Tiến sĩ Cynthia M. Horne
Phó Giáo sư, ĐH Western Washington
Cập nhật: 14:47 GMT - thứ bảy, 8 tháng 12, 2012
Tiếp tục loạt
bài khảo cứu về kinh nghiệm xử lý di sản chủ nghĩa cộng sản ở Trung và Đông Âu,
BBC xin lược giới thiệu với bạn đọc bài chuyên luận của Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Cynthia M. Horne, nhà nghiên cứu thuộc Western Washington University về các
khía cạnh đồng lõa, hiệu ứng niềm tin và kinh nghiệm thanh lọc xã hội ở các chế
độ hậu cộng sản.
Sau đây là nội
dung bài khảo cứu:
Mức độ tin tưởng
vẫn còn thấp ở các nước hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu, thậm chí sau hơn hai
mươi năm Bức tường Berlin sụp đổ. Một số học giả và các nhà hoạch định chính
sách mô tả những hiện tượng xuống thấp tới mức bệnh hoạn về niềm tin vào chính
phủ, vào các thiết chế công quyền, vào tư pháp và Quốc hội, cũng như vào người
khác là "một cuộc khủng hoảng về mất lòng tin".
Các di sản của
chủ nghĩa cộng sản bị cáo buộc là nguyên nhân gây ra ngờ vực và bi quan về lòng
tốt con người và các quan công quyền. Về bản chất, các di sản của chủ nghĩa
cộng sản gây ức chế khả năng người dân tin tưởng vào chính phủ, cảnh sát, đồng
nghiệp, truyền thông, các tổ chức dân sự của họ, như nhà thờ và các hội đoàn.
Sự ngờ vực được
chế độ cộng sản trước đây tạo ra bằng cách vừa chủ động vừa thụ động. Đã có
chiến lược được cố tình tạo ra nhằm gây ra sự mất lòng tin giữa công dân để đảm
bảo lòng trung thành trước hết với nhà nước. Mỗi quốc gia trong khu vực Trung
và Đông Âu có ‘phiên bản riêng’ của mình về cảnh sát chìm hay mật vụ, chẳng hạn
như là Stasi ở Đông Đức, Securitate ở Romania i và Komitet Durzhavna Sigurnost
ở Bulgaria. Cảnh sát mật và mạng lưới chỉ điểm mà họ tuyển dụng (hoặc cưỡng
chế) cộng tác cố ý tạo ra sự sợ hãi và mất lòng tin rộng rãi. Ví dụ, Stasi thực
hành chính sách Zersetzung hay một dạng khủng bố tinh thần gây phá hủy, đảo lộn
cuộc sống của đối tượng nào không chịu hợp tác. Sau năm 1989, quy mô rộng lớn
của các hồ sơ mật vụ và các mức độ cộng tác, đôi khi tự nguyện và đôi khi bằng
vũ lực, do thám bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và vợ hoặc chồng đã được tiết lộ.
Tất cả điều này hậu thuẫn sự ngờ vực có lý tính được tiếp diễn đối với chính
phủ và đồng bào.
Đồng lõa
Về đồng lõa tích
cực, người ta ước tính rằng ở Đông Đức, cứ tám công dân lại có một người hợp
tác hoặc làm việc cho mật vụ. Hợp tác với cảnh sát chìm tạo lập ra 1,35 triệu
hồ sơ ở Romania, các tài liệu có độ dài tương đương 15 km. Tại Albania, 25%
người dân trưởng thành làm việc bán thời gian như những chỉ điểm cho công an
mật, với 10.000 nhân viên làm việc toàn thời gian với cấp bậc quân sự. Cộng hòa
Czech có khoảng 19km hồ sơ lưu trữ. Thậm chí Bulgaria, nước có tỷ lệ cộng tác
với mật vụ tương đối thấp, chính quyền vẫn thuê từ 75.000-80.000 người dân làm
chỉ điểm, cung cấp thông tin bán thời gian và từ 15.000-20.000 người làm việc
toàn thời gian vào giai đoạn cuối của chế độ, bên cạnh từ 250.000-300.000 sỹ
quan làm việc toàn thời gian trong suốt giai đoạn cộng sản cầm quyền. Đây là
các tỷ lệ cao nếu so với một dân số chỉ 9 triệu người vào cuối năm 1989.
