3.12.2012
Vài
lời giới thiệu của người gợi chuyện: Nhà thơ Lâm Hảo
Khôi, tác giả thi tập Người Như Lá Biếc, sanh năm 1947, tại Phnom Penh, Cam
Bốt. Nguyên quán làng Bố Thảo (Sóc Trăng). Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Cần Thơ,
Ban Khoa Học (SPCN). Hiện cư ngụ tại Sydney, NSW (Úc Đại Lợi). Có thơ văn đăng
trên các báo, tạp chí ở Úc và một số ở Mỹ, Canada. Anh là em ruột của nhà thơ
Lâm Hảo Dũng. Tháng 10 năm 2012 trong chuyến đi Canada và Hoa Kỳ, anh có ghé
Houston thăm tôi. Dịp này chúng tôi có nhắc nhiều về vùng sông nước Hậu Giang
trong đó phần lớn những địa danh mà anh đã đi qua các vùng trong địa hạt Cần
Thơ, Sóc Trăng mà tôi hồi xưa có nhiều bận đã đến các nơi ấy.
Sau
khi anh về lại Sydney, tôi đưa ý kiến là hai anh em sẽ nhắc lại cuộc trò chuyện
vừa rồi và bổ túc nhiều chi tiết mà vì lúc gặp nhau ở Houston không có nhiều
thời giờ để nói chuyện với nhau cho hết. Chính vì vậy mà hôm nay có cuộc tâm
tình cùng với nhà thơ Lâm Hảo Khôi như dưới đây.
Ở
đây vì là “tâm tình,” nên không mang tính chất phỏng vấn hoặc vặn hỏi một cách
khô khan, ước lệ mà chỉ nhằm chia sẻ những nỗi niềm cùng những kỷ niệm về những
nơi chốn mà mỗi người có thời đã ghé lại, thành ra có vài câu chuyện được kể
lan man là do chủ đích của người gợi chuyện. Nếu có điều gì không phải, mong
quý vị lượng tình bỏ qua cho.
Xin
được trân trọng giới thiệu cùng quý vị buổi tâm tình này như một chút tình văn
nghệ, tình đồng hương của những người cùng uống chung dòng nước mát Hậu Giang,
hy vọng mang lại cho quý vị một chút vui vui trong cách nói chuyện vòng vo tam
quốc này vậy!
Trân
trọng,
Lương
Thư Trung
Houston ngày 21 tháng 11 năm 2012
Houston ngày 21 tháng 11 năm 2012
*
Lương
Thư Trung (LTT):
Anh
Lâm Hảo Khôi thân,
Cuối
tháng 10 vừa rồi, dịp anh sang Canada và Hoa Kỳ, có ghé Houston, gặp anh lần
đầu được biết quê anh làng Bố Thảo, Sóc Trăng , tôi nhớ quen quen tên gọi làng
Bố Thảo ấy, vì hồi còn đi học, tôi hay xuống thăm ông anh tôi đóng quân ở Bố
Thảo, Tiểu đoàn 402 Công Binh Chiến Đấu. Nghe tên thì quen vậy, nhưng tình
thiệt là tôi không biết gì nhiều. Anh có thể phác họa sơ lược vài nét về làng
quê Bố Thảo của anh ngày xưa ấy không? Và sao gọi là Bố Thảo, anh Khôi?
Từ
phải, nhà thơ Lâm Hảo Khôi và LTT (Houston, ngày 21-10-2012)
Lâm Hảo Khôi (LHK):
Anh
Trung,
Tới
giờ cũng chưa có nghe gì về tên địa danh Bố Thảo (BT). Có người chắc dựa theo
chiết tự nói:
-Bố
là tên cây bố.
-Thảo
là cây.
Nới
có nhiều cây bố,lọai cây trồng lấy vỏ làm dây thắt võng, làm dây luộc xài cho
miền quê. Nhưng tôi nghĩ lối giải thích này cũng chưa hợp lý mà cũng ít nghe ai
nói tới nhiều.
Để
tôi hỏi vài người Bố Thảo gần đây, có gì cho anh hay.
Người
Miên thì gọi địa danh Bố Thảo là : “Tà núp.” Bởi đất này xưa là Thủy
chân Lạp thuộc Miên nhưng vì đất trũng ngập nước, người Miên thích gò cao nên
họ bỏ đi, người Minh Hương, người Việt tới ở. Xưa nghe bà ngoại tôi kể lâu lâu
có “giặc Chòm” hay tới cướp phá,mỗi lần họ tới bà con phải gồng gánh
chạy lánh nạn vô sâu trong rừng cho tới nghe êm đâu đó mới trở lại sinh sống.
Theo đoán “giặc Chòm” là một số người Miên không tốt lâu lâu tụ tập cướp bốc
rồi rút về nơi họ ở, thời đó chưa có chính quyền ở gần, những người dân đi lập
nghiệp sống dựa nhau thành chòm xóm phải lo tìm cách tự bảo vệ cho nên ai cũng
có phong trào học vỏ Tàu,bằng cớ là nhà Ngoại tôi còn một cây gõ tròn dài dùng
làm cây gài cửa, nghe nói hồi đó mấy bác tôi học vỏ múa cây, để giữ nhà nhất
là khi mùa lúa tới..
-Người
Tàu gọi Bố Thảo là “Potháo” là đọc từ Bố Thảo mà ra.
LTT:
Anh
Khôi,
Ngoài
ra, làng Bố Thảo, ở đó nó có một dòng sông chảy ngang qua làng, một rặng tre
làng, những gốc bần, những gốc gáo mọc dài theo mé sông và ruộng lúa thì rì rào
trong gió chiều không?Thổ sản chính vùng quê Bố Thảo của anh là gì, anh Khôi?
Chắc hồi nhỏ anh học nơi mái trường làng Bô Thảo? Khi lớn lên anh có theo học
trường trung học công lập Hoàng Diệu không? Tỉnh lỵ Sóc Trăng của anh có lớn
lắm không?
LHK:
Anh
Trung,
Bố
Thảo có dòng sông chảy qua, thực ra là dòng kinh xáng, do xáng múc từ thời Tây.
Nếu anh đứng giữa Cầu Quay chợ Sóc Trăng (ST) nhìn thẳng theo kinh xáng sẽ thấy
Bố Thảo
(BT) tuốt đàng xa nhưng vì cây bần cây dừa mọc gie ra bờ nên không rõ.
