BÊN
THẮNG CUỘC - HUY ĐỨC
TẬP I :
GIẢI PHÓNG
PHẦN
I : MIỀN NAM
Chương VII : “Giải Phóng”
Cuộc chiến tranh
được gọi là giải phóng có thực sự giải phóng sau những gì mà những người cộng
sản áp dụng tại miền Nam (Sài Gòn thay
đổi/ Kinh tế mới/ Đốt sách/ Cạo râu/ “Cách mạng là đảo lộn”/ Lòng người/ Những
người sinh ra không đúng cửa/ “Cánh cửa” Thanh niên xung phong/ Cửa không đủ
rộng/ “Nổi loạn”/ “Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”).
*
*
Nhiều người Việt đã
cầm súng với niềm tin họ chiến đấu là để giải phóng miền Nam. Trong suốt nhiều
thập niên, truyền thông nhà nước đã lặp đi lặp lại điều này như là chân lý.
“Giải phóng” là cách nói để mô tả sự kiện kết thúc vào ngày 30-4-1975. “Giải
phóng” là từ không chỉ được dùng bởi những người đi từ trong các chiến khu mà
còn được nói như một phản xạ tự nhiên của không ít người dân. Có hàng triệu
người đã bỏ nước ra đi, nhưng hàng chục triệu người miền Nam vẫn chọn con đường
ở lại, rồi chính họ sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ về “giải phóng”.
Sài Gòn thay đổi
Chiều
2-5, từ trường Petrus Ký, Ban Kinh tài Thành ủy đưa nhóm ông Võ Văn Kiệt sang
“tiếp quản” nhà 222 và 224 đường Phan Thanh Giản321. Ngôi nhà này vốn là nơi ở
của tùy viên quân sự Anh. Người giúp việc cho ông tùy viên lại cũng là một cơ
sở bí mật của Cách mạng. Ông Võ Văn Kiệt tới, gia đình rất mừng, và từ hôm đó
họ trở thành “cán bộ Thành ủy”.
Lại
nói về người lái chiếc xe GMC chở “đại quân” vô Sài Gòn chiều 30-4. Khi đưa ông
Kiệt tới trường Petrus Ký, Tư Thạch kêu anh lái xe quay lại đón những anh em đi
sau. Xong việc, Tư Thạch cho anh về. Tới chiều ông Kiệt hỏi: “Hai chú tài xế
chiều nay đâu?”. Anh em nói: “Ảnh về rồi”. Ông Kiệt kêu: “Có hỏi tên tuổi, nhà
cửa người ta không?”. Không ai hỏi cả.
Trong
ngày hôm đó, biết bao người đã “xuống đường”, rất nhiều người trong số họ đã
làm một việc gì đó rồi trở thành “cán bộ”, lớp cán bộ về sau được gọi là “Cách
mạng 30-4”; rất nhiều người khác, sau khi “phục vụ cách mạng”, đã trở về nhà và
đã vô danh như thế.
Chiều
2-5-1975, khi tình hình đã tạm ổn định, ông Kiệt kêu Chín Anh về Bình Thạnh
kiếm gia đình ông Sáu Hoa. Gia đình ông Sáu Hoa là một cơ sở nuôi giấu “Việt
Cộng” trong nội thành từ đầu thập niên 1950. Giữa năm 1956, ông Lê
Duẩn được ông Nguyễn Văn Linh đón lên Sài Gòn và đưa về giấu trong nhà ông
Sáu Hoa gần ba tháng. Năm 1963, từ Củ Chi, ông Võ Văn Kiệt cũng vào Sài Gòn
trên một chuyến xe do Sáu Hoa lái ra đón. Cùng với nữ giao liên Sáu Trung, từ
đó, theo yêu cầu của ông Kiệt, Sáu Hoa sẽ còn đưa ông Kiệt đi lại công khai
nhiều lần. Khi từ Trung ương Cục xuống Khu IX nhận chức bí thư khu ủy, ông Kiệt
đã dùng xe của Sáu Hoa đi công khai từ Châu Đốc xuống Rạch Giá. Ông Kiệt
cũng đã từng ở lại căn nhà 99/9 Nơ Trang Lơng, Bình Thạnh của Sáu Hoa. Từ đây,
một người cháu của ông, Chín Anh, sẽ theo ông Kiệt ra “Khu”.
Chiều
1-5-1975, Chín Anh về Bình Thạnh. Chiếc U-oat322 đi tới đâu, người dân nghiêng
ngó, xầm xì tới đó, và khi nó quẹo vô hẻm 99/9, bà con ngỡ ngàng. Mấy đứa con
nhà Sáu Hoa kêu to: “Việt cộng! Việt cộng!”. Có lẽ bọn trẻ cũng không biết đó
là tiếng kêu mừng hay sợ. Cho đến lúc này, vợ chồng ông Sáu Hoa vẫn hết sức dè
dặt, cái dè dặt của người hoạt động trong lòng đối phương quá nhiều năm và đã
gặp quá nhiều bất trắc. Lúc đó, vẫn chưa có ai trong xóm biết rõ Sáu Hoa
là “Cộng”, kể cả mấy người con của ông. Nhưng lũ trẻ nhanh chóng nhận ra một
trong mấy ông đi xe là Chín Anh. Bấy giờ thì chúng mừng rỡ thật.
Chưa
kịp ngồi xuống, Chín Anh nói: “Chú Sáu Dân cho gọi bác lên gặp ổng gấp”. “Ảnh ở
đâu?”, Sáu Hoa lập cập hỏi. “Thì bác thay đồ lẹ lên, sáng giờ ổng nhắc bác
hoài”, Chín Anh giục. Sáu Hoa khoác vội áo, ra xe. Tới nơi, ông Kiệt chạy ra
tận cửa, hai người ôm lấy nhau: “Mạnh hả? Hết chết rồi hả?”. Hai ngày sau, ông
Kiệt về nhà Sáu Hoa ăn bữa cơm đoàn tụ. Ông ôm từng đứa con của vợ chồng Sáu
Hoa, lòng lặng đi. Tính mạng của những thiếu niên này đã từng bị đe doạ ngay
chính trong ngôi nhà đó, trong suốt những năm ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn
Linh và ông Kiệt sống bí mật ở đây. Ông Kiệt bước tới, bước lui, lên gác, nhìn
căn phòng, sờ những đồ vật quen thuộc, những thứ đã từng che cho ông sống.
Năm
1957, trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy sang Phnom Penh và quyết
định điều ông Võ Văn Kiệt về Sài Gòn thay ông Linh làm bí thư Khu ủy. Sài Gòn
cuối năm 1958, khi ông Kiệt đặt chân trở lại, không còn bình yên. Chính
quyền Ngô Đình Diệm đánh tróc từng cơ sở của những người cộng sản. Những
cấp ủy viên mà ông Kiệt nhận bàn giao từ Phnom Penh lần lượt bị giết hoặc vô
tù. Ông Kiệt đành phải tiếp cận Sài Gòn qua ngả Gia Định. Ông nhận thấy nếu có
Gia Định thì Sài Gòn sẽ “tiến thoái” dễ hơn. Ông đề nghị sáp nhập Gia Định vào
Khu ủy Sài Gòn và được Trung ương chấp thuận.
Sau
ngày 30-4-1975, trước nhu cầu sắp xếp cho hàng loạt bí thư khu ủy, tỉnh ủy từ
trong rừng ra, việc định lại địa giới hành chánh đã có nhiều bàn cãi. Theo
ông Nguyễn Thành Thơ323: “Ngày 3-5-1975, anh Mai Chí Thọ mời tôi tới
truyền đạt chủ trương tách T4324: tôi làm bí thư Sài Gòn; anh Mai Chí Thọ làm
bí thư tỉnh Gia Định. Rồi anh Mai Chí Thọ kêu tôi bàn giao hết”. Sau khi “bàn
giao gần hết cho ông Mai Chí Thọ”, ngày 5-6-1975, ông Thơ lại nhận được thư mời
tới số 7 Thống Nhất325, nghe ông Võ Văn Kiệt phổ biến chính thức: “Trung ương
Cục không tán thành tách Sài Gòn-Gia Định, vậy anh là phó bí thư Thành ủy, công
việc cũ không thay đổi, nay mai sẽ giao việc mới cho anh”.
Trong
thời kỳ quân quản, ông Võ Văn Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt, đồng thời được
giới thiệu là bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Ngày 20-1-1976, Chủ tịch Hội
đồng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết định
03, thay thế Ủy ban Quân quản bằng Ủy ban Nhân dân Cách mạng, chức chủ tịch
được giao cho ông Võ Văn Kiệt; chức bí thư Thành ủy được giao cho ông Nguyễn
Văn Linh; ông Mai Chí Thọ lãnh chức phó chủ tịch Ủy ban kiêm giám đốc Công an
Thành phố.
Trong
buổi lễ bàn giao tổ chức vào sáng 21-1-1976 tại Dinh Độc Lập, Thượng tướng Trần
Văn Trà cho rằng: “Chúng ta đã nắm chắc tình hình trong tay, chế độ cách mạng
đã được bảo đảm vững chắc, trật tự trị an ngày càng ổn định. Thành quả ấy đạt
được nhờ… nhân dân đã thực sự tham gia xây dựng chính quyền của mình”326.
Tháng
12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên dự
khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều
về Trung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó,
ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là chính ông đã thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh chính thức đặt cho Sài Gòn-Gia Định.
Mấy
câu thơ: “Ai đi Nam Bộ / Tiền Giang, Hậu Giang / Ai về Thành phố Hồ Chí Minh /
Rực rỡ tên Vàng…”327, mà Tố Hữu viết tháng 8-1954, khi Hồ Chí Minh còn nắm
quyền, được coi là “sáng kiến thành văn” đầu tiên về việc đặt tên mới cho Sài
Gòn. Có lẽ vì Tố Hữu khi ấy không chỉ là một nhà thơ “anh cả” mà còn là trưởng
Ban Tuyên huấn Trung ương, nên ý kiến của ông gần như được mặc nhiên thừa nhận.
Lịch sử cũng không ghi nhận bất cứ một phản ứng nào từ Hồ Chí Minh. Các văn
nghệ sỹ cách mạng cũng coi đó là “vinh dự” của Sài Gòn.
Trong
tuần lễ trước ngày 30-4-1975, nhạc sỹ Cao Việt Bách đã đặt tên cho một bài hát
của mình là Tiếng Hát Từ Thành Phố Mang Tên Bác. Bản Thông cáo ngày 3- 5-1975
về việc thành lập Ủy ban Quân quản cũng nói: “Thành phố Sài Gòn, thành phố được
vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Ngày 6-5-1975, tờ Sài Gòn Giải
Phóng ra đời. Sau đó, tờ Tin Sáng, tờ báo của những người thuộc “lực lượng thứ
ba” của Sài Gòn trước 30-4-1975, trên nhiều chuyên mục cũng cho chạy những hàng
tít lớn: Thành phố Hồ Chí Minh…
Tuy
nhiên, tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội thống nhất, khai mạc tại thủ đô Hà Nội
ngày 25-6-1976, ông Trường Chinh đã không hoàn toàn đồng ý với cách đặt vấn đề
của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt đề nghị Bộ Chính trị để Quốc hội “công nhận
Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh”, ông Trường Chinh nói: “Quốc hội không
phải công nhận mà là xem xét việc đặt tên cho thành phố, vì chỉ Quốc hội mới có
thẩm quyền này”.
