Thứ hai, ngày 24 tháng mười hai năm 2012
(Tham luận đọc tại hội thảo sáng nay
24/12/2012 tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học-Kỹ thuật Việt Nam do Trung tâm
nghiên cứu truyền thông phát triển ( RED ) tổ chức ..)
Từ trái sang phải: Ông Lưu
Đình Phúc Trưởng phòng Quản lý Báo chí Cục Báo chí; Nguyễn Hữu Vình
( Chủ blog Basam), PGS-TS Đoàn Thế Hanh ( Tạp chí Cộng sản ) và ông Trần
Nhật Minh-Giám đốc RED...
Phạm
Viết Đào
Chúng ta đang sống trong một đất
nước, một thể chế mà ngay cả những con người bình thường nhất, ít phải chịu
chức phận xã hội cũng có rất hiếm cơ hội, điều kiện để bộc bạch, được chia sẻ
với những người xung quanh những suy nghĩ thật lòng trên các phương tiện truyền
tin đại chúng; từ con người bình thường đến những người có những chức phận cao,
lớn đều quen rèn và tự khép mình trong khuôn khổ tổ chức: tổ chức đảng, các
đoàn thể, thanh niên, phụ nữ, phường xã…và cứ cuối năm cuối quý, từ bé cho đến
lớn, từ trẻ cho tới già khi bình bầu xếp loại thành viên của tổ chức bao giờ
cũng có một mục, mục tự đánh giá về ý thức tổ chức, ý thức chấp hành kỷ luật
của cái tổ chức mà anh tự nguyện hoặc buộc phải tham gia…; trong khi đó thì ý
thức chấp hành luật pháp lại không phải là thứ lúc nào cũng được đề cao, phổ
cập…
Đó chính là lý do khi mà inernet phát
triển, tạo cửa mở cho mỗi cá nhân có điều kiện giao lưu, giao tiếp và bày tỏ
chính kiến với thế giới bên ngoài thì nó trở nên cuốn hút mãnh liệt. Internet
đã thật sự tạo nên một cuộc cách mạng về quan hệ xã hội không chỉ đối với một
xã hội khép kín, toàn trị như ở Việt Nam mà cả thế giới đã có truyền thống dân
chủ cởi mở hơn… Bởi nhu cầu giao tiếp, nhu cầu trao đổi, chia sẻ thông tin,
chính kiến, cảm xúc là một nhu cầu không có điểm dừng đối với thế giới văn
minh; xã hội càng phát triển, nhu cầu này càng phát triển theo cấp lũy thừa…
Theo một cuộc khảo sát công bố gần
đây của tạp chí NEON của Đức được AFP đưa tin; bằng hình thức phỏng vấn thanh
niên Đức trong độ tuổi từ 18 đến 35 tuổi, đã cho kết quả: 18% người Đức trả lời
họ thích thú sử dụng Internet hơn là quan hệ tình dục; một số người còn cho
biết họ nghiện inernet hơn thuốc lá; trong khi người Đức là một trong những
quốc gia tiêu thụ nhiều thuốc lá, có ý kiến còn đề xuất dùng internet để cai
nghiện thuốc lá, cai tình dục…
Theo khảo sát, 70% thanh thiếu niên
Đức nói rằng họ xem thường xuyên truy cập 10 trang web mỗi ngày, trong khi chỉ
có 12% cho rằng theo dõi thường xuyên hơn 25 trang web trực tuyến.
Cuộc khảo sát này được thực hiện do
Viện Forsa, bắt đầu từ một mẫu đại diện của 1016 người, mỗi người có một kết
nối internet.
Qua những dữ liệu trên cho thấy đang
tồn tại sự cách bức giữa nhu cầu của công chúng với các phương tiện thông tin
truyền thống ngay cả với cả những quốc gia cởi mở như Đức; sức hấp dẫn vượt
trội của Internet trong đó các trang mạng xã hội là một trong những yếu tố cấu
thành sinh thể Internet, xã hội internet hay còn được gọi là cộng đồng mạng.