Tôi
không biết cây gáo, chỉ nghe tên. Dọc bờ kinh xáng có nhiều bần,thuở nhỏ tắm
sông, hái bần bắt ổ chim dòng dọc có khi bị ong đánh phải nhảy xuống sông lặn
muốn ngộp thở,uống nước no bụng.Dọc bờ có dừa nước thường những khoảng thưa
thớt dân cư. Ô rô, cóc kèn, cây mái giầm,nhất là rau dệu (có người đọc là rau
diệu) một loại rau mọc hoang ở bờ sông, không biết có phải nó giống như là “rau
trai” thuộc họ cây “nghể, rau răm,” hay không?Thân rau dệu có nhựa nhớt, nhưng
luộc ăn mềm ngon. Rau luộc chấm cá kho hay mắm kho là món ăn bắt miệng cho bà
con ở miệt ruộng đồng. Ảnh hưởng cách ăn uống của người Miên, dân BT nấu canh
thường nên mắm cho đậm đà hơn(thay vì muối hay nước mắm) ngoài ra còn thêm sả.
Cho nên món đặc sản ở BT-ST là “bún nước lèo.” Nếu anh nói “bún mắm” thì tôi
biết anh không phải là người BT -ST.
LTT:
Anh
Khôi,
Vâng,
nghe anh nhắc những cây bần mọc cặp mé sông, rồi ô rô, cóc kèn, mái giầm, dừa
nước, rau dệu, rau trai làm tôi nhớ những ngày lang thang xuống vùng nước pha
chè miệt Hỏa Lựu, Vị Thanh rồi ngụp lặn vào đời sống gian lao vô định ấy mà bồi
hồi nhớ lại một khoảng đời lao nhọc để biết được hôm nay mình còn mạnh giỏi là
một diễm phúc biết bao! Phần nhiều những loài cây cỏ vừa kể rất thích hợp với
các vùng nước mặn pha chút nước ngọt, mà mình thì ở vùng nước ngọt mới tới nên
việc thích nghi với môi trường mới vào những năm tháng ấy, quả là không dễ dàng
chút nào! Cây gáo còn có tên là cây “huỳnh bá,” một loại cây lớn, gỗ màu
vàng, chiều cao có khi tới 15 thước, lá hình trái tim hoặc hình tròn tròn, bông
nở rất thơm. Có hai loại gáo, gáo trắng và gáo vàng. Gáo trắng trái như trái
chôm chôm. Gáo vàng trái tròn da láng. Trái gáo hơi chua chua, ăn với muối ớt
rất ngon, mọc vùng kinh rạch miền Tây của mình rất nhiều. Anh đi lên miệt Măc
Cần Dưng rồi vô Cần Đăng, Hang Tra, Trà Kiết, Vĩnh Hanh, hoặc qua Ba Bần, Kinh
Xáng Bốn Tổng, rồi vô Định Mỹ hoặc đổ qua miệt Phú Hòa, Vĩnh Chánh, Bờ Ao, Bắc
Dục, Cái Sao, Rạch Gòi hoặc xuống miệt Thủ Ô, Tân Bình, Mương Kinh, Xẻo Tre,
Xẻo Môn thuộc vùng Lấp Vò, đâu đâu cũng có trồng gáo. Loại cây này dễ trồng
lắm, chỉ chặt nhánh cắm xuống cặp mé kinh là nó sống hoài hà, không phải lo săn
sóc nhiều mà rất tiện dụng. Bộ rễ giữ đất không bị nước cuốn trôi sạt lở; nhánh
làm củi, chất chà; gỗ làm vách, lót sàn nhà…
Còn
thời học trò của anh thì sao?
LHK:
Anh
Trung,anh nhắc nhiều về cây gáo,thực tình tôi cũng chưa từng thấy ở lòng vòng
miệt Bố Thảo, bởi xung quanh đây chỉ là ruộng đồng trống trơn sau mùa gặt có
thể ở miệt vườn Kế Sách, Đại Ngãi có thể có cây gáo mà anh nhắc.
Hồi
nhỏ tôi học tiểu học ở Bố Thảo, trường gần nhà,thời đó đi học ngày hai
buổi,trưa có giờ nghỉ chạy về nhà ăn cơm.Thầy cô giáo đa số ở ngoài tỉnh ST,
Cần thơ tới dạy,nên thầy cô ở trọ ăn cơm tháng.Tôi nhớ thời 54 đồng bào miền
Bắc vô tỵ nạn CS có một thời họ ở dọc theo hàng ba nhà tôi và hàng xóm sau đó
mới được đưa về các khu định cư khác.Thời đó chính quyền của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm cho lệnh xài tiền xé hai cho dễ dàng việc mua bán, trao đổi. Ba tôi
đi dạy học xa má tôi cũng thường đi mua bán xa nhà đôi ba bữa mới về. Sáng bà
ngoại tôi lấy một đồng bạc xếp đôi ngay ngắn rồi lấy kéo nhắp một cái, cho tôi
và anh Dũng tôi mỗi đứa năm chục xu; mua được gói xôi, hoặc khoai mì khoai lang
luộc.Trường học từ lớp năm tới lớp nhứt hết lớp nhứt thi vô lớp đệ thất trường
công ở ST, lúc đầu là Trung học công lập Khánh Hưng, sau là Trung học Hoàng
Diệu (Ba Xuyên).
LTT:
Anh
Khôi,
Anh
vừa nhắc thời kỳ xài tiền xé làm hai. Thời ấy tôi cũng học lớp Nhì, lới Nhất
trường Tiểu Học Bổ Túc Bình Hòa (Long Xuyên) cũng mua xôi, bắp hầm, mua mía, cà
rem cây hoặc cốc, ổi bằng cách xé làm hai tờ giấy một đồng trả cho bà bán hàng.
Được biết nhà thơ Lâm Hảo Dũng là anh ruột của anh mà anh cũng vừa mới nhắc.