Ông
Võ Văn Kiệt nhớ lại: Đến giờ giải lao, ông vào phòng dành riêng cho chủ tịch
đoàn ở phía sau Hội trường Ba Đình, nơi có mặt Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Trường
Chinh, phản đối: “Tại sao Quốc hội lại còn phải đặt tên cho Thành phố trong khi
chỉ là thừa nhận một sự thật lịch sử?”. Ông Trường Chinh dứt khoát: “Lịch sử
phải có văn bản, chưa có văn bản nào nói Sài Gòn đã được đổi tên”. Ông Kiệt
nói:
“Lịch
sử có nhiều điều không có văn bản”. Ông Trường Chinh ôn tồn: “Thường người ta
lấy tên lãnh tụ đặt cho thủ đô”. Ông Võ Văn Kiệt cãi: “Thưa anh, tên của Lênin
có phải đặt cho thủ đô đâu!”. Ông Trường Chinh vẫn kiên định: “Quốc hội vẫn
phải là cơ quan quyết định việc này”. Ông Kiệt không thể thuyết phục ông
Trường Chinh, đành đề nghị: “Nếu như các anh đưa ra Quốc hội quyết định thì các
anh phải giải trình đầy đủ quá trình Thành phố mang tên Bác”. Trước Quốc hội,
ông Trường Chinh chỉ nói rất ngắn gọn về việc đổi tên Sài Gòn.
Nhiều
năm sau, ông Võ Văn Kiệt mới hiểu ông Trường Chinh lưỡng lự không chỉ vì vấn đề
thủ tục. Ông Kiệt nói: “Anh Trường Chinh muốn giữ tên Sài Gòn, một cái tên đã
được biết đến suốt gần 300 năm”. Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm, Hồ Chí
Minh đã được cả hệ thống chính trị suy tôn làm “Cha Già Dân Tộc”, nên khi có người
muốn lấy tên ông đặt cho Sài Gòn thì không ai dám đứng ra ngăn cản. Quốc hội đã
dễ dàng biểu quyết việc đổi tên Sài Gòn; cũng như, vào lúc 8:20 sáng ngày
2-7-1976, đã dễ dàng đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Trước
đó, tháng 8-1975, một loạt đường phố ở Sài Gòn cũng đã được Tuyên huấn Thành ủy
cho đổi tên. Tên của các liệt sỹ cách mạng đã được dùng để thay cho tên của
những vua chúa, danh nhân thời “đế quốc phong kiến”: Lý Tự Trọng thay thế Gia
Long, Võ Thị Sáu thay thế Hiền Vương, Lý Chính Thắng thay cho cụ Tam
Nguyên Yên Đỗ,… Các sự kiện mà những người cộng sản đã ghi vào lịch sử cũng
được sử dụng để đổi mới các tên đường như Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ Khởi
Nghĩa, Đồng Khởi… Người dân Sài Gòn tức cảnh: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý /
Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”. Những thay đổi của miền Nam, của Sài Gòn, không
chỉ ở trên những tên đường, tên phố.
Kinh
tế mới
Đầu
năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng328 thấy nhà mình thường xuyên có khách. Ông tổ
trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia đình đi kinh
tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng: “Chị phải đi thì chồng chị mới được về sớm”. Cha
Hoàng, Đại úy Thái Tú Bình, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị thuộc
tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông Bình bị bắt ngay sau ngày
29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.
Cuối
tháng 3-1975, Hoàng – năm ấy lên bảy – theo mẹ di tản vào Sài Gòn. Ở bãi biển
Đà Nẵng, Hoàng đã phải bước trên những xác chết để lên tàu. Kết thúc chiến tranh,
Chính quyền Sài Gòn yêu cầu người dân trở về quê cũ, Thái Cẩm Hoàng và các em
được mẹ đưa trở lại Hội An, mở một tiệm chạp-pô. Buôn bán khó khăn nhưng trong
thời gian đó, mẹ Hoàng còn phải bỏ tiệm đi đắp đập Phú Ninh hơn ba tháng. Hoàng
kể: “Một hôm, vừa đói, vừa nhớ mẹ quá, tôi đi bộ từ Hội An lên Đà Nẵng tìm đến
nhà dì. Cả nhà hoảng hốt đi tìm. Khi trở về, ông chú đánh cho một trận. Đánh
xong, ông ôm tôi vào lòng, khóc”.
Mẹ
Hoàng hình dung được điều gì chờ đợi gia đình ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy
không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại,
những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nhìn nhau gạt nước mắt. Biết không thể
“chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội
qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không
thể buộc bà đi kinh tế mới.
Ngày
đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi
nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất
vui vì sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu
vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm thì hết đường.
Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu thì tiến vào tới đó. Chập tối,
đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn nghìn con
người giữa rừng.
Hoàng
nhớ lại: “Hôm sau, các gia đình được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều
phải đi chặt cây làm nhà”. Mấy ngày tiếp đó, một đoàn xe tải khác đến, Chính
quyền cấp cho dân kinh tế mới khẩu phần lương thực đủ ăn trong ba tháng. Hoàng
kể: “Khi biết đoàn người mới đến dựng nhà là dân miền Nam, đồng bào ở buôn Chư
Cà Ti, huyện Krongpak, Daklak, đã chủ động sang giúp. Đó là một khu vực đêm đêm
Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh
tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng
cây số”.
Chính
sách được thi hành ở mỗi địa phương thường có những điểm khác nhau. Không phải
ở đâu vợ con những người đang ở trong các trại cải tạo cũng phải đi kinh tế
mới. Nhiều địa phương coi đưa dân ra khỏi thành phố là để phân bố lại lao động
và giải tỏa những áp lực xã hội nảy sinh sau ngày 30-4-1975. Ông Nguyễn
Văn Ly, tên thường gọi là Tư Kết, năm 1975 là thư ký riêng của ông Mai Chí Thọ329,
kể: “Mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ, tôi lại cập nhật các báo cáo nhanh của
công an và Bộ Tư lệnh Thành. Không có báo cáo nào là không nói về tình hình
người tự tử. Thỉnh thoảng, anh trai của ông Mai Chí Thọ là Tướng Đinh Đức
Thiện
qua thành phố, ghé chơi. Thấy tôi loay hoay với mấy bản báo cáo, ông hỏi, ‘Tình
hình sao?’. Tôi kể cho ông tình trạng nhiều người cảm thấy bế tắc dẫn đến nạn
tự tử ở Sài Gòn. Ông Đinh Đức Thiện nói: vậy là bỏ mẹ rồi, phải đưa đi kinh tế
mới mới có công ăn việc làm cho người ta, chứ không còn chết nữa”. Không
chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc cho
người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp từ
ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm
cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là
có thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại
không xa Sài Gòn lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu
đến hai triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu
công nghiệp và thủ công nghiệp”.
Chỉ
sau Hội nghị Trung ương lần thứ 24 không lâu, ngày 14-9-1975, trong một cuộc
làm việc với khoảng bảy mươi kiến trúc sư tại hội trường Đại học Kiến Trúc Sài
Gòn, Giám đốc Sở Kiến trúc và Quản lý Nhà đất Huỳnh Kim Trương nói rằng Thành
phố sẽ đưa khoảng 1,5 triệu dân “về quê lập nghiệp”. Báo Tin Sáng ngày
16-9-1975 dẫn lời ông Trương: “Từ đây cho tới cuối năm 1975 chúng ta còn phải
giảm bớt ba trăm ngàn dân ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh để đưa họ về các vùng
lân cận tham gia vào công tác sản xuất. Và đến hết năm 1976 sẽ có thêm một
triệu hai trăm ngàn dân về quê làm ăn theo đúng chương trình đã được ấn định”.
Ông
Trương cho biết: “Khoảng 600 kiến trúc sư và sinh viên sắp tốt nghiệp kiến trúc
sẽ nắm giữ vai trò thiết kế các khu chỉnh trang, cũng như các loại nhà ở cho
dân chúng. Ưu tiên này nhằm phục vụ cho các giới đồng bào lao động, những gia
đình cách mạng, từ lâu đã hy sinh nhiều nhưng cho đến nay vẫn còn ăn nhờ ở
đậu”330. Ông nhấn mạnh: “Công việc của chúng ta hiện này chỉ là một cách trả
ơn, trả nghĩa cho những người đó”.
Từ
những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục nghìn dân về
quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các
vùng kinh tế mới. Người thì lên Bình Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người thì xuống
Sóc Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đã có “hơn 100.000
đồng bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng
sau giải phóng, đã có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”331.
Ngày 28- 10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua
chủ trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân
nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế
mới”.
Trước
đó, theo “Bản Báo cáo về Thực trạng và Khả năng Kinh tế miền Nam” được ông
Nguyễn Văn Nam, một quan chức của Ủy ban liên lạc công thương đọc tại “Nhà hát
Tây”332 ngày 4-8-1975: “Phân bố lại lực lượng lao động trong cả nước là yêu cầu
khách quan cần thiết của đất nước”. Bản Báo cáo cho rằng: “Nền kinh tế do Mỹ để
lại chỉ là một sự phồn vinh giả tạo. Kẻ thụ hưởng chỉ là các tầng lớp tư sản
quan liêu còn đại đa số quần chúng vẫn sống một cuộc đời cơ cực, không có ngày
mai”333.
Không
phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn Thành Thơ:
“Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôi phục
vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các đối
tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật
chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động thì họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông
Tư Kết, đang là thư ký riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ,
cũng tin tưởng vào chính sách này nên đã cùng với anh trai khuyên mẹ, một
“bà má phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới.
Các quận đoàn lúc ấy đã cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở
đường, làm nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.
Theo
ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba
tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước
đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy hay buôn
bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn Thành
Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục tục bỏ
về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những
người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không còn, do đã bán đi trước đó hoặc
do bị coi là nhà “vắng chủ” đã bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.
Không
phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách dễ dàng.
Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về thăm quê đều
phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đình chỉ đi mỗi lần một hai người để tránh
bị chính quyền để ý. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại,
nhưng những người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng mình sẽ không sớm
được về. Gần một năm sau, khi tình hình có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng
mới lén gửi Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm
lại Hội An lần đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính
quyền trên khu kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về
lại.
Tháng
4-1979, ông Thái Tú Bình được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế mới về,
dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông Bình gửi vợ ở
khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây dựng
kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đã được về rồi con
ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt vì nhận ra nét chữ chồng mình. Giới cũng là
tên ông Thái Tú Bình mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng
mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi tìm cách gửi một đứa con, một đứa cháu
về trước. Khi ấy, Phương án II đã bị cắt.
