Mary Elizabeth King
15 January 2012
3-12-2012
LGT. Ngày 15
tháng Giêng hàng năm đã được Quốc hội Mỹ chọn là lễ toàn quốc để tưởng niệm và
vinh danh Mục sư (MS) Martin Luther King; tổng thống Reagan đã ký ban hành đạo
luật này năm 1983. Bài viết dưới đây được Giáo sư Mary Elizabeth King viết nhân
dịp lễ tưởng niệm Mục sư King năm 2012. Giáo sư Mary King (không có quan hệ họ
hàng với MS King), tác giả bài viết này đã từng hoạt động chung với MS King
trong giai đoạn đấu tranh cho dân quyền của người dân Mỹ nói chung và người dân
Mỹ da đen nói riêng trong thập niên 1960. Giáo sư Mary King hiện đang dạy môn
học Nghiên cứu về Xung đột và Hòa bình của Học viện Rothermere American
Institute Fellow thuộc viện Đại học Oxford, Anh quốc.
***
Ta học sự
phản kháng bất bạo động như thế nào? Theo cách mà Martin Luther King Jr. đã
học, bằng nghiên cứu, đọc sách báo, và hỏi những người từng trải trong lãnh vực
này. King được công nhận là nhân vật có công nhất trong việc thúc đẩy và quảng
bá tư tưởng của Gandhi vào Hoa Kỳ, bằng cách thuyết phục những người Mỹ da đen
tiếp thu và điều chỉnh những chiến lược của Ấn Độ chống lại chủ nghĩa đế quốc
Anh cho phù hợp với công cuộc đấu tranh riêng của họ. Nhưng ông cũng chưa phải
là người đầu tiên đưa những kiến thức về đấu tranh bất bạo động từ phần tiểu
lục địa này vào Hoa Kỳ.Vào những thập niên 1930 and 1940, một loạt những nhà
lãnh đạo có tiếng tăm người Mỹ da đen đã du lịch qua Ấn Độ hoặc bằng tàu thủy
hoặc bằng máy bay cánh quạt. Nào là viện trưởng đại học, giáo sư, mục sư và
phóng viên đã du hành qua Ấn Độ để gặp Gandhi[1] và học cách thức kết hợp công cuộc đấu
tranh quần chúng với những phương tiện bất bạo động. Trở lại Hoa Kỳ, họ viết
bài đăng báo, truyền giảng trong nhà thờ, thuyết trình trong đại học và quảng
bá từ người này qua người kia những tài liệu thiết yếu cho các nhà lãnh đạo da
đen khác nghiên cứu. Sử gia Sudarshan Kapur đã chứng minh rằng những tư tưởng
của Gandhi đã chuyển tiếp ào ạt từ Ấn Độ qua Hoa Kỳ trong thời gian đó, và giới
truyền thông người Mỹ gốc Phi châu đã tường thuật cuộc đấu tranh giành độc lập của
Ấn Độ. Những người lãnh đạo trong cộng đồng người da đen đã nói về một “ông
Gandhi da đen” của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Một phụ nữ đã gọi chuyện đó là “đào
tạo một đấng tiên tri”, mà Kapur đã dùng làm nhan đề cho một cuốn sách của ông.
Khi còn là
sinh viên ở chủng viện Crozer Theological Seminary tại Chester, tiểu bang
Pennsylvania, King đã bị tư tưởng của Thoreau[2] và Gandhi hấp dẫn, mặc dù chưa thực sự
nghiên cứu kỹ về Gandhi. Một người bạn tên J. Pius Barbour, nhớ lại chàng giáo
sinh trẻ tên King đã biện luận để ủng hộ cho phương pháp của Gandhi bằng số
học, chứ chưa biết dựa trên nguyên lý của đấu tranh bất bạo động; đó là, bất kỳ
thiểu số nào, nếu thiên về chính sách bạo động cũng sẽ bị phe đa số đàn áp bằng
số đông.
Mặc dù vậy,
càng đọc nhiều về Gandhi, King càng tin hơn vào giá trị của triết lý đặt trên
“Lòng Yêu Thương;” một triết lý căn bản của King trong quá trình học tập để trở
thành mục sư Tin Lành của mình. Sau này ông viết, “Càng nghiên cứu kỹ về triết
lý của Gandhi, sự nghi ngờ mà tôi vẫn hằng có về năng lực của Lòng Yêu Thương
dần dần suy giảm, và đó là lần đầu tiên tôi nhận thức được khả năng của nó
trong việc cải tổ xã hội.” Không lâu sau khi King trở thành mục sư tại nhà thờ
Baptist tại đường Dexter, thành phố Montgomery, vào tháng 4 năm 1954, ông bắt
đầu nghiên cứu nghiêm chỉnh về những phương thức cơ bản để tổ chức một phong
trào đấu tranh bất bạo động.
