Nguyễn Giang
bbcvietnamese.com
Cập nhật: 00:37 GMT - thứ tư, 12 tháng 12, 2012
Khi tin ‘giải
phóng miền Nam’ lan đến một vùng quê Hà Tĩnh, một cậu bé còn chơi
với bạn ở ngoài ruộng và bọn trẻ đã ‘buông nhau ra thôi không đánh
vật’ nữa, nhưng cuộc giằng co chọn lối đúng và sai cho cả một dân
tộc hóa ra mới chỉ bắt đầu và còn chưa kết thúc.
Với cậu bé
chăn trâu ngày đó mà nay thành danh với cái tên blogger Osin, hành
trình vào đời và nghiệp làm báo cũng bắt đầu từ tháng 4/1975 khi
sự ‘nhận mặt nhau’ diễn ra có triệu người vui và triệu người buồn
của hai miền Nam Bắc Việt Nam sau cuộc nội chiến quốc tế hóa.
Khi được đọc
bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’ (cả hai tập), tôi băn khoăn không hiểu vì sao
Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên Thắng Trận’ với cả sự oai
hùng, hào khí cách mạng như truyền thông chính thống vẫn nêu?
Có phải trận
chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một
cuộc cờ và trận chiến vì tâm hồn và tương lai Việt Nam vẫn chưa dứt?
Những suy luận
đến từ cuốn sách chắc sẽ còn nhiều, vì chỉ trong vòng vài tuần
qua, số bài bình luận về cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’ đã xuất hiện đông
đảo với đầy đủ những lời khen nhưng cũng có một số ý phê bình, đa
số tôn trọng và không gay gắt.
Vì thế nên ở
đây, tôi chỉ chia sẻ một số cảm quan riêng và tập trung vào những gì
tôi nghĩ rằng sách đã gợi mở ra và tạo đà cho những người viết
trong và ngoài nước đi tiếp.
Trước hết,
cuốn sách mổ xẻ khá rành mạch, chi tiết và làm mới lại nhiều giai
đoạn lịch sử, biến cố, sự kiện quan trọng trong một thời kỳ cầm
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1975 đến Đổi Mới.
Các đoạn có
giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn
của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và
Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai
miền.
"Cuốn sách của tôi bắt đầu từ
ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều
người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được
giải phóng hóa ra lại là miền Bắc"
Sau đó là các diễn biến của thời kỳ đánh tư sản, tiêu diệt văn
hóa, văn nghệ tự do, quy kết loại trừ tư bản Hoa kiều, cưỡng bức kinh
tế mới, cho tới cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng thời gian các nỗ lực
duy chí ý nhằm áp đặt mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp trên
cả nước, đưa đến các thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.
Ở các chương
này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ
vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì
các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiện cận
cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc
vào sống trong Nam.
Qua các chương đó, người đọc dù thuộc các thế hệ
sau có thể hình dung ra được khá rành mạch vì sao sự mê tín với một
mô hình độc tôn đã khiến lãnh đạo Đảng cầm quyền ở Việt Nam liên
tiếp sai lầm mà các di chứng vẫn còn đang là chính sách hiện hành
dù đã được bớt liều nhờ tác động khách quan và sự tự ý thức.
Dòng đời trong
lịch sử
Cách viết ‘sử
ký’ di chuyển từ bối cảnh lịch sử chung đến hoạt động của các nhân
vật chính đã dựng lại nhiều hình ảnh sống động nhờ số lượng phong
phú các tư liệu nguồn mà tác giả ghi lại hoặc phỏng vấn trực tiếp
với nhiều nhân chứng, người trong cuộc ở cả các cấp cao.
Cuộc đời riêng, hoạt động và suy nghĩ, tính toán
cá nhân và chính trị của các ông Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Võ Văn
Kiệt, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ...được tái hiện rõ
rệt.
Chuyện tình
yêu, hôn nhân, gia đình vợ con họ được kể lại, ghi lại vừa đủ để phụ
thêm cho các hiểu tính cách, các bước ngoặt trong đời những nhân vật
này trong bối cảnh xã hội, lịch sử mà không sa đà vào chuyện riêng
tư.