Một
lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đã quay
trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn còn
hơn 700.000 người dân đã từng sống ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 không có
cơ hội quay lại Sài Gòn sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế
mới334. Từ 1976- 1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước
được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới335.
Đốt
sách
Năm
1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Võ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc Liêu
làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày đó,
ông Kiệt đã cùng với các đồng chí của mình xây dựng một “xã hội lý tưởng” trong
“vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm nghìn héc-ta đất cho nông dân, xoá
bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo
dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải
rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách
mạng, xem văn công cách mạng”.
Ông
Võ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở Sài Gòn “một
xã hội lành mạnh” như ông đã từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địa phương lúc
bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản Sài Gòn ra
tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi truỵ”. Thành
đoàn Thanh niên Cộng sản đã đứng ra thực hiện chiến dịch này.
Ngày
23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô
cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều
khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe
phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh
xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp
hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố,
số 4 Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người
đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.
Người
dân đã đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn diễu
hành” đã dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đã cút, ngụy đã
nhào, Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, còn rất nhiều khó khăn phải
khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đã nhục nhã rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đã tan
rã, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đã để lại một xã hội băng hoại, sa đoạ,
đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám,
thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng
với sự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đã cho xâm nhập
hàng loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô
đẩy thanh niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đã
đầu độc quần chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản
động, ru ngủ, bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn
dư do Mỹ Thiệu để lại, đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền
sống mới, một con người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và
thanh niên ta hiện nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi
trụy, phản động để thay thế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và
lành mạnh… ”337.
Ngay
sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng
bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy
phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai
lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà
Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng
ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự
nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách
các loại”338.
Ông
Võ Văn Kiệt nhìn nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đã cảnh báo thanh
niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và nói
rõ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh
thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân
tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lãnh đạo bởi người
mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội
“thanh niên xung kích” nhiều khi đã không cần phân biệt những sách y học có vẽ
cơ thể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách
triết học với sách chống cộng. Nhiều trí thức đã tìm gặp ông Kiệt để phản ánh
tình hình, nhưng, như ông Kiệt nhìn nhận: “Cả tôi và chính quyền đã phải mất
khá lâu mới nhận ra những sai lầm đó”339.
Điều
khó khăn theo ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là làm sao để
xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển chọn đánh giá
văn hóa phẩm sau đó đã được ông Võ Văn Kiệt cho thành lập. Tuy nhiên,
trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đã thỏa sức đưa ra
các tiêu chí của mình.
Tư
Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài Gòn Đó Đây của báo Sài Gòn Giải Phóng
đã mượn chuyên mục của mình để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm màu quân
quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài Gòn Giải Phóng đến toà soạn
than thở: Trên một chuyến xe buýt Sài Gòn – Lăng Cha Cả, ngày 29-5, chiếc xe
mang số EG 6198, đồng bào rất bực mình vì phải nghe chủ xe mở băng nhạc gồm
những bản nhạc rã rời, rên rỉ, dã dượi như người mất hồn: “Khi biết em mang kiếp
cầm ca / Đêm đêm phòng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả này than
phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xã hội mới mà ông chủ
xe buýt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó dùng để ru ngủ
tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?… Thời buổi này làm chi còn
có cái “kiếp cầm ca”, còn đâu có “đêm đêm phòng trà”, làm chi có chuyện “chỉ
còn anh thôi, chỉ còn em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, còn tất cả, chớ
đâu có cái lạc lõng bơ vơ, sờ soạng “chỉ còn anh, chỉ còn em” như thế”340.
Tư
Cua còn định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang đó, có
những tác giả nay đã phủ nhận quê hương, xa lìa dân tộc, chuồn ra
ngoại quốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ!
Nghe nói, trong số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đã ru ngủ họ
trong suốt hai mươi mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đã đánh thức
những “con heo” trong lòng họ dậy và đã biến cả Sài Gòn thành một “ổ điếm khổng
lồ”341.
Ngà
y 30-10-1975, trên báo Sài Gòn Giải Phóng, chính quyền công bố một danh sách
năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô,
đầu đôc̣ ”, bi ̣cấ m lưu hà nh, trong đó có Hoà ng Ngoc̣Liên, Hà Huyề n
Chi, Phan Nghi,̣ Võ Hữ u Haṇ
h, Nguyên Vu,̃ Lê Xuyên,
Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử , Doãn Quố c Sı,̃ Thanh Tâm Tuyề n, Mai Thả o, Dương
Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài
đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ nhà sách khác, chủ nhà xuất bản
Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đã họp với cộng sự của ông là gia đình
ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lý kho sách lưu trữ của Cảo Thơm.
Trước
năm 1954, ông Hồ Hải đã từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nội di
cư vào Sài Gòn, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp
nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm lúc đầu cấm vì tác
giả của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt
sau đó đã chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn
Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên
ông Trần Thế Nam đứng tên.
Ngay
sau khi quân Giải phóng vào Sài Gòn, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà in số
326/20 Võ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lý. Số sách vở
để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của Nguyễn Hiến
Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn Nhược Pháp,
Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… thì được chia nhỏ, giao cho người già, trẻ em
mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị trường” khác thì Cảo
Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đình, xé ra rồi âm thầm bán cho
các bà đồng nát345.
Cạo
râu
Từ
“văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân.
Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng”
bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều
cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã đi
đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo
hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt
tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ
và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận
đoàn”346.
Khi
tường thuật một “phiên tòa quân sự”, trước khi nói rõ tội trạng của các bị cáo,
báo chí đã dành nhiều dòng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về lối
sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía vành
móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai đều để
tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rõ nét ăn chơi, trác táng.
Tên
mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh
viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là
Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả
hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ
sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu nữ”347.
Chuyện
“hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự phát của
“Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đã có Điện số 610: “Gửi:
Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy – Bộ Chính trị trao đổi ý kiến thấy rằng trong
điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định mọi
mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư
tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo
chí, nên có chủ trương rộng rãi, có cách lãnh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho
ta trên mặt trận dư luận rộng rãi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng
mệnh lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết
phục, khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn
rằng ta chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.
Có
những người dân Sài Gòn, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đã nhuộn đen quần
áo của các thành viên trong gia đình. Trong những show diễn hiếm hoi sau ngày
30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài Gòn lên sân khấu mà không dám trang điểm. Nhiều
người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không còn son phấn và giày cao
gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai căng” đó
chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh niên “lớn
lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”.
Khi
chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần,
chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo
“Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền
Nam tập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được
xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đã
cho “một số ý kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát
sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa mãn yêu
cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đình ở miền Nam, nhưng đồng thời
để phòng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo
hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn
buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy
định rõ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản
thân họ, tránh tình trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”.
Tuy nhiên, miền Bắc lúc đó đã phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện
“văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.
Ngay
tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng
của chế độ làm thơ ta thán về sự bất bình thường của Chế độ: “Các-mác (Karl
Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu
Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn
biển năm châu / (Đến Việt Nam thì nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin
(Lenin)349” . Lúc đầu ông Võ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài Gòn
lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một
nhà lãnh
đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.
đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe được thanh niên nói thật.
Báo
Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những người đã
bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến phòng họp của báo. Trước đó, ông Võ Văn
Kiệt và Thư ký Nguyễn Văn Huấn đã đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng nghe.
Những
bức xúc, dồn nén đã được các thanh niên Sài Gòn nói ra. Họ không biết một ông
“Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Võ Như
Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Võ Văn Kiệt ngồi
lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đã đồng ý hoàn toàn với
những “đòi hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa
không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.
Không
chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người
dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đã có trước khi được
những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền
Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đã có thể sở hữu
ô tô, còn xe máy hai bánh thì tới đầu thập niên 1970 đã trở thành phương tiện
giao thông cá nhân phổ biến350.
Trước
khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc nào cũng
sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-1975, Ủy ban
Quân quản Sài Gòn-Gia Định đã ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và bán xăng dầu
trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu cầu đến hết
ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và tự bảo quản
cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu. Sau ngày đó,
“tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm pháp”351.
Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấ y giớ i thiêụ của cơ quan hiêṇ đang công tá c, mang theo tiề n lệ phı́ mỗi phiế u 0,04 đồng” để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.
Chính
sách tập trung quản lý các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay
nhà nước đã làm cho tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm
1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không có phụ
tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đã phải “hướng dẫn một số nhà tư sả n
công nghiêp̣ á p duṇ g nhiề
u sá ng kiế n có
giá tri ̣trong sả n xuấ
t, phuc̣ vụ đờ i số ng nhân dân”. Sá ng kiến sá ng chú ý nhấ t là viêc̣ “chế
taọ thà nh công” môṭ loaị
chấ t lợp vớ
i giá thà nh hạ
được đăṭ tên
là ca-rô-đa
(viế t tắ t tên
nhữ ng nguyên liêụ
, vâṭ
liêụ cấ u taọ ra nó
là cao su, rơm, đấ
t) của môṭ số
nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh chế biế n cao su và nhựa dẻ o. Hợp
chấ t nà y có đăc̣ tıń h mề m, không tắ t lử a, không hút nó ng, rấ t tiêṇ duṇ g trong viêc̣
lợp nhà , là
m măṭ
bàn, măṭ giườ
ng352.
Đích
thân Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến than
quả bàng353. Các xưở ng đúc gang thì tìm tòi chế tạo những lò nấ u than quả bà
ng bằ ng đấ t có vỏ bằ ng gang. Còn các nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh nông lâm cơ
thì đã “cả i tiế n thà nh công” xe ô tô chaỵ bằ ng than là củi: “Bộ phâṇ lò
hơi của xe ô tô chaỵ than
củi có thể sử duṇ g cho cá
c loaị má y bơm nướ
c, má y tà u, má
y điêṇ
: Lâm trườ ng La Ngà
, hãng kem Pé c-lông
đang sử duṇ g loaị
xe cả i tiế n này”354.
Cùng
với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên
liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. Hình ảnh hành khách được các lơ xe đón
tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hãng xe
đò tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng “chạy
suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đã nhanh chóng biến mất. Mỗi khi
có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng
không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của những
chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không
có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ
chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ
đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.
Thêm
nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại của
nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các
tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú
và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xã
trình bày lý do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển thì phải
mất nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường vì chính quyền chống dân
vượt biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca
“những giá trị mới” mà người dân đang “được hưởng”.
“Cách
mạng là đảo lộn”
Tại
Sài Gòn, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội
Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh
niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai trò quan trọng
trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.
Trong
một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ
trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ở nước
ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và
thiếu niên, thì vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm
điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu
diễn tập thể lại là hình thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.
Theo
ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần”
và “cổ vũ cho cái đẹp hình thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”.
Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của
chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho
cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của
người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó thì phải suốt đời
mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát
giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lý, định lại giá
trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng,
một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần
thiết”358.
Cùng
thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo cách
mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về liệt
sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lý Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ với
câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn: “Con
đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không còn con đường
nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản – Thép
Đã Tôi Thế Đấy – bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết từng
được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky
viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin,
được coi là “hóa thân” của Ostrovsky.
Phương
châm sống của Pavel đã được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời người
chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng
đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của
mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta,
ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh
giải phóng loài người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh
niên là nhân vật của những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại
ghi vào Nhật Ký: “Đồng chí Pavel ơi! ”359.
Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài Gòn. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đã tập trung ở Sài Gòn chuẩn bị cho những chương trình biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Phòng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài Gòn với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa… Sài Gòn cũng không còn “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không còn “Chuyện Một Chiếc Cầu Gãy” với Hoàng Oanh; không còn “Đêm Đông” với Bạch Yến; không còn “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không còn được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không còn được hát Phạm Duy, Phạm Đình Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu
“Vua
vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyết điểm
không sửa được là có 5 bà vợ; còn đối với Cách mạng thì tôi trong sạch”360. Chỉ
một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên
“Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết,
người từng tham gia ký tên lên trái bom mà các phi công Sài Gòn mang ném ra
miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng
đỡ thì chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn
gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đình, ngủ chợ, mong
được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.
Ở
các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những phim của
Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù Không Bao Giờ
Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài Gòn chưa quen những loại phim này, các rạp kêu
rất dữ vì có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng đã phản
ứng trước một số chương trình biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc. Theo
Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) ký gửi “anh Tư
Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy rối
nhiều như điện anh đã báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ tình hình cùng cấp ủy
địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải
giáo dục quần chúng”.
Chính
quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai” những nhu cầu
tinh thần đã gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốc Sở Văn
hóa Thông tin Sài Gòn sau 1975, ông Dương Đình Thảo: Khi cho các nghệ sỹ diễn
lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu, lập tức
có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những tuồng rên
rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài Gòn cố gắng diễn những vở “tráng ca”, không
chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đã than
phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.
Ông
Võ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà còn là nhận thức
ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lãnh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài Gòn nếu đòi
hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có
Bà Định; đóng Lenin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng
xem thử có ai đi coi không?”362.
Dưới
góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm trạng.
Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào thấy
“Cô ca sĩ Sài gòn hát bài hát Trường Sơn”, đã viết:
Cùng
mắc võng trên rừng Trường Sơn
Bài
hát viết từ rừng le, rừng khộp
Năm
ấy Sài Gòn lô nhô cao ốc
Em
chưa biết gì về rừng khộp, rừng le
Anh
lên xe trời đổ cơn mưa
Mưa
chưa ướt vai em khi ấy
Rau
hết rồi, măng rừng anh hái
Hái
măng rừng chưa có em đi
Trường
Sơn đông gánh gạo rừng khuya
Cô
gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh
Thuở
cô ấy ở rừng em ngồi phòng máy lạnh
Cô
gái ấy không về và em hát hôm nay.
Đêm
Sài Gòn đỏ rực cờ bay
Trước
sân khấu, tôi ngồi nghe em hát
Em
tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt
Cô
gái ấy ở rừng không có gương soi
Bài
hát như bàn tay còn ấm mồ hôi
Em
đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp
Những
vui buồn đã xa, hôm nay em mới biết
Cô
gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.
Ông
Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đã được hình thành ngay từ những ngày đầu
ông tới Sài Gòn, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài Gòn, có một cuộc gặp mặt giới
văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, được
cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị, thay vì
đi xe hơi riêng đã chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông Phương
nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ Kim
Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị gì mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim Cương
té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công chúng
trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.
Đêm
ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài Gòn đã cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng rực” hơn
so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ Vũ Quần
Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc võng trên rừng Trường Sơn’, tôi nhớ
tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm
điểm không biết số phận thế nào vì bài thơ Vòng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra
khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam
được đi Liên Xô, người ta đã để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ
cho một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lãnh đạo nhưng
vẫn không khỏi chạnh lòng cho những người đã hy sinh tuổi trẻ của mình. Tuy
nhiên, khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy
giờ, ai sớm muộn gì rồi cũng phải đi theo con đường cách mạng”. Khi ấy, không
chỉ có ông Vũ Quần Phương nghĩ con đường “trở thành người tốt” cho các cô gái
Sài Gòn là phải được dẫn dắt bởi các “cô gái Trường Sơn”.
Lòng
người
Nhanh
chóng “xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động” ở miền Nam là một nỗ lực mà
những người Cách mạng tin là nhân đạo. Nhưng “đôi khi, con đường đi tới địa
ngục lại được đắp bởi những ý định tốt”364. Đã mất hàng chục năm sống trong
rừng hoặc sống trong một xã hội khép kín, bưng bít nhưng “Cách mạng” lại quá nồng
nhiệt, nôn nóng giáo dục cho những người được học hành từ những xã hội cởi mở
hơn, tiếp cận với thế giới đa dạng hơn. Niềm tin và sự nhiệt tình ấy lại được
hỗ trợ một cách đắc lực bởi quyền lực tuyệt đối của cả một bộ máy. Cách mạng
càng hăng say, càng để lại nhiều tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho
những người dân “trong vùng giải phóng”.
Cái
khí thế quần chúng nhìn thấy trên đường phố và được tường thuật trên báo chí
nhà nước trong những ngày ấy không phải là những gì đang diễn ra trong
lòng người dân Sài Gòn, người dân miền Nam. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc, khi
ấy, đang dạy học ở trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Năm học 1976-1977, trong
lớp bà có một học sinh, khi ấy đang học lớp 10, đã khắc mấy câu thơ lên bàn
học:
Không
muốn ngồi yên để đợi trông
Thích
làm Từ Hải giữa muôn lòng.
Cộng
lại những gì trong quá khứ,
Sản
khoái trong lòng thoả ước mong
Theo
bà thì không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành chữ
“sản” mà học sinh ấy có ý định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ:
không thích cộng sản. Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành
động viết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh
đó đã bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể: “Tôi và
một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết sức giúp em.
Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao
cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đã nhanh
tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”365.
Tôn
Thất Thiện Nhân366 năm 1975 đang là một học sinh cấp III. Anh nhớ
lại: “Thay vì xách cặp tới trường, tôi đi lang thang. Tôi như một đứa trẻ
không nhìn thấy một lối thoát nào trước mặt. Những khoảng sân trường thơ mộng
trở thành chỗ cho những cô cậu con cái các gia đình tập kết hoặc được điều từ
ngoài Bắc vào ‘lên mặt’ với con cái của những kẻ ‘lầm đường’. Cũng những thầy
cô giáo mà học trò ngưỡng mộ ngày nào giờ trở thành những con người khác, hoảng
hốt, sợ sệt. Mặc dù mấy năm trước 1975, cuộc sống của Sài Gòn đã trở nên khó
khăn, nhưng không phải như những gì mà người Sài Gòn đang đối diện. Hàng tuần
từ trường trở về, tôi lại thấy một đồ đạc gì đó ở trong nhà biến mất. Tôi ngạc
nhiên là tại sao trong suốt nhiều ngày mẹ tôi, một cô giáo, lại chỉ thay đổi
một hai bộ đồ trong khi tủ quần áo của bà có hàng chục bộ đồ dài rất đẹp. Tôi
chạy vào mở tủ ra thì thấy nó trống hoác. Tôi có cảm giác sẽ không bao giờ có
thể khép lại trong lòng cái cánh tủ trống hoác đó”.
Cha
của Nhân trước 1975 cũng là giáo viên. Do đã từng đi lính, tuy chưa phải sỹ
quan nên không phải đi cải tạo, nhưng sau 1975 ông không còn được đi dạy. Ông
đã phải bươn chải vô số nghề trong đó có nghề nhảy tàu lên Long Khánh mua than
củi mang về Sài Gòn bán. Mấy anh em Nhân thỉnh thoảng lại ra ga đợi ông như chờ
đợi một điều gì đó khác hơn ngày thường. Một hôm, hai anh em nhìn thấy
cha mình, năm ấy chỉ mới gần bốn mươi tuổi, đu cạnh thành con tàu đang
tiến dần vào ga, vứt bao than trước rồi nhảy xuống; không may, ông bị trượt
chân. Nhìn gương mặt khắc khổ, tay chân đen đúa, bị những nhát cắt của những
viên đá lót đường rày làm cho túa máu, Thiện Nhân nói: “Một cảm giác mất mát
kinh khủng xâm chiếm con người tôi, hình như đó vừa là tình thương vừa là sự
thất vọng về ông, về một thế hệ không còn có khả năng gượng lên được nữa”.
Không
chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ, tình cảm học trò, sự
trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp Đỗ Trung Quân thai nghén những
vần thơ cũng đau như những nhát cắt của dao, nhưng nó không được dại dột khắc
xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8. Năm 1982,
Đỗ Trung Quân viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn367. Bài thơ cho thấy một góc nhìn
của người dân Sài Gòn với những người đã “giải phóng mình”:
Một
ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các
anh từ Bắc vào Nam
Cuộc
trường chinh 30 năm dằng dặc
Các
anh đến
Và
nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của
tình dục, ăn chơi
“Hiện
sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các
anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con
gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các
anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn
hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi
bút các anh thay súng
Bắn
điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào
những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các
anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các
anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang”
Nổi
loạn / Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các
anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang
tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
…
…
Những
người được sinh ra không đúng cửa
Năm
1975, Đỗ Trung Quân hai mươi mốt tuổi, anh đang học năm thứ hai khoa Sử-Địa,
Đại học Văn Khoa. Khi Sài Gòn “giải phóng” anh phải nghỉ học vì Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp cần thời gian để “sửa đổi chương trình, nội dung và phương
pháp đào tạo, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xã hội, sao cho phù hợp với
phương hướng tiến lên thống nhất dần với hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc”368.
Vì
“công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng” được Ban Bí thư coi là “nhiệm
vụ cấp thiết số một”, nên ngay trong ngày 17-6-1975, Tố Hữu đã ký hai chỉ thị,
221 và 222; một đưa ra các quy định cho bậc học phổ thông, một cho bậc đại học
và trung học chuyên nghiệp. Chỉ thị do Tố Hữu ký cho thấy Ban Bí thư coi giáo
dục là “cấp thiết số một” và muốn “nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu do
chính sách ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ-Ngụy để lại”.
Chỉ
thị 221 về ý nghĩa chính trị đã thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ cho không ít người
dân, nhất là ở giai đoạn “hồ hởi phấn khởi” ban đầu của Cách mạng. Ngay khi vừa
“giải phóng”, Chính quyền Sài Gòn-Gia Định “hạ quyết tâm” trong năm 1975 sẽ xóa
mù chữ cho 250.000/500.000 người mà Cách mạng ước tính là mù chữ. Công việc này
“giữ được khí thế” cho tới tháng 9-1975 với 1.596 lớp bình dân và 53.498 học
viên. Tuy nhiên, không chỉ là một chính sách với dân, chương trình “bổ túc văn
hóa” này đã góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ sẽ đi rất xa trong Đảng.