Ngay cả những
người tuy không cộng tác tích cực với cảnh sát mật vẫn có thể được coi là hoạt
động thụ động và do đó là “đồng lõa.” Vaclav Havel, nhà bất đồng chính kiến
đáng kính và sau này là cựu Tổng thống Cộng hòa Czech mô tả hiện tượng đồng lõa
có hệ thống đã buộc các công dân "sống trong sự dối trá." Như
Rosenberg mô tả trong bài báo “Ngoại giao” nổi tiếng của bà từ năm 1995:
“Các chế độ độc
tài Đông Âu biến tất cả xã hội trở thành những âm mưu. Hầu như tất cả mọi người
đều là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản khi phải sống theo nó, hầu như tất cả
mọi người đều tham gia vào việc đàn áp. Bên trong một chế độ cộng sản, mạng
lưới đồng lõa chạy như hệ thống tĩnh mạch và động mạch trong cơ thể con người
... Sự đồng lõa của họ được che dấu, ngay cả bởi bản thân họ, bởi thực tế rằng
tất cả các công dân bình thường đều cư xử theo cùng một cách."
Các tiết lộ về
phạm vi và chiều sâu sự đồng lõa với cảnh sát chìm, an ninh hay mật vụ cộng sản
đã làm suy yếu lòng tin trong xã hội. Ngoài ra, việc nhiều người trong số các
đối tượng từng nắm các vị trí quyền lực dưới chế độ cộng sản vẫn còn tại vị sau
đó đã là một nhân tố có vai trò rất tiêu cực trong việc làm cho người dân củng
cố niềm tin vào chính thể mới thời hậu cộng sản.
Thanh lọc
Giải quyết những
di sản gây mất lòng tin trong xã hội và nhà nước vẫn còn là một mối quan tâm
cấp bách đối với các chính phủ hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu. Nhiều nước
trong khu vực đã chuyển đổi sang các hệ thống pháp luật khác nhau thời hậu cộng
sản để xử lý các hành vi sai trái trong quá khứ. Một trong những hình thức phổ
biến về chuyển giao tư pháp ở khu vực này là thanh lọc.
Thanh lọc ở khu
vực Trung và Đông Âu là một tập hợp các quy tắc rà soát các vị trí việc làm của
quan chức, cán bộ trong một số lĩnh vực nhất định, được thiết kế để cấm các
quan chức cộng sản và các cựu cộng tác viên với mật vụ hay công an mật trước
kia, nắm các chức vụ cao ở các cơ quan công quyền, công cộng, hoặc đôi khi là
các chức vụ có thể gây ảnh hưởng và tác động tới niềm tin trong xã hội nói
chung. Về mặt biểu tượng, đây cũng có nghĩa là việc làm sạch về mặt đạo đức hay
thanh tẩy các "tội lỗi" của chủ nghĩa cộng sản.
Điểm then chốt
và trung tâm của thanh lọc là niềm tin rằng các cá nhân hay đối tượng từng phục
vụ hoặc hợp tác với mật vụ, hoặc từng nắm giữ các vị trí quyền lực trong chế độ
cộng sản, về mặt đạo đức đã bị nhiễm độc và không xứng đáng với các chức vụ
được công chúng đặt niềm tin theo chế độ dân chủ mới.
Vojtech Cepl,
tác giả của hiến pháp Czech và thẩm phán được bổ nhiệm của Tòa án Hiến pháp của
Cộng hòa Czech, cho rằng thanh lọc là một loại hình hy sinh còn có tính nghi lễ
nằm khôi phục trật tự xã hội, với vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi
"văn hóa đạo đức của công dân ở Đông Âu. Từ quan điểm này, thanh lọc không
chỉ tạo hiệu ứng cụ thể làm thay đổi hệ thống quan liêu bằng cách rà soát các
văn phòng công lập, bán công lập và các vị trí chức vụ, mà nó còn có chức năng
thanh tẩy đạo đức mang tính biểu tượng.