Trước hết chúng ta hãy phân định về
sự khác biệt giữa báo chí, phương tiện thông tin đại chúng với các trang mạng
xã hội; một cộng đồng tự sản, tự tiêu sản phẩm của mình…Về nguyên lý: báo chí
là cơ quan đầu mối thu thập và tán phát thông tin, kinh doanh thông tin; báo
chí vừa có quyền năng, phương tiện và cơ sở vật chất nhất để thu thập thông tin,
sàng lọc thông tin, tổng hợp thông tin như một loại hình doanh nghiệp đặc thù
thế mà lại không đáp ứng xuể nhu cầu của người tiêu thụ khiến các trang mạng xã
hội chen chân vào…
Trong khi đó các trang mạng xã hội
phần lớn do các cá nhân dựng lên nhằm mục đích chủ yếu là để thỏa mãn cái nhu
cầu trình bày, chia sẻ những suy nghĩ thật, những cảm nghĩ thật và những điều
mắt thấy, tai nghe của chủ trang mạng với cộng đồng mạng. Thông tin từ các
trang mạng xã hội ( blog, trang Web cá nhân ) chỉ là những nguồn tin cá lẻ, cá
nhân tùy hứng, ngẫu hứng thế nhưng không ít trang lại cạnh tranh nghiêng ngửa
với các tờ báo điện tử chính thống có cả ban biên tập và cơ sở vật chất, thiết
bị kỹ thuật dồi dào…
Đứng về vấn đề thu thập, sàng lọc
thông tin thì báo chí mới là cơ quan đầu mối, có điều kiện hơn nhiều so với các
trang mạng xã hội; Còn như đặt vấn đề thu thập, sàng lọc thông tin từ các trang
mạng xã hội thì chỉ cần bộ phận biên tập của các tòa soạn báo có kinh nghiệm,
tinh nhạy, mẫn cảm là có thể lôi kéo, tập hợp xung quanh mình một đội ngũ thông
tín viên cung cấp nguồn tin cho bản báo…
Theo tôi: điều quan trọng nhất, điều
mà báo chí cần phải thường xuyên tiếp nhận, bổ sung nguồn dưỡng chất, sinh khí
cho tờ báo của mình từ nguồn các trang mạng xã hội không phải là nguồn tin, số
lượng và sự đa dạng, đa chiều của thông tin mà ở vấn đề mà báo chí cần phải
nghe nghe ngóng, thu thập từ các trang mạng xã hội: loại vấn đề gì đang nổi lên
được người đọc quan tâm, được các trang mạng xã hội lao vào bàn tán, giao đãi,
đưa tin nhiều… Đây chính là các thế mạnh, sở trường đích thực của các trang
mạng xã hội. Bởi vì so với các tòa soạn báo các trang mạng xã hội thường viết
lên những cảm nghĩ, xúc cảm đích thực tươi mới không thể không viết ra và không
thể không đưa lên mạng để chia sẻ với cộng đồng của từng cá nhân…Nói cách khác:
chúng ta phải tìm cơ chế, giải pháp để các nhà báo khi viết tin bài được bộc lộ
chính kiến của mình, cảm xúc của mình nhạy bén như các blogger, có như thế báo
chí mới gần với độc giả, mới truyền tải, cập nhật được hơi thở gấp gáp của đời
sống xã hội?
Một biên tập viên, một nhà báo có
nghề và có kinh nghiệm là người phải biết dò đoán, “đánh hơi” dư luận xã hội
thông qua các trang mạng xã hội, thông qua các “ đặc tình “ trong lĩnh vực
thông tin để trên cơ sở đó mà tham mưu, hoạch định chiến thuật, chiến lược thu
thập, khai thác thông tin và bình luận định hướng dư luận xã hội cho bản
báo…Một trang mạng xã hội dù nhạy bén đến đâu cũng không thể thu thập được
nguồn tin phong phú bằng các ban biên tập; thế nhưng mặc dù nhiều khi họ chỉ ăn
theo thông tin của các tờ báo để rồi họ, các trang mạng xã hội đã vượt lên các
tờ báo nhờ vào khả năng đoán định chiều hướng thông tin, bình luận, phân tích,
mổ xẻ thông tin…là những điều mà độc giả cần, mong đợi…
Hiện nay, các trang mạng xã hội Việt
Nam đang cạnh tranh khốc liệt với các tờ báo trong đó có báo điện tử về hướng
này; trong rất nhiều trường hợp giống như việc phát minh và khai thác chiếc máy
tính điện tử: Liên Xô mới là quốc gia đầu tiên phát minh ra máy tính nhưng đưa
vào ứng dụng rộng rãi, cải tiến nó và thu lời, làm giàu từ phát minh này lại là
người Mỹ…Hiện nay một số trang mạng xã hội có chỗ đứng sâu trong lòng cộng đồng
mạng, chiếm được tình cảm là do khả năng cải biến, xử lý, “ tái chế”, phóng đại
thông tin chứ không phải ở cái khả năng săn tin ?