Cũng
kể từ ngày 17-6-1975, Ban Bí thư có chủ trương “đối với trường tư ở vùng giải
phóng”, theo đó: “Hạn chế và cải biến từng bước, tiến tới xóa bỏ hẳn các trường
tư cùng với đà cải tạo xã hội. Từ đầu năm học 1975-1976 không cho phép các tôn
giáo, các đoàn thể chính trị phản động, các ngoại kiều mở trường tư, không cho
phép các trường tư đào tạo giáo viên phổ thông. Các tư nhân muốn mở
trường tư phải xin phép chính quyền cách mạng”. Ngay trong năm học
1975-1976, 1.087 trường tư ở Sài Gòn-Gia Định đã bị “công lập hóa”. Chỉ thị 221
cũng quy định: “Đối với đội ngũ giáo chức của Mỹ, ngụy đã đăng ký và xin làm
việc với chính quyền cách mạng, nói chung đều được thu nhận, giáo dục và sử
dụng, trừ những phần tử phản động mà cơ quan an ninh xác nhận không nên cho
tiếp tục dạy, những phần từ có sinh hoạt đồi trụy bị học sinh và nhân dân phản
đối”369.
Những
học trò miền Nam có lẽ đã khá phấn khởi khi Ban Bí thư chỉ thị: “Nay bỏ học phí
trong tất cả các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước”. Thế nhưng, học
phí rồi chỉ là một phần vô cùng bé nhỏ. Hàng trăm nghìn sinh viên miền Nam đã
phải “dở dang đèn sách” vì Ban Bí thư “sửa đổi cơ cấu ngành học”. Theo đó: “Cần
cải tạo về cơ bản các ngành khoa học xã hội (luật, văn, triết…) trước khi mở
lại các khoa này. Đối với số học sinh đang học luật, văn, triết cần có kế hoạch
chuyển sang học các ngành có yêu cầu lớn như sư phạm và kỹ thuật, kinh tế.
Đối với các ngành khoa học xã hội, năm học 1975-1976 chưa tuyển sinh” (Chỉ
thị 222). Ngay cả điều này cũng chỉ là những trắc trở tạm thời – nếu như sinh
viên của các ngành khoa học xã hội có “lý lịch rõ ràng” thì họ cũng có thể xoay
xở học xong nếu muốn.
Chỉ
thị 222 của Ban Bí thư đặt ra yêu cầu: “Qua con đường bổ túc văn hóa và tuyển
sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai cấp trong học sinh đại học
và chuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ quân giải phóng,
cán bộ cách mạng, con em nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm
đại đa số trong các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Cho các học
sinh miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc và có gia đình ở trong Nam về học
tại các trường đại học ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo
do chế độ cũ để lại, đồng thời đưa một số thầy giáo, nhất là các thầy giáo quê
ở miền Nam đang công tác ở miền Bắc, có trình độ chuyên môn khá, có phẩm chất
chính trị tốt, bổ sung vào đội ngũ các thầy giáo của các trường ở miền Nam để
làm nòng cốt”.
Trên
tinh thần chỉ đạo đó, thanh niên được chia làm “13 đối tượng” để xét tuyển sinh
vào đại học. Các đối tượng được ưu tiên nhận vào đại học và trung học chuyên
nghiệp gồm “anh hùng dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội, thương
binh, thanh niên xung phong, cán bộ cách mạng, con của các liệt sĩ, con em các
gia đình có công với cách mạng, con em các dân tộc ít người, con em miền Nam đã
tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc về Nam học, công nhân và những người lao động chân
tay khác…”. Ngoài ra: “Trừ những phần tử phản động, tất cả nam nữ công dân, có
lý lịch rõ ràng, có các điều kiện quy định về tuổi, bằng cấp và sức khỏe đều
được quyền nộp đơn xin thi tuyển vào các trường đại học và trung học chuyên
nghiệp”. Một số “đối tượng” được quyền nộp đơn, nhưng có được đi học ngay cả
khi đã thi đỗ đại học hay không lại còn tùy thuộc vào quan điểm của các ban
tuyển sinh về mức độ rõ ràng của lý lịch. Tính “giai cấp” thể hiện qua lý lịch
đã làm tan vỡ biết bao giấc mơ của những thanh niên lớn lên sau năm 1975.
Nhiều
gia đình miền Nam, trên thực tế, bị đặt ở thứ hạng 14, 15370. Nếu như các gia
đình “Ngụy” coi sự phân biệt ấy là những gì phải chịu trong “cuộc bể dâu”,
thì đối với nhiều thanh niên, việc Cách mạng không cho vào đại học như là
“một cái tát tai nghiệt ngã… Như một thân cây đang vươn lên khao khát đón ánh
nắng cuộc đời thì bị bẻ cụt ngọn”371.
Chỉ
thị của Ban Bí thư từng được nhiều cơ sở Đảng thi hành theo hướng tùy tiện siết
chặt hơn. Phan Vĩnh Hiệp, quê ở xã Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Nghĩa Bình, là học
sinh giỏi vật lý cấp quốc gia nhưng vẫn bị chính quyền xã giữ lại không cho
đi thi ở Tiệp Khắc. Năm sau, Hiệp thi đậu vào Đại học Bách Khoa với số
điểm đủ đi học nước ngoài, địa phương vẫn không cho học chỉ vì cha Hiệp, ông
Phan Vĩnh Long, đã bỏ Đảng trong đợt “tố cộng” năm 1954 của Chính quyền Ngô
Đình Diệm.
Nguyễn
Mạnh Huy, phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, tốt nghiệp cấp III năm
1981. Cũng năm ấy, Huy thi đỗ vào Bách khoa Đà Nẵng với số điểm 26,5 (Á
khoa) trong khi điểm chuẩn chỉ cần 17 điểm. Thay vì có thể thực hiện ước mơ,
Huy nhận được lời thông báo lạnh lùng ở Ban Tuyển sinh Tỉnh: “Không được đi học
vì cha chết trận”. Như hàng triệu thanh niên miền Nam khác, cha của Huy cũng đã
bị “động viên” ngay sau khi “rớt tú tài”. Năm 1965, khi Huy lên hai, cha
anh, một trung úy bộ binh, đã dẫm phải mìn và chết. Mẹ Huy là thư ký đánh
máy cho Sở Thông tin. Tuy là con “sỹ quan ngụy”, nhưng kể từ năm hai tuổi, Huy
chủ yếu lớn lên trong nhà ông nội, vốn là một đảng viên thời kháng Pháp,
ngoài ra Huy còn có một người cậu và một người dì đi tập kết. “Cuộc đời tôi,
việc học của tôi bị chặn ở đây sao?”, nhật ký ngày 25-11-1981 của Huy viết.
Năm
1982, Nguyễn Mạnh Huy chọn một trường ít đòi hỏi về lý lịch hơn: Đại học Nông
Nghiệp IV; kết quả: 22,5 điểm, vượt xa điểm chuẩn. Nhưng bức điện đánh từ Ban
Tuyển sinh vẫn cứ lạnh lùng: “Không được đi học vì cha chết trận”. Nhật ký ngày
6-1-1983 của Huy ghi: “Một người có quyền dự báo một tương lai đen tối, nhưng bất
hạnh nhất khi tự khẳng định nó là một sự thật bất biến”.
Chàng
thanh niên nặng bốn mươi ký Nguyễn Mạnh Huy từ đó đi làm thợ mộc kiếm sống
nhưng vẫn nhắc mình: “Đừng buông súng khi còn sức chiến đấu”. Thế rồi cho đến
sát ngày thi của năm 1983, vì quá “nôn nao, bứt rứt”, Nguyễn Mạnh Huy lại
nộp đơn thi vào Sư Phạm Quy Nhơn, được 18,5 điểm trong khi điểm chuẩn chỉ là
12. Lần này thì Huy không buồn đi xem kết quả nữa.
Ông
Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại đã khó,
nhưng khắc phục những cái do chế độ mới sinh ra lại còn khó hơn”. Chuẩn bị Đại
hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Ông Kiệt nói với nhà báo Thép Mới, lúc
ấy đang cộng tác như một người viết diễn văn cho ông: “Tại sao hồi Đảng
còn hoạt động bí mật mình không phân biệt, tại sao hồi đó mình vận động cả con
em địa chủ, con em tư sản, con em các quan chức trong chế độ Sài Gòn… để giờ
đây khi có chính quyền trong tay mình lại phân biệt! Nếu cứ kéo dài tình trạng
này thì tới bao giờ thanh thiếu niên mới có thể hòa hợp được với nhau?”. Theo
ông Phạm Văn Hùng, thư ký của Võ Văn Kiệt: “Trong khi trao đổi, ông Võ Văn Kiệt
gần như buột miệng nói, ‘Không ai chọn cửa sinh ra’, làm cho cả ông Thép Mới và
chúng tôi đều rất thích thú”.
Tuy
nhiên, trong vấn đề “lý lịch”, tư duy theo kiểu ông Kiệt là rất “thiểu số”. Ông
Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng biết thay đổi không phải là việc giản
đơn vì đó là nhận thức và tính nguyên tắc của cả hệ thống”. Ngày 3-7-1977, tại
Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt phát biểu:
“Thế hệ trẻ đang lớn lên ở Thành phố ta, ra đời từ những hoàn cảnh xã hội
khác nhau, chịu ảnh hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa
mà sinh ra. Đối với mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nhìn họ như
nhau, cùng là những người chủ tương lai của Thành phố. Xã hội muốn tuổi thanh
xuân không mặc cảm và rất thanh thản trong tâm hồn…”. Ông kêu gọi: “Xã hội phải
đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này, ai ai cũng có
nghĩa vụ và quyền lợi như nhau… Chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm
tiêu chuẩn, không để quá khứ ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và
hoài bão cống hiến của mỗi người trẻ tuổi”.
Phát
biểu này của ông Võ Văn Kiệt đã không được ngay cả báo chí dưới quyền của ông
đăng tải. Mãi tới hai tháng sau, báo Tuổi Trẻ mới cho đăng lá thư của “bạn đọc”
Nguyễn Kỳ Tâm, nói về những bế tắc của anh vì lý lịch372 để sau đó, ngày 30-
9-1977, báo Tuổi Trẻ cho đăng tuyên bố “không ai chọn cửa sinh ra” mà ông
Võ Văn Kiệt đã nói tại Đại hội Đoàn vào ngày 3-7-1977. Tổng Biên tập Tuổi
Trẻ từ năm 1977, ông Võ Như Lanh, thừa nhận: “Tòa soạn phải dành thời gian cân
nhắc để chuẩn bị vì khi ấy không khí phân biệt lý lịch rất căng thẳng, mặc dù
ông Kiệt nói vậy, nhưng Thành đoàn vẫn rất gay gắt. Thành ủy thì ngoài ông
Kiệt, không có ai công khai nói gì”. Ông Võ Văn Kiệt, với vai trò hạn chế của
một nhà lãnh đạo địa phương, cũng chỉ có thể xử lý vấn đề lý lịch ở tầm vụ
việc373. Biết bao trường hợp vì lý lịch mà không được tới trường khi cái đúng
chỉ mới tùy thuộc vào ứng xử cá nhân chứ chưa trở thành chính sách.
