Theo Strategy
Page Ngày 11 tháng 12, 2012
Hiền
Trang
chuyển ngữ, CTV
Phía Trước
14/12/2012
Gần
đây nhiều nước đã cực lực phản đối thông báo của Trung Quốc về các quy định
mới, sẽ bắt đầu từ ngày 01 tháng Một tới đây, bao gồm việc hải quân Trung Quốc
sẽ tuần tra và hộ tống hoặc trục xuất tàu nước ngoài trong vùng Biển Đông. Nhưng Trung Quốc đã rất thông minh về cách ứng xử của họ
đối với việc này. Trung Quốc không có kế hoạch phủ lớp sơn màu xám lên các tàu
hải quân để ngăn chặn và quấy rối các tàu nước ngoài, ngược lại, họ đã sử dụng
lớp sơn trắng của các tàu tuần duyên. Màu sơn trắng và các sọc đỏ dọc trên thân
tàu được quốc tế công nhận là màu sơn của tàu tuần duyên. Điều này ít nhất là
không mang lại nhiều đe dọa so với các tàu chiến. Trung Quốc cũng kêu gọi các
tàu dân sự (trong đó chủ sở hữu của các tàu này hiểu rằng từ chối giúp đỡ không
phải là cách mà họ có thể lựa chọn) nhập cuộc ngăn chắn các tàu nước ngoài. Vì
vậy, nếu các tàu chiến nước ngoài nổ súng để đe dọa và xua đuổi các tàu quấy
rối này thì ngay lập tức họ trở thành những kẻ xấu.
Trung
Quốc có khoảng ba tàu tuần duyên hạng nặng 1.500 tấn (được biết đến với tên gọi
“máy cắt” theo cách nói của người Mỹ) đang được xây dựng, một phần trong số 36
chiếc trong đơn đặt hàng. Tất cả các tàu này thuộc Cơ quan Giám sát Biển Trung
Quốc (China Marine Surveillance – CMS). Bảy trong số các tàu mới này có kích
thước của tàu hộ tống (1.500 tấn), trong khi phần còn lại là các số nhỏ hơn (15
chiếc có trọng lượng 1.000 tấn và 14 chiếc có trọng lượng 600 tấn). Trong một
thời gian dài, việc tuần tra ven biển được thực hiện bởi lược lượng hải quân.
Tuy nhiên, trong một thập kỷ qua, lực lượng tuần duyên đã có được nhiều tàu mới
hơn. Kế hoạch giao 36 chiếc tàu cho CMS sẽ được hoàn thành trong vòng hai năm
tới. Trong khi đó, Trung Quốc đang chuyển giao lại các loại tàu chiến nhỏ hơn
(tàu hộ tống loại nhỏ) cho các cơ quan thực thi pháp luật khác nhau chịu trách
nhiệm về an ninh biển. Ngày 1 tháng Một tới đây Trung Quốc sẽ chính thức ra
lệnh kiểm soát các bờ biển tại các đảo không có người ở, cũng như các bãi đá ngầm
và rạn san hô ở khu vực Biển Đông. Điều này sẽ làm cho rất nhiều các khu vực
được xem là thuộc vùng biển quốc tế, được Trung Quốc đưa vào chủ quyền của nước
này. Và hiện Trung Quốc đang cần thêm tàu để có thể thực hiện những hoạt động
này.
CMS
là một trong năm cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật dọc theo bờ biển
của Trung Quốc. Các cơ quan khác bao gồm Cảnh sát biển, một lực lượng quân sự
có các tàu mang lớp sơn trắng liên tục tuần tra các bờ biển. Cơ quan Quản lý An
toàn Hàng hải chuyên phụ trách tìm kiếm và cứu hộ dọc theo bờ biển. Cơ quan
Thực thi Chính sách Thuỷ sản phụ trách việc đánh bắt cá trái phép. Và Cơ quan
Hải quan chuyên chống buôn lậu. Trung Quốc có nhiều cơ quan tuần tra duyên hải
bởi vì nước này theo chế độ độc tài cộng sản, việc có nhiều cơ quan an ninh làm
các nhiệm vụ tương tự nhau để họ có thể kiểm soát lẫn nhau.
CMS
là cơ quan mới nhất được thành lập vào năm 1998. Cơ quan này thực sự là lực
lượng cảnh sát Quản lý đại dương của Trung Quốc, có trách nhiệm khảo sát các
vùng biển mà Trung Quốc có đặc quyền kinh tế (vùng đặc quyền kinh tế hoặc –
exclusive economic zone) và thực thi các pháp luật về môi trường ở các vùng
này. Chương trình xây dựng tàu mới này sẽ mở rộng sức mạnh của CMS từ 9.000 đến
10.000 nhân viên. CMS hiện đã có 300 tàu thuyền và 10 máy bay.
Ngoài
ra, CMS thu thập và phối hợp các dữ liệu hoạt động giám sát biển tại mười thành
phố lớn và 170 quận ven biển. Khi có các cuộc đối đầu vũ trang tại các đảo
tranh chấp ở Biển Đông, CMS là các tàu tuần tra thường xuyên được mô tả là “tàu
chiến của Trung Quốc”. CMS và bốn “cơ quan bảo vệ bờ biển” khác của Trung Quốc
có hàng trăm tàu cỡ lớn (hơn 1.000 tấn, trong đó có một số có trọng lượng hơn
3.000 tấn) và hàng ngàn tàu tuần tra nhỏ hơn. Trung Quốc hiện đang xây dựng cơ
sở hạ tầng ở các đảo có tranh chấp để có thể phục vụ cho các tàu tuần tra nhỏ
loại này. Cần lưu ý rằng nhiều trong số các tàu tuần tra này được trang bị các
vũ khí hạng nặng (như tên lửa, ngư lôi) nêu có chiến tranh xảy ra.