Trong lần trao đổi với nhà thơ Trần Phù Thế cách nay gần hai năm, anh TPT có
nhắc đến anh Lâm Hảo Dũng và anh:
Năm
học Đệ Tam năm 1962 (học trò gọi là năm ăn chơi). Trần Phù Thế (Mặc Huyền
Thương) cùng với Lâm Hảo Dũng (lúc đó bút hiệu Mây Viễn Xứ), Lưu Vân (Tăng
Quang Duyên), Triệu Ngọc (Trần Hữu Hạnh) thành lập nhóm thơ “Cung Thương Miền
Nam.” Thời gian sau có thêm Nguyễn Lệ Tuân (Nguyễn Minh Y) và Trần Biên Thùy
(La Phước Hùng). Trước đó Thị xã Khánh Hưng đã có thi đoàn Hoa Hậu Giang của Lệ
Trường Giang hoạt đông. Năm sau thi văn đoàn Hồn Trẻ 20 ra đời với Vũ Ngọc Đức,
Phù Sa Lộc, Lâm Hảo Khôi (Trần Tử Lan) … Ngoài ra ở Sóc Trăng còn có nhà giáo,
nhà thơ Trần Như Liên Phượng nổi tiếng từ năm 1960 (phục vụ SĐ21/BB) đã tử trận
năm 1965 tại Chương Thiện. (Tạp chí Da Màu ngày 11 tháng Giêng năm
2011)
Dường
như trường trung học Hoàng Diệu (Ba Xuyên) là cái nôi của các thi văn đoàn “Cung
Thương Miền Nam” và “Hồn Trẻ 20″ lúc bấy giờ. Xin anh vui lòng kể
thêm một chút về những sinh hoạt văn học thời ấy ở Sóc Trăng và đặc biệt nhóm “Hồn
Trẻ 20″ của anh.
LHK:
Anh
Trung,
Ngoài
phần anh TPT nói tôi còn biết có anh Lan Sơn Đài lớn tuổi hơn tôi và anh Triều
Uyên Phượng (TUP). TUP cũng khoảng tuổi tôi học Hoàng Diệu nhưng chơi nhóm
khác. Anh Lan Sơn Đài được nhiều người biết đến. TUP cũng có vài bài đăng trên
VĂN, anh vừa mất một hai năm nay ở Sàigòn. Thư Quán Bản Thảo của anh Trần Hoài
Thư có dành nhiều trang viết về nhà thơ này gần đây. Anh chết trong cảnh nghèo
túng ở Saìgòn.
Nhóm
“Hồn trẻ 20” do một số anh em Hoàng Diệu thành lập,tôi nhớ năm đó tôi học Đệ
Tứ, Đệ Tam gì đó. Gồm Vũ Ngọc Đức (vừa định cư ỏ Hawaii), Phù Sa Lộc (hiện ở
Cần Thơ), Đặng Phước Đức (Thương Tử Tâm-California), Lý Thừa Nghiệp (Trầm Mặc
Nghệ Thế -Melbourne-Úc châu), Đỗ thị Minh Giang (Hồng Diễm -Mỹ,) Lệ Lệ (VN),
Nguyên Nghĩa (Trương Thanh Thùy – Toronto), Lê Tiền Duyên (VN), Lâm Hảo Khôi
(Trần Tử Lan-Sydney) và Trần Kiêu Bạt (Mỹ-đã qua đời). Trần Kiêu Bạt ở nhóm này
khác với một Trần Kiêu Bạc (hiện ở Mỹ).
Thời
đó chỉ là tập tễnh làm thơ gởi báo. Mỗi ngày ghé tiệm sách coi báo “cọp.” Thấy
có bài đăng mới hùn mua tờ báo đọc chung. Có lần thi sĩ Kiên Giang xuống Sóc
Trăng gặp anh em có thu giọng ngâm của một bạn với bài thơ trong nhóm cho
chương trình “Thi văn Mây Tần.”
Chúng
tôi ra được hai “tuyển tập”: Lá và Lưng Trần.
Nói
là tuyển tập nhưng mỗi người chỉ được góp một bài thơ. Đó là tờ giấy in lớn xếp
lại một trang nhỏ một bài. In xong chúng tôi tự xếp, chia nhau đi gởi các nhà
sách ở Sóc Trăng, gởi tặng bạn bè. Có lần ra bưu điện Sóc Trăng thấy một cô gái
gởi 2,3 tuyển tập thơ của nhóm cho người thân ở Đức tôi thấy vui làm sao. Gần
đây ở Gió-o tôi thấy ai đó gởi đăng 2 bài trích từ 2 tuyển tập đó: một bài 6-8
của Vũ Ngọc Đức và một bài tự do của Trần Kiêu Bạt.
Thời
gian cũng gần nửa thế kỷ rồi, anh em cũng viết lai rai tự xuất bản như:
-Nguyên
Nghĩa, với tập truyện ngắn Chờ Chết.
-Phù
Sa Lộc in vài tập thơ trong nước.
-Lý
Thừa Nghiệp in mấy tập thơ ở Melbourne.
-Đỗ
thị Minh Giang in một tập thơ ở Mỹ.
-Tôi
in một tập thơ ở Sydney, Người Như Lá Biếc (2011).
Chúng
tôi chưa có dịp để in chung một tập như mấy chục năm trước.
Tôi
nghĩ SócTrăng còn rất nhiều người làm văn nghệ tên tuổi khác mà do sự hiểu biết
quá hạn hẹp của mình tôi không được biết hết những người này, bởi mình chỉ
quanh quẩn một nhúm anh em bạn bè cùng trường cùng lớp.
LTT:
Anh
Khôi,
Anh
vừa nhắc bút hiệu “Trần Tử Lan,” bút hiệu này anh ký từ lúc mới làm thơ
hay là mãi sau khi có “Hồn Trẻ 20″ rồi mới có và anh mê thơ văn từ lúc
nào anh Khôi? Sao anh lại thích “Trần Tử Lan,” chắc có chút gì bí mật
đây?
LHK:
Anh
Trung,
Tôi
mê thơ có lẽ do máu văn nghệ của ba tôi truyền lại. Hồi bắt đầu lên trung học
tôi hay đọc mấy tập thơ tiền chiến trong tủ sách của ba tôi. Mà thực ra người
ảnh hưởng chuyện thơ thẩn của tôi nhiều nhất là anh Lâm Hảo Dũng (LHD).
Thời
lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ anh LHD đã làm thơ, nhờ một anh cùng xóm làm thơ ký đánh máy
ở Toà Hành Chánh Ba Xuyên đánh giùm.Tôi nhớ vài tuần anh đó mang về một xấp
giấy “polure” mỏng tanh những bài thơ của anh Dũng. Bạn bè gặp nhau ngồi bên
bình trà dưới ánh đèn dầu đọc thơ. Thời đó tôi chưa thấy ai uống rượu.
Cho
nên tôi cũng tập tễnh thơ từ lớp Đệ Ngũ rồi tới Đệ Tứ, Đệ Tam thì chơi chung
với anh em “HồnTrẻ 20.” Có lần tôi được đăng một bài thơ trên “Phụ Nữ Diễn Đàn”
do Thanh Việt Thanh coi mục thơ. Anh Dũng đọc được,về nói với tôi: “Bữa
nay tao thấy báo đăng một bài của thằng nào tên Trần Tử Lan ở Ba Xuyên, mầy
biết nó không, tao thấy cái e nó làm giống tao quá!”