“Cánh
cửa” Thanh niên Xung phong
Từ
tháng 8-1975, ông Võ Văn Kiệt đã giao cho Thành đoàn tổ chức một lực lượng
thanh niên xung phong đi “thí điểm” khai khẩn đất hoang. Cuối năm ấy, ông Võ Văn
Kiệt triệu tập Ban Thường vụ Thành đoàn đến nhà riêng ông Phan Minh Tánh,
bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam. Vào họp, ông Kiệt giao
nhiệm vụ: “Thành phố cần một lực lượng, lực lượng đó là thanh niên xung phong.
Giao Thành đoàn đứng ra tổ chức, cần Thành ủy hỗ trợ gì, Thành ủy sẽ đáp ứng”.
Ông giải thích: “Phải tạo ra một môi trường để mọi thanh niên đều có thể tham
gia lao động để có suy nghĩ tích cực và để hãnh diện về bản thân mình”.
Ông
Võ Ngọc An năm ấy ba mươi mốt tuổi, đang là ủy viên Thường vụ Thành đoàn phụ
trách báo Tuổi Trẻ, nhớ lại: “Lúc đó, nghe ông Kiệt nói cảm thấy như đang
nghe một điều gì đó thật thiêng liêng”. Sau cuộc họp ấy, ông Võ Ngọc An lãnh
trách nhiệm huy động tiền bạc để may hàng ngàn bộ đồng phục xanh.
Hàng
chục năm sau, nhiều người dân Thành phố nhớ tới ngày 28-3-1976, không chỉ vì
tính hoành tráng của cuộc biểu dương lực lượng ở sân vận động Thống Nhất với
một “rừng người” áo xanh, tay cầm cuốc xẻng, mà ở cách mở đầu bài nói chuyện
của một bí thư cộng sản. Thay vì, “các đồng chí” như cách xưng hô thống
trị thời bấy giờ ở trên mọi diễn đàn, ông Võ Văn Kiệt đã làm nhiều thanh
niên ứa nước mắt khi nói: “Các em đoàn viên, thanh niên yêu quý!”.
Trong
số hàng vạn thanh niên có mặt hôm ấy không chỉ có con em Cách mạng. Theo yêu
cầu của ông Võ Văn Kiệt, Thành đoàn đã vận động được cả những thanh niên nghiện
xì ke, ma túy, có người đã từng là “đĩ, điếm”, có người là “lính ngụy”. Theo
ông Võ Ngọc An, trong số ấy có một đại úy Sài Gòn, cha anh đã từng bị giết nhầm
bởi “Việt Cộng”. Những thanh niên ấy, từ sau ngày 30-4, thông qua cách cư xử
của các cán bộ phường, thông qua những ngôn từ cao ngạo trên báo đài, biết được
thân phận của mình, dám mong chi có ngày một ông bí thư gọi mình là “các em yêu
dấu”.
Với
tư cách là một nhà lãnh đạo Đảng, ông Võ Văn Kiệt cũng nói về truyền thống theo
cách của mình: “Tôi cũng xin phép được bày tỏ với lứa tuổi hai mươi của đất
nước đã hết đau thương và từ đây thẳng đường đi tới chủ nghĩa xã hội với tất cả
tấm lòng trìu mến và kỳ vọng thiết tha của những lớp thanh niên nối tiếp nhau
đã từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng Tháng Tám…”. Ông nói tiếp:
“Lý tưởng của họ, ước mơ của họ chính là hiện tại mà hôm nay các em đang
sống. Nếu các em sau này có điều kiện ôn lại kỹ càng một giai đoạn cách mạng
hùng vĩ đã qua của dân tộc, các em sẽ biết thương yêu vô hạn Tổ quốc Việt
Nam nghìn lần yêu dấu. Các em sẽ mạnh lên gấp bội vì một niềm tin ở nhân dân và
đất nước”.
Bài
diễn văn được chấp bút bởi nhà báo Thép Mới, một người viết tùy bút nổi tiếng,
tác giả của bài “Tre Việt Nam” in trong sách giáo khoa được thuộc lòng
bởi nhiều thế hệ. Tinh thần của ông Võ Văn Kiệt, có lúc, được ông Thép Mới
thể hiện với giọng văn nồng nàn. Ông Võ Văn Kiệt, lúc này, vẫn để cho Thép Mới
sử dụng hình tượng Pavel, hình tượng về một thế hệ quên mình để “tạo lập nên
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên”. Tuy không hùng hồn như ông Trần Bạch Đằng,
nhưng cái đẹp của thanh niên theo ông Kiệt vẫn là lao động374. Kết thúc
bài diễn văn, ông Kiệt nói: “Chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng những lớp công
dân xã hội chủ nghĩa của thành phố chúng ta từ đây nối tiếp nhau nẩy nở và
trưởng thành trên những công trường lao động tình nguyện. Chúc các em thành
công thắng lợi, trên trận tuyến mới, trận tuyến lao động vinh quang”.
Không
có mặt ở sân vận động Thống Nhất sáng 28-3-1976, nhưng giáo sư trung học Trần
Ngọc Châu vẫn chịu ảnh hưởng bởi bài diễn văn. Năm ấy, ông Châu nằm trong toán
vận động thanh niên đi thanh niên xung phong của Quận đoàn I. Ông Trần
Ngọc Châu kể: “Bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt được quay ronéo, chúng tôi cho
họp dân ở phường, đọc những đoạn cảm động nhất”.
Theo
ông Trần Ngọc Châu thì khi ấy, phường đoàn cũng có chuyện, họ lập danh sách và
thường xuyên bắt tập trung những thanh niên chưa có công ăn việc làm, khiến nhiều
người bất mãn. “Cộng sản” và “đồng chí” là những khái niệm rất xa cách và có
khi là ác cảm với thanh niên, cho nên theo ông Châu: “Nhiều người chỉ vì thấy
ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi. Có người học thuộc nhiều đoạn trong bài
diễn văn của ông Võ Văn Kiệt”. Ông Châu trước đó là giáo viên Anh văn, đã có
bằng cao học triết, thế nhưng sau một thời gian đi vận động người khác, chính
ông Châu cũng nhận ra con đường để trụ lại trong chế độ tốt nhất là phải “chọn
cánh cửa” này375.
Nguyễn
Nhật Ánh376 cũng đã chọn thanh niên xung phong như là một con đường để giải tỏa
áp lực nặng nề của lý lịch. Sau ngày 30-4-1975, ông hàng xóm làm thợ mộc ở
phường Nhật Tảo, Quận 10, bố của ba cô con gái khá xinh mà sinh viên Nguyễn
Nhật Ánh dạy kèm, bỗng nhiên trở thành chủ tịch khóm, về sau là chủ
tịch phường. Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy vừa học xong chương trình đệ nhất cấp
ở Đại học Sư phạm, được ông thợ mộc đưa lên phường lo việc giấy tờ. Theo “tinh
thần Chỉ thị 222”, năm 1976, anh được phép tốt nghiệp sau khi học thêm tám
tháng “chính trị”. Tuy nhiên, Ánh không được phân công công tác chỉ vì cha anh
lúc đó đang phải đi “học tập” do từng là trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi Tỉnh
Quảng Tín377.
Nguyễn
Nhật Ánh trở về phường Nhật Tảo khi cô con gái ông chủ tịch đã trở thành bí thư
Phường Đoàn. Cô bí thư chiếu cố thầy giáo cũ của mình, mỗi khi có “phong trào”
lại gọi Nguyễn Nhật Ánh vác loa đi đọc bản tin hoặc kẻ lên tường những câu khẩu
hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đổi lại, anh có thù lao mười ký gạo mỗi
tháng. Nguyễn Nhật Ánh cũng tiếp cận bài diễn văn của ông Võ Văn
kiệt thông qua những lần đi vận động thanh niên xung phong. Anh kể: “Khi
mọi người đi hết, tôi chợt nhận ra, không lẽ mình cứ ăn bám bà dì hoài, năm
1977, tôi cũng lên đường”.
Chỉ
huy Lực lượng Thanh niên xung phong khi ấy là ông Võ Viết Thanh. Năm 1975, khi
ông Võ Văn Kiệt cần một sỹ quan trẻ biệt phái sang thanh niên xung phong, Đại
úy, Tiểu đoàn trưởng Võ Viết Thanh đã được chọn. Ông Thanh nhớ lại:
“Khi
xuống U Minh, tôi cũng hơi suy nghĩ, đang là một sỹ quan được quân đội trọng
dụng, giờ ra nằm giữa rừng, gian khổ không kém chi thời chiến”.
Thanh niên xung phong thuộc nhiều thành phần, có người là tướng cướp, có người xuất thân là trí thức, sỹ quan, nhưng chủ yếu là thanh niên học sinh. Theo ông Võ Viết Thanh, họ chịu đựng gian khổ không thua gì những chiến binh. Giữa rừng U Minh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu… mùa mưa thì nước ngập mênh mang, mùa khô thì phải chia từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi thì đỉa, vắt và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá duy nhất để chữa là “xuyên tâm liên”. Thế mà họ đã sống với nhau không câu nệ quá khứ. Đa phần đều trưởng thành. Ông Võ Viết Thanh thừa nhận, chính ông cũng phải dần dần mới “bắt được nhịp sống với họ”. Ông Thanh nói: “Hơn sáu vạn con người không biết Cách mạng là gì, chỉ nghe lời ông Sáu Dân mà kiên gan, bền bỉ”.
Một
năm sau ngày phát động “phong trào thanh niên xung phong”, tại cuộc gặp mặt
những “đại biểu thanh niên xung phong tiên tiến”, ngày 3-3-1977, ông Võ
Văn Kiệt đã gọi thanh niên xung phong là một “trường đại học”. Ông Kiệt
cho rằng sở dĩ các chàng trai cô gái đã “trưởng thành trên nhiều mặt” là vì họ
đã “thấy được tiền đồ tương lai của mình nằm trong tiền đồ, tương lai của đất
nước, dân tộc… Nhiều đồng chí đã xác định với tình cảm và lý trí sâu sắc lao
động là vinh quang”378.
Môi
trường thanh niên xung phong ở thời điểm ấy đúng là đã tạo ra không ít câu
chuyện kỳ diệu379. Trước “giải phóng”, Vũ Hoàng Vi là một tướng cướp. Lúc đầu,
Vi chỉ định “trà trộn” vào lực lượng thanh niên xung phong như là một nơi để
trốn.