Chẳng hạn
cuộc tình và cuộc đời làm vợ thứ nhì của ông Lê Duẩn mà bà Nguyễn
Thụy Nga phải gánh chịu cho thấy một giai đoạn mà văn hóa chính trị
cộng sản rất hà khắc, thậm chí tàn khốc với việc riêng của tất cả
mọi người, kể cả những nhân vật cao cấp, ngược hẳn với thời kỳ tung
hê, thả cửa của quan chức hiện nay.
Một cách nhìn
khác xuyên qua những tư liệu quý mà Huy Đức thu lượm và tìm cách
kiến giải là dòng ‘sinh hoạt quân sự’.
Lồng vào các
chiến dịch tiến vào Sài Gòn năm 1975, chiến tranh biên giới Tây Nam,
xung đột Trung – Việt, hay đi ngược về thời kỳ kháng Pháp, chiến tranh
Mỹ – Việt là các chân dung sỹ quan, tướng lĩnh, nhân chứng của nhiều
phía.
Các trận
đánh, các cuộc ra quân, những vụ thảm sát, tàn phá của quân Pol Pot,
quân Trung Quốc được mô tả bằng ngòi bút của người làm báo, viết
phóng sự nên sống động hơn nhiều so với các cuốn tiếng Việt từ
trước tới nay về cùng chủ đề mà tôi được đọc.
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt
Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí
Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng
Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây,
hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động.
Cuộc đời và
các suy tư của ông Võ Văn Kiệt mà tác giả có thời gian gặp gỡ nhiều
cũng được trình bày lại khá đầy đủ, cho người đọc cơ hội thấy được
chân dung một nhân vật cộng sản miền Nam luôn trăn trở để càng về
cuối đời lại càng về gần với tinh thần dân tộc.
Ông Võ Văn
Kiệt đến hội nghị sơ kết Thanh niên Xung phong năm 1981 ở Đắc Nông
Nhân chứng và
tư liệu
Đã có người
khác đã bình luận về phương pháp viết của Huy Đức, gồm cả phần
được và phần thiếu sót nên ở đây, tôi chỉ muốn chú ý đến cách sử
dụng tư liệu của tác giả để tạo dựng bối cảnh quốc tế hoặc khu
vực cho phần nội dung Việt Nam của anh.
Giai đoạn viết
về cuộc cách mạng dân chủ Đông Âu và Liên Xô sụp đổ không phải là
phần mạnh nhất của tác giả.
Nhà báo Huy Đức và TBT Lê Khả
Phiêu: bản thân tác giả là nhân chứng của nhiều sự kiện lịch sử
Huy Đức chủ
yếu sử dụng lời kể của tiến sỹ Lê Đăng Doanh về chuyến đi của Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh sang Đông Đức, cuộc gặp Erich Honecker, Mikhail
Gorbachev và Nicolai Ceaucescu và tư liệu của Bùi Tín đã xuất bản khá
lâu để dựng lại ‘cú sốc thể chế’ mà perestroika và glasnost gây ra cho
ban lãnh đạo Hà Nội.
Sang để 'chấn chỉnh' lãnh tụ phe cộng sản quốc
tế Gorbachev về đường lối xét lại, ông Linh đã cảm lạnh, sốt và ốm
(theo cả nghĩa đen và bóng?) khi gặp sự hắt hủi, coi thường của
'đồng chí đàn anh' - dấu hiệu Hà Nội bị Đông Âu bỏ rơi nên dần tìm
sang ngả Trung Quốc.
Nhưng cũng vì
dựa trên các trích dẫn đó là chính, nhiều lý giải về Đông Âu trong
sách không theo kịp các tác phẩm xuất bản tại khu vực này hoặc sách
của các tác giả Phương Tây trong 10 năm qua.