Tôi
ngồi im re, hôm sau đạp xe đi học, tôi ghé tiệm sách mua tờ báo. Sau đó tôi
cũng không nhớ là anh LHD biết tôi làm thơ lúc nào. Tên TTL rất là cải lương,
tôi dùng nó khi chơi ở “Hồn Trẻ 20,” cho 2 tuyển tập của nhóm, cho những bài
thơ gởi báo ở Sài gòn hay báo Xuân ở Trung Học Hoàng Diệu.
Sau
đó khi lên Đại Học Cần Thơ năm 67 tôi lấy tên thật cho tới giờ.
Từ
trái, ca sĩ Duy Trác, nhà thơ Lâm Hảo Khôi (Sydney), người bạn của anh LHK (Cựu
học sinh Trung Học Tống phước Hiệp, Vĩnh Long) dự buổi ra mắt sách của nhà thơ
Nguyễn Xuân Thiệp tại nhà hàng Calvas (Houston) chiều ngày 27-10-2012
LTT:
Anh
Khôi,
Qua
vài hàng tiểu sử, được biết anh chào đời ở Nam Vang. Sao lại lên Nam Vang anh
Khôi?
Trong
gia đình có hai anh em cùng làm thơ nên anh mê thơ và chịu ảnh hưởng của anh ấy
cũng là điều dễ hiểu. Nhưng từ những ngày tháng xa xưa ấy và mãi tới sau này
khi anh lớn lên và vào đời có khi nào anh hoặc anh Lâm Hảo Dũng làm xong một
bài thơ rồi cùng trao cho nhau đọc và góp ý không? Nếu có, anh LHD nhận xét về
thơ anh “ngoài cái e nó làm giống tao quá,” còn có ý kiến nào khác nữa
không?
Ngoài
ra, như anh cho biết, năm 1967 anh lên Cần Thơ học Đại Học, lúc bấy giờ anh học
ngành gì anh Khôi? Văn Phòng Tổng Thư Ký Viện Dại Học Cần Thơ có còn ở đại lộ
Hòa Bình không? Ngành học mà anh chọn có giúp gì cho những vần thơ của anh vào
lúc ấy không?
LHK:
Anh
Trung,
Thời
đó ba má tôi lên Nam Vang làm ăn. Ba tôi làm cho hãng của Tây, má tôi thường
qua lại VN để thăm gia đình. Má tôi kể trên một chuyến tàu thủy Sàigòn -Nam
Vang,lúc đó bà đang mang thai tôi ,tàu bị cháy do người đun nồi súp de say
rượu, cũng may tàu cấp cứu từ Nam Vang ra kịp. Tôi sanh ở Nam Vang, ba má tôi
trở về lại VN khi tôi còn nhỏ nên tôi không biết gì về Nam Vang cả.
Chuyện
làm thơ thì giữa tôi và anh Dũng chưa lần nào anh em tôi đọc thơ cho nhau nghe.
Chuyện ai nấy làm. Tôi cũng ngại khi nói về thơ anh Dũng. Cho nên khi anh Trần
Hoài Thư làm một chương về anh LHD trong Thư Quán Bản Thảo có kêu tôi góp bài,
tôi từ chối, bởi tôi nghĩ nên để bạn bè viết thì hay hơn.
Hồi
ở Cần Thơ tôi học Khoa Học (Sư Phạm Cần Thơ), lúc đó văn phòng Viện trưởng còn
ở đại lộ Hoà Bình như anh biết đó. Khoa học, môn học này chắc không liên quan
gì tới thơ thẩn.
LTT:
Vâng,
tôi hiểu điều ấy vì mình có thể chia sẻ điều này điều khác với bạn bè nhưng với
anh chị em trong nhà thì ít hoặc “chưa lần nào anh em tôi đọc thơ cho nhau
nghe” như anh vừa kể. Nhơn nhắc về Cần Thơ nơi anh theo học, tôi cũng có
rất nhiều kỷ niệm. Mùa hè 1962, tôi về đó thi kỳ thi Tú Tài I, mùa Hè 1963 tôi
lại về Cần Thơ thi Tú Tài II. Hồi những năm tháng đó cả miền Tây mình chỉ có
Cần Thơ là hội đồng thi văn bằng Tú Tài duy nhất. Còn trước đó những năm
1950-1960, thi văn bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng phải về Cần Thơ. Các nam
thanh nữ tú từ Châu Đốc, Long Xuyên xuống, từ trong Rạch Giá ra, từ bên kia
sông Tiền Giang như Cao Lãnh cũng đổ về Cần Thơ. Rồi Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà
Vinh nằm giữa hai sông Tiền sông Hậu cùng theo đường xe qua bắc Cần Thơ về Tây
Đô dự thí. Và miệt dưới như Sóc Trăng của anh, Bạc Liêu, Cà Mau cũng kéo nhau
về Cần Thơ những mùa thi cử hằng năm như vậy. Mỗi kỳ thi thí sinh hội tụ lại có
tới mấy ngàn người, và nhất là các chị nữ sinh, dưới mắt tôi thời ấy người nào
cũng đẹp, cũng dễ thương hết biết. Rồi trước ngày thi nào là tìm nhà trọ có nấu
cơm cho thí sinh, dò phòng thi, dò chỗ ngồi, ôn lại bài. Hồi đó từ nhà quê lên
tỉnh lớn, tôi thấy cái gì ở Cần Thơ cũng lạ, cũng lớn, vui lắm. Hình ảnh Cần
Thơ mà tôi nhớ hoài là các nhà trọ nấu cơm cho thí sinh khắp nơi về dự các kỳ
thi như vừa kể là họ tử tế lắm, rất thương học trò và các món ăn họ nấu món nào
cũng ngon. Mấy năm đó tôi thường ở trọ các nhà ngang trường Trung học Đoàn Thị
Điểm trên đường Ngô Quyền.
Sau
này có dịp về lại Cần Thơ tôi ở trọ vài nơi như Hẻm số 2 đường Nguyễn Trãi,
hoặc gần chúa Cây Bàng chỗ chợ Cả Đài đi vô một đỗi nữa, hoăc có lúc tôi cũng ở
gần cuối con đường Cống Quỳnh đi vô vườn sầu riêng Thầy Cầu ngang chùa Sư Nữ.