Nhưng
tung tích của Vũ Hoàng Vi bị tổ chức phát hiện. Anh không những không bị bắt mà
còn được vận động thuyết phục. Lần đầu tiên, Vi nhận ra có một nơi
tôn trọng mình, anh lao động tốt, được tuyên dương, được cho đi học, được
đưa lên làm đại đội trưởng và về sau còn được kết nạp Đảng.
Trong những bài phát biểu với thanh niên xung phong về sau, ông Võ Văn Kiệt vẫn tiếp tục gọi họ là “các em”. Nhưng khi phát biểu với những “thanh niên tiên tiến”, ông đã gọi họ là “đồng chí”. Trong một đại hội thanh niên tiên tiến khác, ông Võ Văn Kiệt đã đưa một đội viên vốn là một tay anh chị nổi tiếng, “Bảy Đầu Bò”, ngồi chung trên ghế chủ tịch đoàn với mình.
Nếu
như trong những ngày đầu, nhiều thanh niên miền Nam hết sức dị ứng với cách Cách
mạng xưng hô với nhau, thì ở thời điểm ấy “đồng chí” lại là một sự thừa nhận mà
nhiều thanh niên tìm kiếm.
Năm
1977, Nguyễn Nhật Ánh đang tham gia đào kênh Ba Gia ở Hố Bò, Phú Hòa. Lúc này
anh đã có nhiều tác phẩm đăng trên tờ Tuổi Trẻ, nhưng với lý lịch cha là trưởng
ty “chiêu hồi”, anh vẫn không được kết nạp Đoàn. Khi ấy, thanh niên
xung phong ở trong những lán tranh, vách nứa, một bên là nơi ngủ của nam,
một bên là nữ; phần giữa lán kê những bộ bàn ghế tạm do chính họ làm. Một buổi
tối, chi đoàn nhóm họp nơi khoảng giữa lán có kê bàn ghế đó. Đang họp, một
người trong Ban Chính trị Liên đội phát hiện ra Nguyễn Nhật Ánh đang nằm chèo
queo trên giường, lập tức “phần tử chậm tiến” Nguyễn Nhật Ánh bị đuổi ra ngoài.
Hôm ấy mưa, trời tối như bưng, Nguyễn Nhật Ánh phải đi ra, lang thang giữa rẫy
khoai mì, mặt ướt đẫm vì nước mưa và nước mắt. Anh nhớ lại: “Tôi có cảm giác
như bị đẩy ra khỏi đồng loại”. Nhưng cho dù cảm giác về thời đại mới ra sao thì
Nguyễn Nhật Ánh cũng không có lựa chọn nào khác là phải “quay vào”, phải chứng
tỏ mình là một thanh niên tiên tiến.
Ngày
26-3-1978, mười hai giờ đêm, ông Võ Văn Kiệt lên, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Ngọc
Châu và nhiều thanh niên khác được gọi dậy: bên ngoài, đuốc được đốt lên và
nhiều thanh niên của chế độ cũ, trong đó có Trần Ngọc Châu, từ đêm ấy, “vinh dự
được đứng trong hàng ngũ của Đoàn”. Theo ông Trần Ngọc Châu: “Ông Võ Văn Kiệt
đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo, đứng lên đánh trống.
Hình ảnh một ông Kiệt sừng sững đã đọng lại trong ký ức của lực lượng thanh
niên xung phong”. Ông Châu nói: “Khi ấy, vào Đoàn là thiêng liêng lắm”.
Đoàn
thiêng liêng lắm, nhưng “ánh đuốc” trong đêm ấy không thể rọi sáng đến tất cả
mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đã dùng cuốc chim, cuốc đá
ong đào kênh cho đến khi hai tay tóe máu mà vẫn không được vào Đoàn chỉ vì cha
là “Ngụy”. “Cánh cửa thanh niên xung phong” mà ông Kiệt thiết lập vẫn không đủ
rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.
“Nổi
loạn”
Nhiều
thanh niên xung phong về sau vẫn nhớ về những ngày chặt cây rừng và hát tráng
ca. Trong những ngày có quá nhiều người mất phương hướng ấy, phải công nhận là
ông Võ Văn Kiệt đã tìm được một phương thức hiệu quả để thu hút thanh niên.
Họ
đã bước vào những chuẩn mực chính trị mới do Cách mạng thiết lập, ít nhiều bằng
cảm hứng. Không phải tự nhiên mà những gót son Sài Gòn bị đưa đến chốn rừng
thiêng, đạp gai rừng ấy đã không trách gì ông. Họ cũng đã đi bởi niềm tin.
Nhưng bộ đồng phục thanh niên xung phong không thể che hết lòng mặc cảm, bởi
mặc cảm không xuất phát từ nơi mà những người thanh niên đó được sinh ra. Sự
mặc cảm xuất hiện do chế độ thiết lập quá nhiều hàng rào lý lịch. Khi mà
những hàng rào ấy chưa được gỡ bỏ thì đồng phục cũng không tạo ra được cảm
giác đồng đội, cho dù họ ngủ cùng lán, đứng cùng hàng, chưa kể những người khi
ấy vẫn ở “ngoài xã hội”380.
Sau
“giải phóng”, Cư xá Bắc Hải, Quận 10 trở thành nơi ở của những gia đình sỹ quan
cao cấp của Cách mạng. Gia đình một số tướng, tá của “chế độ cũ” vẫn sống “xôi
đỗ” ở đây. Con em các gia đình cách mạng đương nhiên là “nòng cốt”. Nguyễn Thế
Dũng là một thanh niên như vậy. Dũng là con trai của Đại tá Nguyễn Thế
Truyện, người được coi là “con hùm xám” khi còn là tư lệnh Sư 9. Đại tá Truyện
hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân khi tấn công đợt II vào Sài Gòn. Khi ấy
ông Truyện là tư lệnh Phân khu I. Sau ngày 30-4-1975, vợ con của Đại tá Truyện
được đưa về Sài Gòn sống trong căn nhà T10, Cư xá Bắc Hải. Trong những năm cuối
thập niên 1970, Nguyễn Thế Dũng là phó bí thư phường đoàn, được giao đi vận
động, cảm hóa con em sỹ quan “chế độ cũ”.
Cô
“tiểu thư” Lê Bích Thúy ở nhà T4, con gái Trung tá Lê Văn Dương, trưởng Phòng
Quân sử, Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một trong những “đối tượng”
của Dũng. Nhưng cuối cùng người bị “cảm hóa” lại là Dũng. Hai người, một
là con trai vị tư lệnh khét tiếng của cộng sản, một là con của một “ngụy quân”
đang bị cải tạo trong tù, yêu nhau và kiên quyết lấy nhau. Mẹ Dũng khóc lên,
khóc xuống. Phu nhân các đồng đội cũ của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, lúc bấy giờ đa
số đã là tướng, khuyên bà quả phụ phải phá bằng được cuộc hôn nhân. Nhưng
Nguyễn Thế Dũng dứt khoát không chịu, anh sang nhà người yêu nói với bà mẹ: “Má
chịu gả thì con cưới chứ nhà con không ai chịu sang đâu”. Bà phu nhân Trung tá
Lê Văn Dương chỉ biết gật đầu lặng lẽ.
Chị
ruột của Nguyễn Thế Dũng là nhà báo Nguyễn Thế Thanh, sau là tổng biên tập báo
Phụ Nữ Thành phố, chạy lên cầu cứu ông Võ Văn Kiệt. Nghe xong, ông Kiệt nói:
“Mình dạy người khác không phân biệt, mình cố gắng để vợ con người ta đừng thù
hận mà mình làm như thế sao người ta quên”. Rồi ông bảo: “Kêu hai đứa lên đây
tao gặp”. Thế Thanh về kêu Dũng chở người yêu lên. Ông Võ Văn Kiệt tiếp hai
người hết sức thân tình rồi, khi Dũng đi ra vườn, ông Kiệt hỏi Lê Bích Thúy:
“Cháu có lường hết những khó khăn khi lấy Dũng không?”. Bích Thúy: “Dạ thưa,
cháu yêu Dũng, cháu biết nhưng cháu chọn anh ấy”. Ông Kiệt: “Nhỡ khi đi học tập
về, ba cháu không chịu thì sao?”. Bích Thúy: “Dạ không, ba cháu rất thương
cháu, cháu tin là không có chuyện đó, nhưng nếu ba cháu không chịu thì cháu sẽ
đấu tranh”. Ông Kiệt cho gọi Dũng vào hỏi: “Cháu có băn khoăn gì không?”.
“Không!”, Dũng dứt khoát. Ông Kiệt nói: “Cháu lấy con một sỹ quan chế độ cũ thì
không tránh khỏi bị nghi kỵ, bác không phải lúc nào cũng ở bên các con”. Rồi
ông nói với hai đứa trẻ: “Giờ bác Sáu thay mặt ba, bác ủng hộ tụi bây”. Sau đó,
ông Võ Văn Kiệt gặp bà quả phụ Đại tá Nguyễn Thế Truyện và ông chỉ dặn: “Thôi
chuyện mấy đứa nhỏ chị cứ để cho tụi nó tính”.
Năm
1982, khi Trung tá Lê Văn Dương được tha về, con gái ông đã có con với con trai
một người cộng sản. Ông chủ động qua nhà T10 gặp bà đại tá nói: “Tôi đi học
không biết là hai nhà chúng ta đã thành thông gia, âu cũng là số phận lịch sử.
Tôi đi, cũng học được nhiều điều, bác trai đã hy sinh, hai gia đình gặp nhau
trong tình thông gia thế này cũng là điều tốt”. Rồi khi thắp hương cho Đại tá
Nguyễn Thế Truyện, Trung tá Lê Văn Dương khấn: “Thưa bác, tôi là Lê Văn
Dương cha của con dâu bác, xin thắp nén nhang này báo với bác, chúng ta giờ là
thông gia của nhau”.
Tình
yêu tự thân nó không phân chia lý lịch. Nhiều cuộc tình thanh niên xung phong
cũng chịu ngang trái, có người cũng may mắn như Nguyễn Thế Dũng và Lê Bích Thúy
nhưng cũng có những cuộc tình trắc trở. Cuối năm 1978, Đại úy Quân y Sài Gòn,
Bác sỹ Thiều Huỳnh Chí đi học tập trở về, ông lên trình diện Sở Y tế và được
đưa về Duyên Hải làm trạm trưởng y tế cho một đơn vị thanh niên xung phong,
Nông trường Đỗ Hòa.
Vốn
là một bác sỹ ngoại khoa nhưng ở đấy ông Thiều Huỳnh Chí đã tự thiết kế từ
chiếc ghế nhổ răng, cái hố xí hai ngăn và nổi tiếng khắp vùng với tài đỡ đẻ.