Biện pháp
Một số quốc gia
như Cộng hòa Czech đã ban hành chính sách thanh lọc sớm và rộng rãi, còn một
vài nước khác như Albania đã trì hoãn và hạn chế thanh lọc.
Chính sách thanh
lọc có thể nhắm vào nhiều loại vị trí, chức vụ khác nhau, từ các cơ quan cấp
cao của chính quyền như quốc hội, nội các chính phủ hay ngành tư pháp, cho tới
các vị trí chính trị cấp trung cao như như thị trưởng, lãnh đạo cấp khu vực,
cho tới các tổ chức quốc doanh hay của nhà nước như lãnh đạo, quản lý ngân hàng
hoặc lãnh đạo các công ty lớn, tới các nhà báo ở các cơ quan phát thanh truyền
hình hoặc truyền thông, cho đến các cá nhân, đối tượng làm việc ở các vị trí
gây lòng tin của công chúng như các học giả, giáo viên trung học, lãnh đạo công
đoàn và các giáo sĩ hoặc các nhà lãnh đạo tôn giáo.
Không quốc gia
nào trong số này biến luật thanh lọc thành những sự trừng phạt nghiêm trọng,
không có án phạt tù hoặc các vụ xét xử hành vi có tội nào.
Tuy nhiên, trừng
phạt có thể thuộc một trong hai dạng thức, thứ nhất là ngăn cản đối tượng vào
một vị trí lao động từ 5-10 năm, tùy thuộc vào quốc gia và/hoặc thứ hai chỉ đơn
giản là có thông báo chính thức về việc người đó từng đồng lõa, một hình thức
lộ diện, nhắm vào liêm sỉ. Luật thanh lọc ở các nơi có điểm chung là soi tỏ để
công chúng thấy trước sự chuyển động, tham gia của các đối tượng từng đồng lõa,
cộng tác với mật vụ, an ninh của chế độ cũ vào các vị trí quyền lực hoặc tạo
niềm tin của công chúng trong thể chế mới.
Các thông tin
được sử dụng trong quá trình thanh lọc thường bắt nguồn từ các hồ sơ của cảnh
sát mật. Nếu một cá nhân có một hồ sơ hoặc tên tuổi của mình xuất hiện trên các
biên bản, hồ sơ trong các cuộc họp, gặp gỡ với mật vụ, an ninh, anh ta có thể
được cho là phạm tội hợp tác, đồng lõa.
Thông tin về
việc mà bạn từng là một cộng tác viên của mật vụ, an ninh cộng sản được công bố
chính thức trên báo chí và trên mạng Internet, và thường dẫn đến các "cuộc
săn đuổi" như là các vụ cáo buộc. Hoặc thông tin có thể được công bố chính
thức hơn trong một danh mục công cộng được các cơ quan chịu trách nhiệm giám
sát hồ sơ loan bố, như trường hợp Viện Tưởng niệm Quốc gia tại Ba Lan hoặc Hội
đồng Quốc gia Nghiên cứu Tàng thư An ninh, Mật vụ ở Romania.
Có nhiều vấn đề
về tính chính xác của các thông tin hồ sơ. Tính xác thực của thông tin trong
các hồ sơ an ninh, mật vụ nổi tiếng là có các vấn đề, và nhiều hồ sơ đã được lọc
ra và tiêu hủy sớm từ đầu quá trình chuyển đổi chế độ. Ngoài ra, danh sách cung
cấp thông tin thường không xác định mức độ tham gia của đối tượng, do đó có thể
có những sai lầm trong việc quy tội cho một số đối tượng thụ động tham gia hoặc
thuộc bên thứ ba. Hệ quả là, việc công bố thông tin này có thể bị chỉ trích là
gây ra chia rẽ trong xã hội, và có thể trở nên lợi bất cập hại.