Rồi những năm 1967, 1968, những địa danh mà trong thơ anh có nhắc như cầu Tham
Tướng, lộ Hai Mươi, bến Ninh Kiều, đối với tôi hôm nay không chỉ là những điạ
danh, mà còn là những kỷ niệm một thời!
Cần
Thơ có cái vui là ngoài đường cái xe cộ ồn ào như vậy nhưng khi mình bắt đầu
rảo bước trên những con hẻm tráng xi măng thì khung cảnh lại khác hoàn toàn.
Dưới ánh nắng trưa nóng bức của vùng gió mùa vào mùa hè, những bóng cây mận,
xoài, mít, ổi trong các con hẻm làm dịu lại cái nắng gay gắt đi nhiều. Mình đi
dưới bóng mát của những vườn cây trĩu trái ấy, văng vẳng đây đó tiếng gà gáy
trưa mà nghe như mình đang lạc vào một vùng quê êm đềm của thuở thanh bình!
Dĩ
nhiên rồi, thế hệ của anh và của tôi vào thời ấy, mỗi chúng ta không ai có
những chọn lựa ngành học thích hợp với sở nguyện của mình. Chẳng hạn như anh
thì thích thơ văn nhưng khi đậu vào Đại Học Sư Phạm Cần Thơ lại lọt vào Ban
Khoa Học. Còn tôi học toán rất dở vậy mà cũng buộc phải học cho bằng được các
bằng Tú Tài ban B, vì tuổi trẻ của anh và tôi, chúng ta đang ở vào những năm
chiến tranh nên học Toán như tôi hay Khoa Học như anh không vì mình thích mà vì
để còn ứng dụng sau này khi mình không còn trẻ nữa. Như anh thấy, nói thì nói
vậy, nhưng qua rồi gần một đời người sáu bảy chục năm, chúng ta chẳng áp dụng
được gì nhiều về mấy môn toán mà hồi đó học gần chết!
Đó
là chưa kể những ngành học chuyên môn phải thi tuyển lúc nào cũng khó đậu vì số
thí sinh dự thi tới vài ba ngàn, mà số trúng tuyển chỉ vài trăm là nhiều lắm
rồi. Nên theo chỗ tôi được biết ngành nào có mở thi tuyển là mình có nạp đơn dự
thi, trúng đâu thì đi học ở đó, chứ có chọn lựa được gì đâu phải không anh
Khôi?
Trở
lại thi tập Người Như Lá Biếc của anh, mở đầu anh có vài lời “Cảm ơn
Ngoại, cảm ơn Má” và “cảm ơn những cô gái một đời xuôi ngược trên dòng
Kinh Xáng Bố Thảo; mà những vạt áo bà ba vẫn còn khua động trong tâm hồn tôi
cho tới bây giờ…”. Và rồi anh còn ghi thêm: “Cảm ơn Nguyễn Thị K, Nguyễn
Thị T.H, Ng. QN, những người đến rồi đi ….”
“Cảm
ơn Ngoại, Cảm ơn Má”
thì dễ nhận trong thơ anh qua những vần thơ nhớ Ngoại, nhớ Mẹ tha thiết vô
cùng; nhưng “Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị T.H, Ng. QN, những người đến rồi đi
.…” Không biết có phải là những cô sinh viên ngành mô phạm một thời với anh
không, người Cần Thơ, hay Sóc Trăng hoặc một vùng quê nào của xứ xở miền Tây
mình, anh Khôi?
Ngoài
ra, kể từ những ngày còn là học sinh lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ anh đã bắt đầu làm thơ,
tính đến nay đã gần năm mươi năm rồi, anh mới cho chào đời tác phẩm đầu tay
này. Lý do nào mà có sự chậm trễ này, anh Khôi?
Bìa
thi tập “Người Như Lá Biếc” của
Lâm Hảo Khôi, Úc Đại Lợi, 2011
Lâm Hảo Khôi, Úc Đại Lợi, 2011
LHK:
Anh
Trung,
Tên
những người đến rồi đi là có thật và lai rai trong tập thơ có viết về họ.
Tôi
có tính lơ tơ mơ viết không đều. Có nhiều năm học ở Cần Thơ chỉ viết vài bài
gởi cho Khởi Hành (Viên Linh), rồi từ 71-75 ra dạy học cũng ít viết chỉ một số
bài trong các giai phẩm Xuân của trường.
Sau
75 tôi im luôn cho tới giữa năm tám mươi mới viết lai rai cho Làng Văn, ít năm
rồi cũng im. Bởi vậy quá lâu rồi mới có một tập cho mình. Anh nhắc chuyện lên
Cần Thơ thi tú tài một, tú tài hai làm tôi nhớ thời đi thi.Thời đó tôi cũng từ
SócTrăng lên Cần Thơ thi, ở trọ nhà anh Lê Tấn Nhứt ở lộ 19 gần hãng nước mắm
Nam Kỳ. Tôi quen Nhứt là qua anh LHD, thời anh LHD học ở Nông Lâm Súc Cần thơ,
ở trọ gần nhà Nhứt, rồi quen nhau. Nhứt cũng mê thơ nên dễ gần gũi anh LHD, từ
đó bút hiệu Trần Kiêu Bạt ra đời.
LTT:
Anh
Khôi,
Còn
bài thơ “Người Như Lá Biếc,” gồm bốn đoạn, mở đầu với bốn câu:
Người
như lá biếc trêu ngoài nội
Lòng dẫu vô tình cũng gió mưa
Người như chim biển theo muôn sóng
Đâu biết trường giang nước thở dài …,
Lòng dẫu vô tình cũng gió mưa
Người như chim biển theo muôn sóng
Đâu biết trường giang nước thở dài …,
và
anh kết với bốn câu:
Sao
chưa về lại cơn mưa nhỏ
Thấm mái hiên buồn thêm cuối năm
Có tôi độc ẩm đêm trừ tịch
Tắt ngọn đèn khuya lạnh chỗ nằm .…”
Thấm mái hiên buồn thêm cuối năm
Có tôi độc ẩm đêm trừ tịch
Tắt ngọn đèn khuya lạnh chỗ nằm .…”
Chắc
tác giả viết cho một giai nhân nào đã gặp nhau giữa dòng đời rồi lại chia tay
mà cứ nhớ hoài. Sao anh chọn bài “NNLB” làm tựa sách mà không là một bài
thơ nào khác anh Khôi?