Khi bà Rosa
Parks bị bắt giam vì từ chối nhường chiếc ghế của bà trên chiếc xe buýt công
cộng cho một người đàn ông da trắng vào ngày 1 tháng 12, năm 1955, JoAnn
Robinson, một người lãnh đạo trong “Ủy Ban Chính Trị Phụ Nữ” đã làm việc suốt
đêm để tổ chức một cuộc hành động quần chúng gọi là bất hợp tác kinh tế. King
đã được nhất trí bầu lên để lãnh đạo Hiệp hội Cải thiện Montgomery, nhằm duy
trì việc tẩy chay đi xe buýt trong thành phố.[3]
Khi phong
trào tẩy chay ở Montgomery bắt đầu, nhiều nhà hoạt động xã hội, những người chủ
trương hòa giải hòa hợp và cải cách, những tín hữu Tin Lành cấp tiến, và những
người theo chủ nghĩa xã hội đã đến thành phố này. Phấn khởi vì sự lãnh đạo của
King, họ tin là ông có thể đẩy cuộc đấu tranh cho công lý này đến một mức độ
chưa từng thấy ở Hoa Kỳ từ thời giải phóng nô lệ. Trong số đó là Bayard Rustin,
44 tuổi, lớn hơn King 17 tuổi, là người đã giúp King phát triển cuộc tẩy chay ở
Montgomery này thành một chiến dịch trưởng thành hơn. Liên Đoàn Những Người
Phản Chiến[4] đã cho phép Rustin làm việc toàn thời gian
với King trong công tác này.
Cộng đồng
người da đen ở Montgomery, cũng như những nơi khác ở miền Nam nước Mỹ, được
trang bị vũ khí, và một nỗi lo lắng đã bao trùm toàn thể cộng đồng người da đen
là cuộc đấu tranh này có thể trở thành bạo động. Rustin lo ngại là chính ông
King sẽ bị dao động nếu không có một nền tảng vững chắc và niềm tin sâu xa hơn
để dựa vào. Ban đêm Rustin đem thêm sách đến cho King đọc và giúp King phân
tích tư tưởng của Gandhi; [có thể nói,] Rustin là người thầy đầu tiên giảng
giải cho King về những yếu tố quan yếu của sự đấu tranh bất bạo động một cách
có hệ thống.
Chiến dịch
tẩy chay đạt được thắng lợi-qua phán quyết của Tối Cao Pháp Viện ngày 13 tháng
11, năm 1956, là luật địa phương tách biệt chỗ ngồi trên xe buýt là vi hiến-đã
nâng cao hy vọng cho việc bãi bỏ những chuyện phân biệt đối xử khác ở miền Nam.
Có thể nói, phong trào dân quyền ở Hoa Kỳ thập niên 1960, dựa trên những hành
động bất bạo động theo chiến lược của Gandhi, đã phần nào đạt được kết quả từ
sự thành công của sự đoàn kết hiếm có của cộng đồng người da đen ở thành phố
Montgomery của tiểu bang Alabama. King nói rằng, “Trong khi cuộc tẩy chay ở
Montgomery đang tiếp diễn, Gandhi đã là ngọn đèn hướng dẫn cho chúng tôi những
phương pháp thay đổi xã hội một cách bất bạo động.”
Vào tháng 2
năm 1957, ở trường Oberlin College tiểu bang Ohio, King gặp một mục sư da đen
thuộc hệ phái Methodist, tên là James M. Lawson, Jr. Lawson đã bị giam trong
nhà tù Liên Bang mười ba tháng, vì đã từ chối không đi quân dịch trong thời
gian Chiến Tranh Triều Tiên. Trong khi còn bị giam, hội đồng truyền giáo của
nhà thờ Methodist đã vận động thành công trong việc yêu cầu tòa án giao Lawson
lại cho họ. Ông này được giao nhiệm vụ dạy ở Hoslop College bên Nagpur, Ấn Độ.
