa không hề là một việc tự động mà nó là một vấn đề pháp lý, với một trình tự pháp lý phù hợp. Trong bài « Vì sao VN không kiện TQ ra một trọng tài quốc tế ? », tác giả có viết :
Phía CS miền Bắc gọi VNCH là « ngụy », tức là giả, không phải là một thực thể chính trị. Người ta không thể kế thừa ở một cái gì đó không thật (ngụy). Vả lại, nếu có tư cách « thừa kế », thì theo bộ luật về « kế thừa » của VN hiện nay, nhà nước CHXHCNVN có thể bị truất quyền « kế thừa » theo điều 643, khoản a và b.
Ta thấy khi cộng sản miền Bắc chiếm được miền Nam, một chính sách trừng phạt dân miền Nam đã được áp dụng liên tục trong nhiều thập niên. Văn hóa miền Nam bị xem là « văn hóa đồi trụy », đã bị xóa bỏ. Hầu hết nhân sự có liên quan, xa hay gần, đến chính quyền VNCH đều bị trừng phạt như bắt đi tù, bị truất hữu tài sản, nhà cửa, cả gia đình bị đuổi đi kinh tế mới. Lính miền Nam bị khinh miệt gọi là « lính ngụy », chính quyền miền Nam là « ngụy quyền », thậm chí dân miền Nam bị khinh bỉ gọi là « ngụy dân ». Đến hôm nay, người dân miền Nam vẫn còn bị trừng phạt. Trên bình diện đầu tư, miền Nam đóng góp trên ¾ của cải cho cả nước, nhưng về hạ tầng cơ sở miền Nam không được đầu tư như miền Bắc. Thậm chí, trong vấn đề giáo dục, miền Nam chỉ được đầu tư một phần tỉ lệ rất nhỏ so với miền Bắc.
Nhà cầm quyền CSVN, liên tục từ nhiều thập niên, đã « ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm » của người miền Nam. Tư cách gì nhà cầm quyền CSVN lên tiếng đòi « kế thừa » di sản VNCH ngày hôm nay ?

Vì vậy, « phương án » là phương án hòa giải dân tộc và kế thừa di sản VNCH. Trong bài « Công hàm 1958 : Hành động chính trị trong bối cảnh hay hành động tự nguyện với sự cam kết kế thừa ? » tác giả có viết :
VN hiện nay đã thông qua Luật Biển 2012, theo đó khẳng định HS và TS thuộc VN. Điều này không mâu thuẩn với lịch sử nhưng mâu thuẩn với thái độ trước đây của nhà nước VNDCCH. Để tránh việc này, nhà nước CHXHCNVN cần phải « hóa giải » hiệu lực công hàm 1958, qua việc kế thừa danh nghĩa của VNCH. Trong các « bạch thư » về chủ quyền của VN tại HS và TS, nhà nước CHXHCNVN chỉ đưa ra các bằng chứng bảo vệ chủ quyền, qua các thời kỳ nhà nước phong kiến, nhà nước bảo hộ Pháp, Đế quốc VN và nhà nước VNCH. Không thấy dòng nào nói về công lao của VNDCCH, ngoài các hành vi tương ứng với việc từ bỏ chủ quyền của nhà nước này. Kế thừa danh nghĩa VNCH để có chính danh, vì danh có chính thì ngôn mới thuận.

Nếu không « kế thừa » danh nghĩa của VNCH tại HS và TS, CHXHCNVN  không có chính danh để phản biện đòi hỏi của TQ, trước các học giả quốc tế cũng như trên quan điểm quốc tế công pháp.

Nhiều học giả VN nói rằng : « CHXHCNVN là người chính thức kế thừa VNCH » nhưng không chứng minh việc « kế thừa » này đã thể hiện như thế nào ? Tác giả đã viết trong bài viết « Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa : Thử bàn về tính liên tục và sự kế thừa giữa các « quốc gia » Việt Nam sau năm 1945. » cho thấy việc kế thừa chưa được thực hiện.  

Phương án giữ nước đã được viết rõ ràng trong bài viết “Về giải thưởng « hòa giải và yêu thuơng » Trần Nhân Tông” tại đây :
hàng năm kiều dân Việt gởi về nước khoảng 7 tỉ đô la. Với số tiền này VN mua khí giới gì lại không được ? Đợt mua vũ khí nhiều nhứt của Đài Loan chỉ mới có 4 tỉ đô la. Vấn đề là VN muốn mua mà HK không bán !
« Lobby » của dân Việt tại HK hiện nay cũng đã lớn mạnh, không kém « lobby » Hoa kiều năm 1979. Nếu vận dụng tận lực, rất có thể VN sẽ được hưởng một luật, tương tự luật « Taiwan Relations Act ». VN có thể được mua vũ khí của HK để tự vệ. Điều này bảo đảm an ninh cho VN trước mọi âm mưu bành trướng của TQ. 

Việc bảo vệ đất nước sẽ dễ dàng hơn, nếu có một phương án hữu hiệu và thực tế trong việc sử dụng khối kiều hối. Trong bài đã dẫn, có viết :
CSVN đã sai lầm nhiều lần trong quá khứ. Năm 1975, cơ hội bằng vàng để hòa nhập với cộng đồng thế giới văn minh, cùng lúc hủy bỏ mọi hứa hẹn, mọi tuyên bố của VN về chủ quyền của TQ tại HS và TS. Thập niên 90, cơ hội bằng vàng khác để « giả từ ý thức hệ », VN gia nhập vào hàng ngũ các nước văn minh, đồng thời tuyên bố xóa bỏ mọi hứa hẹn của lãnh đạo CSVN về lãnh thổ với TQ trước đó. Bây giờ, do mù quáng bởi quyền lợi và quyền lực, lãnh đạo VN tiếp nối nhau đi TQ, cam kết với lãnh đạo TQ quan hệ Việt – Trung cần được “kế thừa, gìn giữ và phát huy ». Điều này có nghĩa lãnh đạo VN hôm nay sẽ phải nhìn nhận tất cả các hứa hẹn, các tuyên bố của lãnh đạo miền bắc xưa kia về chủ quyền của TQ tại HS và TS. Trong khi, nếu thực thi đứng đắn chính sách hòa giải dân tộc, VN hôm nay sẽ có được tính chính thống để kế thừa danh nghĩa của VNCH, phủ nhận mọi đòi hỏi của TQ.

Đây là phương án, nếu không nói là phương án duy nhứt hiện nay, để có thể bảo vệ đất nước và dân chủ hóa VN.
VN phải có quan hệ mật thiết hơn với HK và các nước dân chủ phương Tây. Ngả về TQ thất sách, là mất nước, là làm nô lệ cho Tàu. 





No comments:

Post a Comment

View My Stats