LHK:
Anh
Trung,
Đúng
như anh nói lấy tựa bài “Người Như Lá Biếc” là nói về một người đẹp gặp
thoáng qua nhưng để lại nhiều dư âm. Có lẽ đó là cái bịnh của nhiều anh em văn
nghệ.
LTT:
Anh
Khôi,
Sau
gần 50 năm anh mới chọn lọc ra được 59 bài thơ cho tác phẩm đầu tay của mình,
phải kể là anh bỏ công chọn lọc rất kỹ lưỡng. Theo tôi, chính vì sự gạn lọc kỹ
như vậy nên những trang thơ của anh rất quý. Gặp anh hôm trước ở Houston, qua
phong cách một nhà mô phạm như anh: chừng mực, khiêm tốn, cởi mở và cư xử rặt
nét dân Sóc Trăng-Cần Thơ: thật tình, chơn chất, rộng rãi và hiếu khách, tôi
lại càng mến mộ và kính trọng anh hơn. Ngoài ra, nhân nhắc về phong cách miền
Tây ở anh, chẳng những ngoài đời là thế, mà nó được anh trải rộng ra trong từng
chữ từng câu anh dùng, đúng là dân miền Tây thứ thiệt!
Chẳng
hạn như bài “Ta về nhúm lửa cho nhau” diễn tả một mối tình quê rất giản
dị mà lãng mạn, rất quê mùa mà cũng rất đượm tình qua những đặc ngữ miền Tây
Nam Phần mà ai đã từng sống qua vùng sông nước Hậu Giang này phải công nhận tác
giả rất khéo chọn chữ và khéo dùng cho những ý thơ bình dị mà tha thiết ấy.
Ví
dụ ,“nhúm lửa,” “đợi cơm sôi,” ”khua chạm đáy nồi,” “lúa trổ,” “kêu bầy,”
“lung nước trong,” “cây bình bát,” “củi cháy,” “chin bói,” “giàn bếp cũ,” “mái
nhà xiêu”…, là những chữ bình dân được dùng hằng ngày nơi những những người
dân quê, không cao sang gì, không có chất văn thơ gì, nhưng qua bàn tay tài hoa
của anh, các nhóm chữ ấy trở nên đẹp đẽ và hấp dẫn những tâm hồn quê mùa như
tôi biết bao!
Vì
chữ nghĩa của tôi không nhiều, nên dù tôi có diễn giải gì đi nữa cũng không nói
hết được cái cảm của mình, nên đành xin phép anh chép lại vài đoạn của bài thơ “Ta
Về Nhúm Lửa Đời Nhau” mà tôi rất thích:
Đi
tiếc đời nhau sông nước cũ
Ta về nhúm lửa đợi cơm sôi
Nhớ em đầy chén thơm trong khói
Tình nở xanh khua chạm đáy nồi.
Ta về nhúm lửa đợi cơm sôi
Nhớ em đầy chén thơm trong khói
Tình nở xanh khua chạm đáy nồi.
Ngày
em lúa trổ ta xuôi ngược
Chim chóc kêu bầy lung nước trong
Em thơm trái chin cây bình bát
Tình nở xanh mùa em biết không.
Chim chóc kêu bầy lung nước trong
Em thơm trái chin cây bình bát
Tình nở xanh mùa em biết không.
Về
đây hơ ấm lòng chăn chiều
Củi cháy kêu than đỏ mắt chiều
Đâu nụ cười em môi chin bói
Bên giàn bếp cũ mái nhà xiêu.
Củi cháy kêu than đỏ mắt chiều
Đâu nụ cười em môi chin bói
Bên giàn bếp cũ mái nhà xiêu.
So
với các tỉnh miền Tây, từ Châu Đốc xuống Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Cà Mau,có lẽ Sóc Trăng của anh nhiều văn tài nhất với những tên tuổi như
Lâm Hảo Dũng, Trần Phù Thế, Phù Sa Lộc, Lâm Hảo Khôi và chắc còn nhiều vị nữa
mà tôi chưa có cái duyên được biết. Là một người làm thơ lâu năm, quê làng Bố
Thảo (Sóc Trăng), anh có cách nào giúp tôi nhận ra một tác giả là người gốc Sóc
Trăng khi mình chưa biết gì về tiểu sử của tác giả ấy không, anh Khôi?
LHK:
Anh
Trung,
Thật
sự làm thơ lâu nay, chọn lựa cho tập thơ vậy mà đọc lại nhiều bài nhứt là những
bài lục bát tôi không vừa ý chút nào,nếu không muốn nói là dở. Đọc thơ lục bát
của anh Trần Phù Thế tôi thấy đã lắm:
bậu
về mắt liếc đong đưa
gió xuân đầy mặt như vừa chín cây
gió xuân đầy mặt như vừa chín cây
Lục
bát như vậy mới là “tới”. Cho nên tự hẹn là kỳ sau sẽ đỡ hơn.
Tôi
vẫn bị cuốn hút bởi hình ảnh người con gái miền Tây áo bà ba, nó vừa giản dị,
đơn sơ mà vừa lãng mạn một cách khêu gợi, rất là khêu gợi dù nó vẫn như dịu
hiền kín đáo nết na đằm thắm. Tôi thích hình ảnh đó và dường như nó quyện lẫn
vào trong đời sống nơi thôn dã mà một thời tuổi thơ tôi đã trải qua ở đó.Tiếng lục
huyền văng vẳng trong đêm ở nhà anh Tư anh Sáu cuối xóm hay từ cái radio cũ kỹ
nửa đêm về sáng chợt nghe tiếng đàn Văn Vĩ đong đua trên chiếc xuồng tam bản.
Bài
“vọng cổ” là một điển hình, hình ảnh “tình anh bán chiếu,” khi bơi xuồng về một
mình,”phải nốt ruồi thương phu trích lệ/chém quân ta gẫy một tay chèo/phơi giữa
trường giang ma một bóng/mũi tên người xé gió bay theo.” Hình ảnh “gẫy một tay
chèo,” “ma một bóng” là hình ảnh cô đơn của anh bán chiếu thất tình, bơi xuồng
về như “thằng chết rồi!” Nhưng, bóng dáng kia vẫn còn đuổi theo chập chờn yêu
mị, “mũi tên người xé gió bay theo.” Hai câu chót “vói theo hơi rượu tay người
rót/là vỡ tan thây một chén ngà,” ở đây thấp thoáng hình ảnh Trương Chi -Mỵ
Nương.