Về sự dính
líu và cuộc tháo chạy của người Mỹ khỏi Đông Dương, quan hệ Mỹ –
Trung về Campuchia cuốn sách cũng dùng quá nhiều luận điểm của nhân
vật nổi tiếng thiên kiến và thiên hữu, ông Henry Kissinger trong cuốn
‘Ending the Vietnam War’ (2003), thiếu hẳn các cuốn mới hơn về Trung
Quốc như ‘Inside Ten Episodes of China’s Diplomacy’ (2006) của Tiền Kỳ
Tham.
Các đoạn về
quan hệ Trung Xô hoặc Trung Mỹ hay vai trò chỉ đạo của Moscow với Hà
Nội trong nhiều thập niên cũng thiếu nhiều phần đối chiếu từ các
sách mới mà giới nghiên cứu Âu Mỹ liên tiếp đưa gia thời gian qua như
cuốn ‘Revolution 1989: The Fall of the Soviet Empire’ của Victor Sebestyen
(2009) hay ‘Russian’s Cold War’ của Jonathan Haslam (2012).
Nói như thế
không phải là để phê phán cuốn sách đầy đủ nhất từ trước tới nay
về chính trị Việt Nam mà để bạn đọc Việt Nam tin tưởng rằng chủ đề
‘hệ thống cộng sản’ vẫn được giới khoa bảng quốc tế theo đuổi, cập
nhật, và trong dòng sách này Bên Thắng Cuộc chắc chắn là một hồ sơ
quan trọng nếu được dịch ra ngoại ngữ.
Phần trong
nước, tác giả cũng sử dụng khá nhiều các văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam để ghi nhận các bước tiến và lùi trong chính sách.
Nhưng vì ở
Việt Nam luôn có khoảng cách khá lớn giữa ngôn từ văn bản với chính
sách áp dụng thực và kết quả cuối cùng nên cách làm này dù cần
thiết cho giới cần tra cứu, lại dễ khiến bạn đọc bình thường có
cảm giác bội thực của một thời phải ăn độn bo bo.
Trái lại, khi đi xa văn kiện, ngòi bút báo chí
tinh tế đã giúp tác giả giải mã được chiến lược ‘pháo đài huyện’
mà các con đẻ của nó vẫn đang lãnh đạo đất nước ngày hôm nay.
Xé rào: ông Trường Chinh thăm nhà
máy bột giặt Viso năm 1983
Nào ai nghĩ
chính phong trào ông Lê Duẩn tung ra nhằm gây dựng cán bộ trẻ từ
huyện để đẩy thẳng lên trung ương hồi đó, theo Huy Đức, đã tạo đà cho
ông Nguyễn Tấn Dũng từ huyện Cà Mau, tỉnh Minh Hải hay bà Trương Mỹ
Hoa từ huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang và một số nhân vật khác lên
cao.
Chính cách để
các nhân vật thật tái hiện trong ánh sáng mới của lịch sử và tư
liệu khiến 'Bên Thắng Cuộc' không nằm vào dạng tác phẩm nghiên cứu
academic mà giống ký sự hay non-fiction biographic history tựa như của
Simon Sebag Montefiore trong ‘Stalin: The Court of the Red Tsa’ hay ‘Jerusalem:
The Biography’.
‘Bên Thắng
Cuộc’ còn nhiều phần phát hiện thú vị khác về ‘người trong cuộc’
mà tôi tin là bạn đọc sẽ đánh giá cao, và nếu những gì tác giả
viết ra có gây dư luận khen chê hay tạo ra tranh luận thì cũng là điều
tốt vì đã lâu người đọc tiếng Việt chưa có trong tay một bộ sách
đầy đủ, chân thực và nhiều tính gợi mở như thế về đất nước họ.
Và nếu vì
đọc ‘Bên Thắng Cuộc’ mà có các tác giả khác nung nấu muốn viết
thêm, viết lại, viết tiếp về chủ đề Việt Nam thì hẳn cũng là một
thành công ‘ý tại ngôn ngoại’ cho tác giả.
------------------------------------
No comments:
Post a Comment