Hồ sơ
Công bố hồ sơ về làm mật vụ hoặc hợp với an ninh chìm đã
tác động đến nhiều các cá nhân nắm các vị trí cao cấp trong chính phủ, trong
các cơ quan công cộng và các tổ chức xã hội, cũng như với những người bất đồng
chính kiến, các học giả và các nhà báo. Các tiết lộ rằng các lãnh đạo đương
chức từng cộng tác với mật vụ cộng sản đã lật bày các vụ bê bối chính trị. Ví
dụ, cựu Tổng thống Bulgaria Georgi Purvanov bị tiết lộ từng là một cộng tác
viên. Cựu Tổng thống Ba Lan, Aleksander Kwaśniewski, cũng bị cáo buộc là sỹ
quan mật vụ "Alek". Hay Péter Medgyessy, cựu Thủ tướng Hungary, bị
tiết lộ là một sĩ quan đặc vụ dưới mật danh D-209.
Ở một số nước, danh sách các cộng tác viên cộng sản tiếp
tục bao gồm nhiều cá nhân làm việc trong tất cả các vị trí, tầng bậc của ngành
tư pháp, nghị viện, và nội các. Vào năm 2012, Ủy ban Hồ sơ của Bulgaria tiết lộ
rằng khoảng 40% viên chức Bộ Ngoại giao đương chức, bao gồm nhiều đại sứ cấp
cao, từng là các cộng tác viên của mật vụ cộng sản, điều đã khơi mào một vụ bê
bối chính trị. Sau năm 1989, khoảng 1.600 cựu sỹ quan an ninh Securitate vẫn
tiếp tục đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong các cơ quan tình báo của
Romania. Việc các cựu cựu sĩ quan mật vụ cộng sản và các cộng tác viên an ninh
chế độ cũ tiếp tục nắm các vị trí quyền lực chính trị và kinh tế làm nảy sinh
các vấn đề tham nhũng và làm quyền chính trị và đặc biệt tạo cảm giác bất công
xã hội đối với quá trình chuyển đổi thể chế, luật pháp.
Một số nhà lãnh
đạo bất đồng cũng bị cáo buộc là cộng tác viên, điều làm bôi nhọ hình ảnh và
câu chuyện về vai trò của họ trong cuộc thay đổi chế độ và trong cuộc Cách mạng
Nhung. Bản thân nhà lãnh đạo phong trào Công đoàn Đoàn kết và cựu Tổng thống Ba
Lan, Lech Wałęsa đã nhiều lần bị cáo buộc hợp tác với cảnh sát mật, và một hồ
sơ về ông đã được công bố để chứng tỏ rằng ông từng là cộng tác viên hoặc đặc
tình “Bolek.” Ông Walesa lúc đầu phủ nhận rằng hồ sơ này có thể tồn tại, sau đó
ông phản bác rằng hồ sơ chứa đựng thông tin sai lệch, và sau cùng tuyên bố ông
đã "chơi một trò chơi" với cảnh sát mật và không bao giờ thực sự cung
cấp cho họ bất kỳ thông tin nào.
Tương tự như
vậy, Marian Jurczyk, một lãnh đạo của Công đoàn Đoàn kết trong cuộc biểu tình ở
Szczecin vào năm 1980, đã được tiết lộ là một nhân viên mật vụ thời kỳ cộng
sản, mặc dù sau đó ông đã được một tòa án cấp thấp miễn tội. Tuy nhiên, sự đồng
lõa của các nhà lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết hàng đầu với cảnh sát mật đã đe dọa
làm hỏng hình ảnh mạnh mẽ và anh hùng về những người bất đồng chính kiến nói
chung ở Đông Âu.