Lawson qua đó sau khi Gandhi qua đời đã được bốn năm, và ở đó dạy học trong ba
năm. Lawson đã gặp rất nhiều người từng làm việc với Gandhi và trực tiếp học
hỏi về cuộc vận động bên Ấn Độ từ những người tham gia. Tiểu sử và kinh nghiệm
của Lawson đã gây ấn tượng đặc biệt cho King, nhất là khi cả hai bằng tuổi
nhau, chỉ mới 28 tuổi đời. King mời Lawson đi về miền Nam mà không cần đợi học
xong: “Xuống đây ngay! Rất cần bạn. Chúng tôi không có ai như bạn cả!” Như tôi (Mary
King, tác giả bài viết này) đã dẫn chứng trong một số bài viết khác, Lawson đã
trở thành một nhịp cầu sống, nối kết những kiến thức từ Ấn Độ tới phong trào
nhân quyền còn non nớt ở Hoa Kỳ và các công cuộc đấu tranh đương thời.
Sau khi gặp
King vào năm 1957, Lawson liênlạc với A. J. Muste, một tín đồ Tin Lành lỗi lạc
theo phái hòa giải, lúc đó là người lãnh đạo Hội Ái hữu Hòa giải (Fellowship of
Reconcilation- FOR). Muste giao cho Lawson chức vụ thư ký phân cục miền Nam của
tổ chức FOR, và vào tháng giêng năm 1958, Lawson đã về ở tại Nashville. Khi tới
nơi, Lawson được biết là Mục sư Glenn Smiley, một trong những bậc thầy hướng
dẫn cho King và đồng thời là một giám đốc phân cục của FOR đã giao cho mình
trọn trách hiệm hướng dẫn các buổi học tập và của cả phiên họp thường niên đầu
tiên của Hội đồng Lãnh đạo Cơ đốc Miền Nam (Southern Christian Leadership
Conference-SCLC) ở Columbia, tiểu bang South Carolina. Phiên họp này được tổ
chức sớm ngay đầu năm đó. Tại phiên họp đó, King đã nhiệt liệt giới thiệu Lawson:
“Hãy trở lại đây đúng hai giờ trưa để dự buổi học tập về đề tài bất bạo động do
Sư huynh Lawson hướng dẫn.” Trước khi buổi học tập bắt đầu, King đã có mặt ở
hàng ghế đầu, kiên nhẫn chờ đợi để tham dự cuộc hội thảo kéo dài ba giờ đồng
hồ. Lawson hồi tưởng lại, trong một cuộc phỏng vấn với tôi như sau:
Martin làm
điều đó trong tất cả mọi phiên họp của SCLC, trong cuộc đời ông. Ông mời tôi
hướng dẫn một buổi hội thảo vào buổi chiều, thường kéo dài hai ba giờ đồng hồ,
và ông thường sắp xếp để buổi hội thảo đó được mở rộng cho mọi người có thể
tham dự và không bị chương trình gì khác xen vào cả. Tự tay ông sắp đặt chương
trình. Ông có mặt vài phút trước khi bắt đầu, và ngồi một mình ở hàng ghế đầu,
để làm gương cho những người khác.
Ở Nashville,
trong suốt mùa Thu 1959, Lawson đã hướng dẫn những cuộc hội họp hàng tuần mỗi
chiều thứ hai, và nơi đó, ông và những sinh viên quan tâm đến vấn đề này đã
phân tích những lý thuyết và kỹ thuật mà ông đã học được bên Ấn Độ. Trong những
phiên họp này ông đã tỉ mỉ nghiên cứu Kinh Thánh, và những bài viết của Gandhi,
King và Thoreau. Họ đã thực tập những tình huống thử nghiệm, kể cả những cuộc
“biểu tình ngồi” nho nhỏ. Những buổi học tập của Lawson kéo dài nhiều tháng cho
đến khi có tin tức trên báo chí đăng tải về những cuộc “biểu tình ngồi” ở
Greensboro vào ngày 1 tháng Hai năm 1960. Nghe tin về những hành động ở
Greensboro, bảy mươi lăm sinh viên Nashville đã làm theo, gây ra những cuộc vận
động “biểu tình ngồi” lớn nhất, có tổ chức nhất và ảnh hưởng nhất trong năm
1960. Qua quá trình làm việc với Lawson, một người luôn luôn điềm tĩnh và khiêm
tốn, những sinh viên Nashville này đã, không những được một trong những huấn
luyện viên riêng của King truyền dạy, mà còn có lợi điểm khác là được thực tập
ngay những cuộc thí nghiệm của Gandhi. Những cuộc “biểu tình ngồi” đã thúc đẩy
phong trào đến mức độ cao và những sinh viên Nashville đã trở thành cán bộ cốt
cán của Ủy Ban Tổ Chức Bất Bạo Động của Sinh Viên, mà tôi là một thành viên.