Vì
vậy, Trung Quốc thường xuyên tuần tra và tích cực hơn tại các vùng biển mà họ
có đặc quyền kinh tế. Luật pháp quốc tế (Hiệp ước Biển năm 1994) công nhận vùng
biển cách đất liền 22 kilomet và cho phép nước nào có chủ quyền được kiểm soát
khu vực này. Điều đó có nghĩa rằng các tàu [nước ngoài] không được phép đi vào
“vùng lãnh hải” nếu như không phép của nước có chủ quyền. Tuy nhiên, các vùng
biển cách đất liền 360 kilomet được xem là khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ). Các
nước có chủ quyền ở vùng đặc quyền kinh tế này có thể kiểm soát các tàu đánh cá
và những chất được chiết xuất từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên (chủ yếu là
dầu khí) từ đáy biển. Tuy nhiên, chủ sở hữu vùng này không thể ngăn cấm quyền
tự do qua lại đối với các tàu nước ngoài hoặc lắp đặt các đường ống và cáp
thông tin. Trong khi đó thì phía Trung Quốc đã lên tiếng tuyên bố rằng các tàu
nước ngoài đã tiến hành các hoạt động gián điệp bất hợp pháp trong vùng đặc
quyền kinh tế của họ. Tuy nhiên, Hiệp ước năm 1994 đặc biệt không nói gì về
những vấn đề như vậy. Trung Quốc chỉ đơn giản thực hiện những gì họ đã làm
trong nhiều thế kỷ qua, cố gắng áp đặt ý chí của họ lên các nước láng giềng hay
bất cứ nước nào mạo hiểm đi vào những gì mà Trung Quốc xem là khu vực thuộc
quyền kiểm soát của họ.
Trong
hai thế kỷ vừa qua Trung Quốc đã bị ngăn cản thực hiện các “quyền truyền thống”
trong vùng biển gần đó vì sức mạnh vượt trội của các lực lượng hải quân nước
ngoài (đầu tiên là súng pháo cannon của châu Âu, sau đó vào thế kỷ 19 là tàu
chiến thép mới từ Nhật Bản). Tuy nhiên, kể từ khi những người cộng sản lên
chiếm quyền 60 năm trước đây, Trung Quốc đã sử dụng bạo lực để tái khẳng định
lại quyền kiểm soát của họ trong khu vực (trong nhiều thế kỷ) mà họ xem là một
phần của “Vương quốc Trung Tâm – Middle Kingdom” (hoặc Trung Quốc, như là trung
tâm “của thế giới”).
Hiện
nay Trung Quốc đặc biệt quan tâm quần đảo Trường Sa ở gần đó, một nhóm đảo gồm
khoảng 100 đảo nhỏ, rạn san hô, và các bãi đá ngầm có tổng cộng khoảng 5 cây số
vuông đất, nhưng bao gồm 410.000 cây số vuông diện tích biển ở Biển Đông. Ngoài
có tiếng là một ngư trường lớn nhất thế giới, các đảo này còn được cho là có
nguồn dầu mỏ và khí đốt rất lớn bên dưới đáy biển. Một số quốc gia khác cũng đã
lên tiếng tuyên bố chủ quyền. Hiện có khoảng 45 trong số các hòn đảo tại đây
được các nhóm quân sự chiếm đóng. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với tất cả
các hòn đảo tại đây nhưng họ chỉ chiếm đóng được 8 đảo, Việt Nam đã chiếm hoặc
đánh dấu 25 đảo, Philippines chiếm 8 đảo, Malaysia có 6 đảo, và Đài Loan chiếm
duy nhất 01 đảo.
Trung
Quốc muốn sử dụng các tàu phi quân sự hoặc bán quân sự (giống như tàu của CMS)
để quấy rối các tàu nước ngoài nhằm đuổi họ ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế hay
các khu vực có tranh chấp. Cách tiếp cận này ít có khả năng châm ngòi cho một
cuộc xung đột vũ trang và dễ dàng hơn cho phía Trung Quốc tuyên bố họ là nạn
nhân. Việc này diễn ra như một vỡ kịch đối với các nước láng giềng khi Trung
Quốc tuyên bố họ là nạn nhân. Đó là bởi vì các quy định mới dưới luật pháp quốc
tế tại các khu vực ngoài khơi bở biển của Philippines, Malaysia, Đài Loan,
Brunei và Việt Nam không công nhận thuộc chủ quyền của Trung Quốc như cách mà
Trung Quốc đang làm. Ấn Độ và Hoa Kỳ đã công bố rằng họ sẽ không tuân thủ các
quy định trên [của Trung Quốc] và mong rằng các tàu chiến của Ấn Độ và Hoa Kỳ
không bị trở ngại khi di chuyển qua khu vực Biển Đông vào năm 2013 tới đây.
©
Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
No comments:
Post a Comment