Ở đây do báo chí Việt có một số hạn
chế do điều kiện khách quan: Việt Nam không có báo tư nhân, mỗi tờ báo kể cả
báo điện tử đều là tiếng nói của một cơ quan cấp Bộ và Hội đoàn thế có vai vế;
tiếng nói, tôn chỉ mục đích đã được mặc định kể cả báo Nhân Dân có đề thêm vào
Tiếng nói của nhân dân cũng chỉ là đề mang tính xã giao, hình thức, đãi bôi…Do
nét đặc thù này của đời sống báo chí Việt Nam như vậy nên dẫn tới tình cảnh
người dân Việt phải cam chịu cái sự đói khát, khô hạn dài dài về về nhu cầu
chia sẻ thông tin, chính kiến, xúc cảm cá nhân…Chưa kể có lúc những ý kiến trái
chiều với một cơ quan chức năng nhà nước, chức năng nào đó bị xem như là một
thứ hành vi vi phạm Luật hình sự và bị kỵ húy thậm chí còn bị truy cứu…Do vậy,
khi internet ra đời, tạo điều kiện cho cư dân mạng Việt Nam có một mảnh đất
mới, một khu đất phần trăm tùy ý sử dụng để góp phần tăng gia thêm khẩu phần
thông tin và chia sẻ chính kiến. Do đó nên đã xuất hiện rất nhiều cây viết, chủ
nhân của các cư dân mạng nổi tiếng hơn cả nghề tay phải của mình, họ là nhà báo
nhưng người đọc biết nhiều về họ hơn nhờ viết blog chứ không phải viết báo; có
nhà báo bỏ cả nghề báo để viết blog; có ông chẳng liên quan gì đến nghề báo tự
dưng nhảy ra làm trang mạng có sức lôi cuốn người đọc, thách thức các tổng biên
tập báo chính thống khiến cho Huy Đức một nhà báo kiêm một blogger có tiếng đã
phải thốt lên: Báo chính thống nói chuyện Basam; Còn Basam lại đưa chuyện chính
thống…Rất nhiều các hãng thông tin nước ngoài khi một tìm hiểu dư luận xã hội
về một vấn đề nào đó lạ thường tìm đến các blogger hơn là tìm đến những nhà
báo, nhà quan sát chính trường có nhãn mác, bằng cấp và giấy phép hành nghề…
Sở sĩ xảy ra tình trạng trên là do
các trang mạng xã hội có điều kiện cho phép chủ nhân được giãi bày những suy
ngẫm, những quan ngại, những xúc cảm cá nhân; nếu một nhà báo khi đặt bút viết
về một vấn đề nào đó thì điều mà anh quan tâm đó không phải là độc giả đầu tiên
chắc phải là hàng thứ 2, số 1 đó là liệu cái tin bài mình viết ra có được TBT
đăng cho không? Nhiều phóng viên đã phải làm cái việc trước khi quyết định bắt
tay vào lấy tin, viết bài thì đã phải trao đổi trước với lãnh đạo báo…Như vậy,
độ nóng, độ tươi mới cập nhật và dấu ấn cá nhân của sự phát hiện của tin bài đã
bị gián đoạn, cách bức so với một một blogger hay một ông chủ một trang Web cá
nhân. Mỗi khi chủ của các trang mạng xã hội thấy vấn đề tác động vào họ buộc họ
phải đặt bút viết là lập tức họ bắt tay vào ngay; trước bàn phím của họ là cá
nhân của họ được vui sướng giãi bày cảm xúc của mình qua con chữ và độc gia
quen thuộc đang chờ họ…
Do vậy nếu báo chí muốn sàng lọc
thông tin, nhất là loại thông tin về các vấn đề mà xã hội độc giả quan tâm thì
không đâu bằng cập nhật những trang mạng các nhân có lượng độc giả đông, ổn
định…Thực ra, không chỉ báo chí mà theo người viết bài này được biết: một số cơ
quan chức năng như công an, tuyên giáo, các cơ quan hành chính cũng đã trở
thành độc giả của nhiều trang mạng cá nhân có tên tuổi; họ vào các trang mạng
này không phải vì tò mò, cũng không phải vì đói thông tin vì thông tin trên các