'Gây sốc'
Tiết lộ về sự
đồng lõa của các tổ chức xã hội cũng tạo ra phân cực xã hội. Việc đồng lõa giữa
các giáo sĩ công giáo Ba Lan đã gây sốc cho đất nước đông đảo giáo dân Công
giáo này. Những tiết lộ này làm suy yếu niềm tin vào Giáo hội, một tổ chức sống
sót dưới chế độ cộng sản và cung cấp một diễn đàn công dân có tính chất thay
thế.
Đầu năm 2012, Ủy
ban Hồ sơ của Bulgaria tiết lộ rằng 75% các nhà lãnh đạo tôn giáo hàng đầu của
Hội Đồng Chính Thống Giáo cao cấp (Orthodox Holy Synod) ngày nay từng làm các
cộng tác viên với mật vụ. Niềm tin của các công dân vào nhà thờ ngay lập tức đã
giảm xuống. Do giáo hội ở cả hai quốc gia trước đó từng được xếp hạng cao về độ
tin cậy, việc tiết lộ hồ sơ đã gây ra một hiệu ứng tiêu cực mà không hề làm
tăng cường sự tin tưởng trong xã hội.
Việc truy cập hồ
sơ còn là một con dao hai lưỡi. Ở nhiều nước trong khu vực, nhưng không phải là
tất cả, luật về truy cập hồ sơ đã cho phép các công dân có thể tra cứu nội dung
hồ sơ cá nhân của họ. Những hồ sơ này có chứa thông tin lưu trữ về những gì
người khác thông tin cho chế độ về bạn, bao gồm những tiết lộ về sự phản bội
của bạn bởi các ông chủ, các đồng nghiệp, hàng xóm, và đôi khi bởi người thân
và vợ hoặc chồng.
Lòng tin giữa
các cá nhân hoặc niềm tin vào người khác hiện vẫn còn rất thấp trong khu vực,
so với các quốc gia hậu độc tài khác.
Đổi mới
Hơn 20 năm sau khi chương trình thanh lọc đầu tiên bắt
đầu vào năm 1991 ở Czechoslovakia, các nước trong khu vực Trung và Đông Âu tiếp
tục chuyển sang các chính sách thanh lọc để giải quyết các vấn đề hiện hữu của
họ về tham nhũng, lòng tin và dân chủ hóa. Năm 2008, Albania ban bố ‘Đạo luật Bàn
tay sạch’, trong một cố gắng để thúc đẩy những nỗ lực về thanh lọc chưa hoàn
thiện ở nước này. Năm 2012 cả Romania và Moldova đã thông qua luật thanh lọc
mới. Hungary ban hành luật thanh lọc giới hạn ban đầu vào năm 1994, nhưng vào
năm 2012, nước này kêu gọi đổi mới luật thanh lọc và quy định công khai về truy
cập hồ sơ cá nhân, một nội dung trước đó bị ngăn cản.
Còn các công bố
của Ủy ban Hồ sơ của Bulgaria năm 2011-2012 về lịch sử và hành vi đồng lõa, hợp
tác với mật vụ trong chế độ cộng sản cũ ở một số đối tượng trong các giới
truyền thông, học giả, nghị sỹ quốc hội và có thể cả ở một số nhà "triệu
phú khả tín," cho chúng ta thấy rằng quá trình thanh lọc dưới dạng thức
tiết lộ, công bố hồ sơ tiếp tục tồn tại và vận hành.
Nói tóm lại,
hiệu quả của luật thanh lọc và truy cập hồ sơ vẫn còn là một câu hỏi mở. Điều
rõ ràng là di sản của sự mất lòng tin vào các chính phủ và đồng bào của các
công dân vẫn tiếp tục có tác động tiêu cực đến xã hội và công việc quản trị nó.
Tác giả, Tiến sỹ
Cynthia M. Horne là Phó Giáo sư tại Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Western
Washington, giảng dạy và nghiên cứu các lĩnh vực từ kinh tế chính trị quốc tế
cho tới chuyển đổi thể chế, đặc biệt về thanh lọc như là một hình thức chuyển
đổi và đảm bảo công lý ở các quốc gia hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu.
No comments:
Post a Comment