Kỷ niệm ngày
sinh của Tiến sĩ King, điểm đáng nhớ là mọi người đều có thể học hỏi những
phương pháp hành động bất bạo động như ông đã làm. King có thể không phải là
người phát minh ra những sách lược bất bạo động mà ông đã xiển dương, nhưng ông
là một học viên sáng dạ và kiến thức của ông về đấu tranh bất bạo động còn có
thể khuyến khích những phong trào tương tự khác trên thế giới trong những thập
niên tới đây. Là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử, King
là người đã truyền bá kiến thức về tiềm năng của phương thức cải cách và xây dựng
xã hội mà không cần dùng đến bạo lực. Cách thức mà King đã áp dụng để tự học về
lý thuyết cũng như thực hành phương thức phản kháng dân sự là điều nhắc nhở
chúng ta rằng những phương pháp này không phải chỉ đơn thuần là những hành động
của trực giác hay tự phát, mà là một hệ thống gồm có luận lý, kỹ năng và kỹ
thuật mà những người thực hành cần được học tập nghiêm chỉnh.
© Học Viện
Công Dân 2012
------------------------------
[1] Mohandas
Gandhi (1869-1948), được xem là cha già dân tộc của Ấn Độ và là người đề xướng
thuyết đấu tranh bất bạo động nhằm đạt những mục tiêu chính trị và cải tạo xã
hội. Bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động, Gandhi đã giành được độc lập cho
Ấn Độ từ sự cai trị của Đế quốc Anh. Gandhi còn được gọi là Mahatma (thánh),
một tước hiệu cao quý của Ấn Độ. Gandhi bị ám sát ngày 30 tháng Giêng, 1948 bởi
một người Ấn giáo quá khích vì cho là Gandhi có khuynh hướng thiên vị Hồi giáo.
[2] Henry David Thoreau (1817-1862), văn hào
Mỹ, chủ trương con người nên quay về với thiên nhiên. Thoreau cũng là một trong
những người phản đối chế độ nô lệ tại Mỹ.
[3] Trên nguyên tắc, khi tổng thống Lincoln
ban hành nghị định và Tuyên cáo Hủy bỏ Chế độ Nô lệ năm 1863, chế độ nô lệ tại
Mỹ đã chấm dứt, nhưng tại các tiểu bang miền nam vẫn còn những luật lệ, do tiểu
bang ban hành, duy trì sự phân biệt chủng tộc. Một trong những luật này là
người da đen không được sử dụng những dịch vụ công cộng dành cho người da
trắng, như tại nhà hàng ăn, ngay cả vòi nước uống công cộng cũng có bảng phân
biệt rõ ràng. Riêng trên xe buýt thì người da đen phải ngồi ở những băng ghế
dành cho họ ở phía sau xe, những băng phía trước dành cho người da trắng. Cuộc
tẩy chay xe buýt tại Montgomery nổ ra khi người da đen đồng lòng không sử dụng
phương tiện di chuyển này nữa, khiến cho hãng xe buýt bị thiệt hại tài chánh
nặng nề, và chính quyền phải nhượng bộ những yêu cầu của người da đen về tự do
và bình đẳng về dân quyền. Cuộc tẩy chay xe buýt là sự kiện đầu tiên trong cuộc
đấu tranh bất bạo động cho dân quyền của người Mỹ da đen, kéo dài cho tới năm
1964 mới hoàn thành bằng Đạo luật Dân quyền, và kết thúc bằng Đạo luật Quyền
Bầu cử (1965).
[4] Liên Đoàn Những người Phản Chiến (War
Resisters League) được thành lập từ năm 1923 gồm những người Mỹ phản đối chiến
tranh tại quốc nội cũng như quốc ngoại. Chủ trương của Liên Đoàn là hợp tác và
đoàn kết những người bị đàn áp trên toàn thế giới qua phương pháp đấu tranh bất
bạo động.
No comments:
Post a Comment