Bài
“Ta Về Nhúm Lửa Chờ Nhau” là chuyện về một kẻ mải mê sông nước giang hồ. Tôi
thấy những mối tình quê nói là mộc mạc nhưng cũng rất lãng mạn, sôi nổi cộng
thêm cái hoang dã của đồng quê càng làm nó tăng tính quyến rũ mạnh bạo hơn cả
thị thành.
Cám
ơn anh Trung đã hiểu và thông cảm chia sẻ những cảm nghĩ của tôi, bởi tôi nghĩ
anh cũng lớn lên từ đồng ruộng nên tần số rung động giống như tôi trước những
dòng sông, chiếc xuồng, vạt áo bà ba, câu ca vọng cổ, cái nhịp song lang. Có lẽ
anh cũng từng quen nghe những tiếng “khà” quanh chiếc đệm giữa sân thắp đèn dầu
nhâm nhi rượu đế và mùi mẫn mấy câu dạ cổ hoài lang.
Sóc
Trăng, ngoài những người anh kể còn có những: Lan Sơn Đài,Triều Uyên Phượng, Lệ
Trường Giang như đã nhắc ở trên. Họ là những người có tiếng tăm nhiều. Ngoài
ra, chắc còn nhiều người nữa mà tôi không biết hết bởi mình chỉ tập tành chơi
với bè bạn cho vui vậy thôi.
Làm
sao để biết một người làm thơ chắc chắn là dân SócTrăng, nói một cách dè dặt
theo ý riêng tôi, có lẽ cũng hơi tức cười một chút là cứ coi họ dùng chữ “mình
ên” có đúng không (nếu trong thơ họ có chữ này). Bởi “mình ên” là tiếng địa
phương dân Sóc Trăng hay dùng hàng ngày. Thí dụ cô gái thay vì hỏi, “anh đi đâu
một mình vậy?” thì ở Sóc Trăng sẽ là ” hia đi đâu mình ên vậy?” Hia là anh,
tiếng Triều Châu. Nói vậy chớ không phải cô gái Sóc Trăng nào cũng xài chữ
“hia,” nên thường cô ta sẽ hỏi là “anh đi đâu mình ên vậy?” Nếu muốn chắc ăn
thì có dịp nào anh về Sóc Trăng mình ên để tìm hiểu thêm.
LTT:
Anh
Khôi,
Vâng,
tôi rất đồng ý với anh về cách dùng một vài chữ rất đặc biệt của mỗi miền mà
mình có thể đoán biết được tác giả ấy ở vùng nào, miền nào như chữ “mình ên”
mà anh vừa dẫn …. Thêm nữa, tôi nghĩ, một vài địa danh như Bố Thảo, Vàm Tấn, Kế
Sách, Cù Lao Dung, Đại Ngãi … mà các tác giả ưa nhắc như những nơi cố quận khó
quên của những ngày nào cũng là một trong những yếu tố để mình lần mò tìm biết
thêm về tác giả.
Tôi
hiểu được nỗi lòng của người bán chiếu cắm sào trên kinh Ngã Bảy năm xưa mà hồi
thời tôi còn rất nhỏ trên những con đường làng tôi đã được nghe đi nghe lại
nhiều lần qua những cái máy thu thanh cũ xài pin trong nhưng căn nhà vách lá,
những mối tình tuy ít có ngoài đời nhưng đối với những chàng trai cô gái quê
thời bấy giờ là những cuộc tình rất đẹp. Chẳng những tôi sanh ra và lớn lên từ
đồng ruộng như anh nói, mà cho mãi tới ngoài tuổi năm mươi, tôi đã làm ruộng
nhiều mùa, nên những gì anh ấp ủ trong thơ của anh, tôi rất dễ cảm thông và
chia sẻ cùng anh qua những nỗi niềm mà anh muốn bày tỏ ấy!
May
mắn được đọc thơ anh, được gặp anh, được tâm tình cùng anh qua chuyện quê quán
Bố Thảo, chuyện sinh hoạt văn nghệ những năm anh còn học các lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ,
chuyện vào đời với ngành Sư Phạm ở Cần Thơ và nhất là chuyện dùng chữ, dùng từ
trong tác phẩm đầu tay sau gần năm mươi năm anh làm thơ .… Bao nhiêu điều đó
đối với tôi là niềm vui được ôn lại những quãng đời với một người mà tôi ái mộ
và kính trọng. Những nơi anh đi qua và ghi lại trong thơ, tôi có biết; những
chữ bình dân thô sơ mà anh dùng trong thơ anh, tôi có nghe. Chính anh đã làm
cho nó hay hơn, êm ái hơn và dĩ nhiên ý nghĩa của nó cũng đẹp hơn nhiều. Là một
người nhà quê cùng có căn gốc ruộng đồng như anh, tôi xin chân thành cảm ơn anh
rất nhiều về cách ứng xử của anh cùng những bài thơ anh góp nhặt mang tặng cho
đời qua thi phẩm Người Như Lá Biếc, tuy gọn mà rất nặng này vậy!
Kết
thúc buổi tâm tình này, tôi xin chân thành cầu chúc anh nhiều sức khoẻ, gia
đình vạn an và anh vẫn còn nhiều cảm hứng trong việc trước tác …
Thân
mến.
LHK:
Anh
Trung,
Tôi
làm chút thơ thẩn chơi là để cùng anh em bạn bè trao đổi đọc cho vui với nhau.
Nhân biết anh qua anh Trần Phù Thế, anh đọc và có chút cảm tình với thơ tôi,
thì đó cũng là một niềm vui cho tôi. Biết anh là người chơn chất rặt tính Nam
kỳ có sao nói vậy người ơi như anh Lưu Nhơn Nghĩa ở Brisbane (Úc châu) mà tôi
thường gặp trước khi ảnh qua đời. Nói tới đây chắc cũng nên dành một phút nhớ
về anh Lưu Nhơn Nghĩa, một người đã đưa địa danh Xà Tón tới độc giả.
Anh
Trung, cám ơn anh đã nhắc lại nhiều hình ảnh kỷ niệm ở Sóc Trăng – Cần Thơ.
Những địa danh cầu Cả Đài, lộ 19, lộ 20, lộ Hoà Bình. Những kỳ thi tú tài mà cả
ngàn thí sinh từ các tỉnh miền Tây dồn về Cần Thơ để rồi sau kỳ thi là những
chuyện tình kéo dài theo sau thành những bài thơ, truyện ngắn,truyện dài ….
Anh
cũng làm tôi nhớ những bến bờ của dòng Kinh Xáng Bố Thảo .…
Cám
ơn anh đã cho tôi có một buổi nói chuyện tâm tình thân mật giống như mình đang
ngồi café Nguyễn Ngọ ở Houston.