trang mạng xã hội thường là những thông tin cần phải kiểm chứng, sàng lọ; Qua
các thông tin trên các trang mạng xã hội, chắc các cơ quan chức năng muốn đo
kiểm xem phản ứng, những diễn biến, xu thế chính kiến xã hội đang quan tâm, đổ
xô vào các vấn đề gì, thậm chí các trang mạng xã hội còn là nơi do lường, kiểm
chứng lòng dân trước các chính sách, chủ trương mới ban hành của nhà nước, của
các đoàn thể xã hội…Và ở khía cạnh này các trang mạng xã hội có độ tin cậy cũng
như độ nóng của sự tươi mới cao hơn các cơ quan ngôn luận báo chí…
Một tờ báo muốn tạo cho mình chỗ đứng
bền vững trong lòng độc giả thì phải đón đầu cho được những chiều hướng thông
tin mà độc giả quan tâm, những vấn đề xã hội đang gây bức xúc độc giả và khi
báo chí xông vào với sức mạng về tay nghề, phương tiện sẽ lôi kéo, định hướng
được độc giả…
Ở Nhật tại những xý nghiệp lớn đông
công nhân làm việc, nhiều ông chủ cho xây những phòng giải trí, ở trong đó có
nhiều bức tượng bằng cao su có dáng hình và kích cỡ giống, đúng như các yếu
nhân đang quản lý nhà máy…Nhà giải stress này nhằm mục đích tạo điều kiện cho
công nhân của nhà máy, nếu họ có điều gì đó bất bình với ông chủ hoặc ai đó có
liên quan tới công việc hàng ngày; họ có thể vào đấy đấm đá thỏa thích người mà
họ cho là đang ức hiếp họ…Các phòng xả stress này đều có hệ thống ghi âm, ghi
hình để các ông chủ theo dõi không nhằm mục đích trả thù, đối phó với người
phản ứng mình mà để điều chỉnh các giải pháp, phương cách quản lý…
Quản lý một xã hội cũng giống như một
xý nghiệp, một nhà máy, một gia đình…cho dù thiết kế ra được một guồng máy quản
trị, hoàn hảo đến đâu cũng khó lòng làm thỏa mãn hết thảy, làm cho mọi thành
viên có nhu cầu, sở thích, sở trường khác nhau đều vui vẻ cả; Do vậy, các
phương tiện thông tin đại chúng là cái kênh có nhiệm vụ thông tin giúp các tầng
lớp trong xã hội có điều kiện để hiểu nhau, giao lưu, giao cảm với nhau để trên
cở sở này mà tìm ra những được tiếng nói chung, tránh cho xã hội những sự dồn
toa, giật cục dẫn tới đổ vỡ trong các mối quan hệ…
Nắm bắt các luồng thông tin, dư luận
xã hội để trên cơ sở này mà hoạch định các chính sách xã hội là điều mà bất kể
một thể chế quản trị văn minh, tiến bộ nào; Điều này thực ra kể cả Việt Nam
chúng ta từng đã thiết lập có điều hiệu quả và chất lượng của nó tới đâu thì đó
là điều mà chúng ta cần suy tính cân nhắc…Việc điều chỉnh xã hội bằng sự minh
bạch thông tin, chính kiến sẽ văn minh gấp vạn lần so với sử dụng dùi cui và
guồng máy cảnh sát…
Hiện nay chúng ta có hệ thống hơn 800
tờ báo và Đài truyền hình trung ương đã được đầu tư từ nhiều nguồn trong đó có
ngân sách nhà nước về trang thiết bị kỹ thuật để làm việc đưa tin, thông tin,
bình luận, phân tích, kiến giải thông tin nhằm định hướng dư luận xã hội; Thế
nhưng có thể do những nét đặc thù của cơ chế quản lý, quản trị của hoạt động
này nên chất lượng của công tác thông tin giúp cho khâu quản trị xã hội của nhà
nước hiệu quả không cao, tác động vào dự luận xã hội còn hời hợt…Đang có một
khoảng cách, một bức vách ngăn giữa cơ quan thông tin, những người làm nghề
thông tin ( các nhà báo ) với xã hội…