Hy
vọng có dịp anh ngồi café ở Sydney, Brisbane để coi café miệt dưới có ngon
không? Để vừa nhâm nhi vừa nhắc chuyện cây bần, cây gáo ….
LTT:
Cảm
ơn anh Khôi. Hẹn gặp lại.
Sydney-Houston
ngày 21-11-2012
_______________________________
Cước
chú:
1/
Lúa trổ: Nghĩa bóng chỉ người đàn bà sanh nở. Nơi thôn quê, dân
ruộng chia lúa ra nhiều thời kỳ. Khi lúa mới mọc tới gần tròn tháng người ta
gọi là lúa trong tháng hoặc lúa non; khi lúa chiết ra để nhổ cấy giậm các chỗ
lúa bị hao được, thì lúa mà người ta nhổ chiết ấy gọi là mạ; lúa tròn mình gọi
là lúa con gái; lúa có đòng đòng gọi là lúa có chửa và lúa trổ là lúa bắt đầu
trổ bông. Lúa trổ cũng qua nhiều giai đoạn như lúa vừa mới trổ, rồi tới lúa bắt
đầu ngậm sữa, từ ngậm sữa chừng mười ngày tới nửa tháng sữa bắt đầu cứng thành
gạo và gọi là lúa ngậm gạo hoặc lúa vô gạo; lúa ngậm gạo lần lần làm bông lúa
nặng thêm đến khi bông lúa quằn xuống giống như trái me người ta gọi lúa cong
trái me; và lúa chín thì chín từ trên xuống và bông cái chín trước rồi mới tới
bông con, thời kỳ bông cái chín người ta gọi lúa đỏ đuôi bông cái.
2/
Bình bát: Là loại cây mọc hoang dọc theo bờ kinh, rạch, ao hồ hoặc mọc theo
bìa các rừng tràm. Có trái giống trái mãng cầu ta, hột nhiều, khi chín rất thơm
nhưng ăn đỡ đỡ chứ không ngon bằng mãng cầu. Ở các miệt Vị Thanh, Hỏa Lựu, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và các vùng nước pha chè, nước mặn rất nhiều loại bình
bát này và chúng có đặc điểm là ngập nước không bị chết nên các vùng ngập nước
người ta hay lấy da mãng cầu tháp vô cây bình bát để cây khỏi chết. Các loại
mãng cầu tháp bình bát trái rất lớn và nhiều, nhưng ăn hổng ngon bằng mãng cầu
rặt vì trái còn mùi bình bát. Có câu ca dao vui vui:
Lựu,
lê, bình bát, mãng cầu,
Bốn cây tứ quý anh sầu một cây.
Bốn cây tứ quý anh sầu một cây.
Thực
ra, theo giáo sư Phạm Hoàng Hộ: “Bình bát có tên khoa học Annona Reticulata L,
gọi là bình bát, coeur-de-boeuf. Thuộc loại tiểu mộc, cao đến 7m. Lá tròn-dài
đến thon, có mũi. Hoa 2-10 trên một trục ngắn; hoa vàng, cánh hoa hẹp. Phì quả
kép, to từ 5-12cm; mặt gần như trơn, nâu hay đỏ; hột màu nâu đen.” (Theo Cây Cỏ
Miền Nam Việt Nam của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, do Trung tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục
in năm 1970).
3/
Chín bói: chín lác đác một vài quả trong thời kỳ đầu cây mới có quả hoặc trên dây
như chuối chín bói, tiêu chín bói. Còn xoài chín bói thì gọi xoài chín cây.
Loại trái cây chín bói thì rất ngon và các loài chim khôn lắm, chúng bay vòng
vòng và gặp trái nào vừa đỏ ức và sắp chín là chúng đáp xuống mổ ăn liền mấy
trái chín bói này. “Môi chín bói” nghĩa bóng chỉ môi đỏ ửng như trái chín bói
trên cây vừa ngon ngọt vừa thơm.
4/
Khà: là hắt mạnh hơi trong cuốn họng ra sau khi nuốt một ngụm rượu.
Khà
một cái cho ngon coi nà,
Thơ suông nước ốc còn ngâm váng
Rượu bự non chai vẫn chén khà.
Thơ suông nước ốc còn ngâm váng
Rượu bự non chai vẫn chén khà.
(Theo
Việt Nam Tự Điển của Lê văn Đức & Lê Ngọc Trụ, nxb Khai Trí: 1970)
*
Bài
đã đăng của Lương Thư Trung :
Lời tự sự của
rừng già nhân ngày trái đất- 11.05.2012
Hãy luôn khao
khát, hãy cứ dấn thân: trò chuyện với Đinh Từ Bích Thúy về dịch thuật (phần 2)-
24.11.2011
Hãy luôn khao
khát, hãy cứ dấn thân: Trò chuyện với Đinh Từ Bích Thúy về dịch thuật (phần 1)-
23.11.2011
đám cưới trên
đồi (phần hai)- 16.09.2011
Đám Cưới Trên
ĐồI (phẦN 1)- 15.09.2011
một thời đam
mê: trò chuyện cùng Đinh Yên Thảo về tạp chí Văn học Nghệ Thuật Liên Mạng và
diễn đàn Ô Thước- 05.09.2011
An Giang, một
vùng cổ tích ở phương nam (kỳ 2/2)- 05.07.2011
An Giang, một
vùng cổ tích ở phương nam (kỳ 1/2)- 04.07.2011
Bên tách trà
với Đặng Kim Côn- 15.04.2011
đàm thoại với
nhà văn Trần Doãn Nho- 16.02.2011
Trò chuyện cùng
nhà văn Hoài Ziang Duy- 01.12.2010
Lá thư văn nghệ
gởi một người vừa mới quen- 14.04.2010
Về bông điên
điển và vài khía cạnh khác trong cuốn “Hương Vị Ngày Xưa” của tác giả Trần Văn
Chi- 01.03.2010
bông súng nở
giữa hồ nơi xứ lạ- 25.12.2009
Một thoáng nhớ
về Phạm Chi Lan với tạp chí “Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng” và nhóm “Ô Thước”-
21.09.2009
Nhớ về những bến
sông- 27.08.2009
Xà Tón và nhà
văn Lưu Nhơn Nghĩa - 27.01.2007
Chất liệu bình
dân trong thơ Tô Thùy Yên- 21.10.2006
No comments:
Post a Comment