Xin lấy vị dụ nạn nợ xấu do quá nguồn
tiền ngân hàng đổ vào thị trường bất động sản phát triển cung vượt cầu quá lớn
? Đây không phải là lần đầu Việt Nam và thế giới đã rơi vào thảm cảnh này;
chúng ta không thiếu những cơ quan chuyên nghiên cứu, dự báo thị trường trong
đó có thị trường bất động sản…Chúng ta có hàng trăm tờ báo chuyên ngành về kinh
tế, hàng trăm tờ báo không chuyên về thị trường nhưng hàng ngày vẫn dành các
chuyên trang cho vấn đề kinh tế-thị trường; thế tại sao lại không có được một
phản biện, dự báo nào can ngăn các nhà đầu tư để tình hình bất động sản lao vào
thảm họa như hiện nay? Chỉ qua vụ thị trường bất động sản thôi đã thấy cái cơ chế
thu thập, sàng lọc, tổng hợp và xử lý thông tin của chúng ta có vấn đề; Điều
này không chí đối với báo chí mà cả các cơ quan hoạch định chính sách tầm vĩ mô
lẫn vi mô…
Trong cuộc sống hàng ngày, chỉ hai
con người với nhau thôi, nếu không có sự giãi bài, bộc bạch với nhau những chỗ
uẩn khúc, những khúc mắc, tức nói nôm na không sống thật lòng với nhau thì họ
khó lòng có được tình bạn lâu bền, họ sẽ không có được những hành động chân
thành, thiết thực, chia sẻ, động viên, an ủi nhau trong những lúc khó khăn…Hiện
nay các cơ quan thông tin đại chúng không làm tròn phận sự vì chưa sống thật
lòng, chia sẻ thành thật với độc gia thông qua việc đưa tin và thông tin, bình
luận, định hướng thông tin với độc giả…Đó chính là lý do khiến cho các mạng xã
hội ra đời…Các trang mạng xã hội đang gánh vác cái nhiệm vụ nặng nề đó là việc
bù đắp những phần thiếu hụt, phần què quặt của cộng đồng thông tin chính
thống…Thử vào các đài truyền hình và các phương tiện chính thống mà xem: thấy
xã hội chúng ta hoàn thiện êm đẹp một cách giả tạo, gượng gạo…
Rất may trong hàng chục năm gần đây
do sự bùng nổ của phương tiện internet đã tạo điều kiện có rất nhiều cá nhân,
blogger đã nghiễm nhiên biến thành những nhà báo có đông người tìm đến giống
như những tờ báo những tờ báo có nhãn mác và có giấy phép hoạt động nghề do Bộ
Thông tin-Truyền thông cấp…Hiện nay một số trang mạng xã hội riêng về các chủ
đề thông tin gần với các tờ báo chuyên ngành về kinh tế-xã hội hàng ngày đã thu
hút tới dăm ba vạn lượt truy cập; số trang mạng này ở Việt Nam cũng đã lên tới
hàng chục trang mặc dù hoạt động tự phát, chưa chuyên nghiệp về mặt kỹ
thuật…Các blogger đã nơi khỏa lấp phần nào cái thiếu hụt này của các cơ quan
thông tin chính thống đã gây ra cho xã hội thông tin Việt Nam…Thử hình dung nếu
không có các trang mạng xã hội mặc dù bị chèn ép đủ đường thì làm sao người dân
và kể cả các cơ quan chức năng biết được thực chất về cái mặt trái của vũ cưỡng
chế đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng, Văn Giang ở Hưng Yên và nhiều vụ khác…Các cơ
quan chức năng vào cuộc giải vụ này theo tôi thực chất là do sức ép của các
trang mạng xã hội chứ khó tin là do các bộ phận tham mưu giúp việc đi xe sang,
hưởng lương cao tham mưu, đề xuất…
Bản thân tôi là người ham viết blog,
mới nghỉ hưu từ 1/6/2012, trang của tôi bị đánh sập 3 lần và không biết ai phá;
rất nhiều lần trực tiếp được mời lên yêu cầu giải trình các nội dung, quan điểm
cũng như trách nhiệm hành chính ( vì tôi là công chức ) và trách nhiệm trước
luật pháp về những thông tin tôi nêu về những vấn đề tôi viết ra…Tôi đã giải
thích, tranh luận sòng phẳng, minh bạch rằng: những điều tôi viết ra không vi
phạm 19 điều đảng viên không được làm vì tôi là đảng viên; Tôi không vi phạm
luật pháp thông tin ( Luật Báo chí và các văn bản có liên quan)…Tôi là hội viên
Hội Nhà văn VN, hội viên Hội Nhà báo VN, thiên chức của tôi cũng giống như anh
nông dân, phải có cày và ruộng cho chúng tôi cày cấy; Khi nhà nước thừa nhận
cho phép bằng luật pháp hoạt động của những hội này thì nhà nước phải chịu
trách nhiệm bảo hộ công việc của chúng tôi, những cư dân hoạt động có thẻ khi
chúng tôi không làm gì vi phạm luật pháp…Có ý kiến bác lại: Sao không đưa các ý
kiến đó cho các báo mà lại đưa lên mạng; tôi trả lời: nếu đưa tới báo thì báo
không đăng; còn gửi cho những người có trách nhiệm, cơ quan có trách nhiệm có
liên quan thì tôi không muốn mang tiếng là người đi khiếu kiện, xin-cho…Tôi đề
xuất: Hay các ông lập ra một trang mạng tạo cơ chế cho một diện hẹp nào đó được
đọc, các ông quản lý để chúng tôi viết trình bày chính kiến của mình: Điều nào sai
các ông phản bác, điều nào đúng để những người có trách nhiệm tiếp thu; chúng
tôi cũng chỉ mong có thế, vì không có nơi vui vẻ tiếp nhận nên chúng tôi phải
tung lên mạng, lên trời…
Tóm lại, cho rằng hiện nay so với báo
chí chính thống thì các trang mạng xã hội có điều kiện bộc lộ chính kiến của
người viết hơn; vấn đề mà tôi đề câp, kết lại: làm sao để các nhà báo được sống
hết mình với tin bài của mình như các trang mạng xã hội, có như thế báo chí mới
góp phần hữu ích vào đời sống xã hội…Vấn đề này nó vượt ra ngoài phạm vi cuộc
hội thảo này vì nó vướng vào cơ chế, chính sách; Cuộc hội thảo này chỉ bàn tới
một vấn đề thuộc phạm vi nghề nghiệp thông tin của báo chí. Tôi muốn bàn tới
cái gốc của vấn đề đó là cơ chế-chính sách quản lý thông tin báo chí thuộc trách
nhiệm của Bộ Thông tin-Truyền thông; Để phát biểu điều này phải là cuộc hội
thảo do Bộ Thông tin-Truyền thông tổ chức và chủ trì…Cách đây không lâu, tôi có
đọc văn bản soạn thảo về Nghị định Internet sửa đổi, tôi thấy vô lý vì trong đó
có một dòng ghi đại ý: thông tin báo chí mới là chính thống, hợp pháp còn thông
tin trên mạng xã hội là không chính thống…Bộ TT-TT cứ quy định còn người đọc
người ta cứ vào các trang mạng xã hội để đọc, các hãng thông tấn nước ngoài có
uy tín vẫn tiếp cận các blogger để lấy tin vậy thì cái chính thống mà Bộ Thông
tin Truyền thông quy định đó ai nghe, ai theo, ai tin và tin ai ?
Nếu không bàn tới cơ chế chính sách
giải phóng sức sản xuất cho các nhà báo được hành nghề, bộc lộ chính kiến của
mình như các blogger thì nếu có tờ báo nào đó mời tôi viết bài tôi cũng lại
viết như các nhà báo, nếu muốn được đăng… Từng là người tham gia quản lý báo
chí, thực ra ở ta báo chí vướng luật phần nhỏ vì luật pháp lĩnh vực này đang sơ
lược và tù mù, báo chí ở ta đang bị chi phối bới các định hướng của các cơ quan
quản lý tuyên giáo; mà định hướng theo kiểu kiêng kỵ những vấn đề nhạy cảm thì
các nhà báo không biết đâu là lần…
P.V.Đ
No comments:
Post a Comment