Bác sỹ Chí đã quyết định ở lại trong khi vợ ông đưa các con đi vượt biên. Giám
đốc Nông trường lúc ấy là chị Võ Thị Bạch Tuyết, nguyên là một chỉ huy của
phong trào đốt xe Mỹ, bị tra tấn và bị đày ra Côn Đảo nhiều năm. Những ngày làm
việc bên nhau đã xích bác sỹ Thiều Huỳnh Chí và Giám đốc Võ Thị Bạch Tuyết lại
gần nhau. Nhưng tình yêu của họ đã không được Thanh niên Xung phong ủng hộ.
Đảng
ủy Thanh niên Xung phong kiên quyết không cho hai người lấy nhau vì Bác sỹ Chí
không những là “ngụy” mà còn là một “người Việt gốc Hoa”. Ông Phan Minh Tánh
nói: “Tôi hay xuống làm việc với cô Tuyết, tôi hiểu hoàn cảnh của cô ấy. Thành
ủy chúng tôi ủng hộ nhưng Thanh niên Xung phong không chịu”. Sau đó, ông Mai
Chí Thọ cho mời Thường vụ Đảng ủy Thanh niên Xung phong lên, hỏi họ
theo cách rất Năm Xuân: “Nó (chị Bạch Tuyết) lớn tuổi lại bị tra tấn không
sinh nở được, giờ không cho nó lấy chồng vậy trong tụi bây có ai lấy nó
không?”.
Nhà
văn Nguyễn Đông Thức, thuộc lớp thanh niên xung phong đầu tiên của Nông trường
Đỗ Hòa, kể: “Trước hôm đám cưới, ông Võ Văn Kiệt, khi ấy đã ra Hà Nội làm phó
chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã về, xuống nông trường ngủ lại một đêm và chung
vui với họ”381.
Nhưng
đám cưới của một nữ giám đốc nông trường và một “đại úy ngụy” đã không tạo ra
tiền lệ. Năm 1982, Đảng ủy Thanh niên Xung phong lại ngăn cản cuộc hôn nhân của
Nguyễn Nhật Ánh với Trần Thị Tiếng Thu. Tiếng Thu lúc ấy đang là phó Phòng
Chính trị Lực lượng Thanh niên xung phong. Bốn ngày sau khi hội nghị chi bộ Cơ
quan Lực lượng “biểu quyết khai trừ ra khỏi Đảng”, “cô dâu” Trần Thị Tiếng Thu
đã viết đơn gửi Ban Tổ chức Thành ủy. Đơn của Tiếng Thu khai: “Vào khoảng giữa
năm 1981, tôi và đồng chí Nguyễn Nhật Ánh đặt vấn đề tìm hiểu nhau để đi đến
hôn nhân. Sau đó đã chính thức báo cáo với Đảng ủy và chi bộ cơ quan (đồng chí
Nhật Ánh là thanh niên xung phong hiện công tác tại Phòng Chính trị)”. Đơn của
Tiếng Thu cho biết: “Trong nửa năm qua, Đảng ủy và chi bộ đã nhiều lần thuyết
phục tôi cắt đứt mối quan hệ này. Đồng chí bí thư Đảng ủy, hầu hết
các đồng chí trong Đảng ủy đã lần lượt gặp tôi. Sau đó, trong phiên họp
chi bộ thường kỳ vào tháng 2-1982, chi ủy đã mang vấn đề của tôi ra kiểm điểm,
nội dung: đồng chí Nguyễn Nhật Ánh tuy là một đồng chí tốt, nhưng đồng chí có
người cha trước đây làm việc cho chế độ cũ với mức độ như thế thì đứng về
mặt lập trường giai cấp, một đảng viên không thể chung sống với một gia đình
như vậy… Đồng thời, chi bộ cũng kiểm điểm tôi về việc trước khi tìm hiểu đồng
chí Nguyễn Nhật Ánh, tôi đã không xin ý kiến trước, để bây giờ đặt tổ chức vào
một việc đã rồi”.
Lá
đơn của Trần thị Tiếng Thu viết tiếp: “Trong phiên họp tháng 2 và phiên họp
tháng 6 vừa qua, chi bộ đã đặt tôi vào hoàn cảnh phải chọn lựa: một là Đảng,
hai là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh. Tôi đã
khẳng định là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh,
nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đã chọn lựa, tôi không bao giờ có ý định
rời bỏ Đảng”.
Quyết
tâm của đôi lứa yêu nhau đã không dễ dàng để thành hiện thực. Cho dù là công
dân, hai người có quyền đăng ký kết hôn, nhưng vì Trần Thị Tiếng Thu đang là
người của lực lượng Thanh niên Xung phong, chính quyền địa phương chỉ cho phép
đăng ký khi có xác nhận của lực lượng nơi chị đang đăng ký hộ khẩu tập thể.
Trong khi đó, Phòng Tổ chức Lực lượng không chịu xác nhận thường trú một khi
không có chấp thuận của Đảng ủy.
Tháng
10-1983, Trần Thị Tiếng Thu đành phải thực hiện quyền công dân của mình bằng
cách: chị viết một lá đơn xin “xác nhận hộ khẩu” để “bổ túc hồ sơ xin đăng ký
xe”. Phòng Tổ Chức đã xác nhận cho chị. Nhưng, chữ “xe” đã được hai người
yêu nhau âm mưu viết sao để sau khi ký về sửa thành chữ “kết” và “bổ túc” thêm
chữ “hôn”, đăng ký xe thành “đăng ký kết hôn”. Sau đám cưới, ngày 30-5- 1984,
Trần Thị Tiếng Thu đã nhận được quyết định kỷ luật “cảnh cáo”. Căn cứ để Phó Bí
thư Thành ủy Phan Minh Tánh ký quyết định này là: “Xét thấy đồng chí Thu còn
non kém về quan điểm lập trường và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật trong việc xây
dựng gia đình”.
Không
chỉ vượt qua những định kiến của chế độ mới dũng cảm bảo vệ tình yêu lứa đôi,
rất nhiều người trong số họ đã chiến đấu để bảo vệ giang sơn vì tình yêu tổ
quốc. Hàng ngàn thanh niên xung phong đã ra chiến trường khi Pol Pot giết
thường dân ngoài biên giới. Theo nhà báo Trần Ngọc Châu, năm 1977-1978, khi
chiến tranh Biên giới Tây Nam nổ ra, rất nhiều người xung phong ra tiền tuyến
nhưng không phải ai cũng được chọn. Ngày 14-6-1978, 500 nam nữ thanh niên xung
phong thuộc Liên đội 5 được điều ra biên giới, “phối thuộc” Sư đoàn 7, Quân
đoàn IV, với nhiệm vụ cáng thương, tải đạn, làm đường, chống lầy, bốc xếp đạn
dược, khâm liệm và chôn cất liệt sĩ. Đoạn đường mà Liên đội 5 đảm trách chỉ dài
hơn 10km, nhưng lún, lầy rất nặng; thanh niên xung phong phải thường xuyên san
lấp, chèn cây nhiều lớp, công việc vô cùng gian khổ.
Chiều
21-7-1978, Trung đội 3 được giao bám sát bộ đội đang vận động tấn công Khmer
Đỏ. Trung đội có một tiểu đội nữ do Đại đội Trưởng Ngô Đức Minh trực tiếp chỉ
huy, di chuyển lên chốt chặn gần ngã ba Koky Som. Rạng hôm sau, ngày 22-7-
1978, một tiểu đoàn Khmer Đỏ, trên đường luồn sâu vào phía sau mặt trận, đã
chạm trán Trung đội 3. Trận đánh – giữa một bên là những tên lính Khmer Đỏ hung
hãn với một bên là những thanh niên chưa có một ngày được huấn luyện chiến đấu
và vũ khí thì chỉ có vài người được trang bị – đã biến thành một cuộc thảm sát.
Khi lực lượng Sư đoàn 7 kịp đến bao vây và tấn công, tiêu diệt toàn bộ chín
mươi sáu tên Pol Pot, thì bọn chúng đã kịp giết chết hai mươi bốn người: Xác
Đại đội trưởng
Ngô Đức Minh bị đốt; bảy cô gái thanh niên xung phong bị hãm hiếp trước khi bị giết giã man. Chỉ có hai người – Nguyễn Thị Lý và Nguyễn Văn Tuấn – là sống sót, nhờ được xác của đồng đội đè che, sau khi cả hai đều bị thương rất nặng.
Tin
hai mươi bốn đồng đội bị thảm sát được truyền đi trong toàn lực lượng. Cái chết
của họ không làm các nam nữ thanh niên xung phong run sợ cho dù thanh niên xung
phong phục vụ chiến trường khi ấy chưa được trang bị súng đạn hay bất cứ vũ khí
gì để tự vệ. Họ ở phía sau. Nếu bộ đội phía trước bị bật chốt hay bị tiêu diệt
thì số phận tiếp theo là chính họ. Khi nghe tin Trung đội 3 của Liên đội 3 bị
thảm sát, nhà thơ Đỗ Trung Quân – khi ấy đã rời Tòa soạn báo Tuyến Đầu,
nhận nhiệm vụ ở một đơn vị Thanh niên xung phong phối thuộc Trung đoàn Gia
Định – đã viết “Những bông hoa trên tuyến lửa”. Nhận được bài thơ, từ tòa soạn
báo Tuyến Đầu, Cao Vũ Huy Miên viết thư tay gửi theo xe quân sự gửi Quân: “Lực
lượng triệu tập, có hội diễn văn nghệ thanh niên xung phong. Ông xin phép rồi
tìm xe bộ đội về thẳng Sài Gòn. Mong gặp ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên”.
Từ
Campuchia, lúc này được gọi là “Chiến trường K”, Đỗ Trung Quân theo xe bộ đội,
về tới Thành phố sau ba ngày đường dò dẫm qua những Phum Sóc không còn bóng
người và thỉnh thoảng lại gặp mìn gài lại của tàn quân Pol Pot. Sau gần hai năm
nhìn lại những ánh đèn Thành phố, mắt cay cay, Quân chen qua đám đông, bước vào
Nhà Văn Hóa Thanh Niên. Anh nhìn thấy ở đó những “chiến sỹ văn công Tổng đội”:
Ánh Hồng, Ánh Thu, Trương Tam Sa, Hoàng Tuấn, Kiều Nga, Kiều Giang… Cao Vũ Huy
Miên đón Quân sau cánh gà: “Tôi tưởng ông không về kịp…”.
Quân
bước ra sân khấu, đặt chiếc ba lô xuống chân. Bộ đồng phục đã bị bụi đường
nhuộn màu nâu đỏ. Đỗ Trung Quân năm ấy, một gã trẻ tuổi đeo kính cận, tóc tai
bờm xờm, chỉ kịp giới thiệu mình bằng bài thơ vừa viết:
Ở
giữa rừng đâu có gương soi
Làm
sao em thấy được vết bầm trên má
huyến
tải thương về mấy lần trượt ngã
Vì
mùa mưa nào đã chịu dứt ở đây
Anh
bộ đội thương binh vừa tỉnh lại sáng nay
Đã
hỏi thăm em, người cáng thương đêm trước
Cô
ấy ngã mấy lần tôi đếm được
Mà
sao không khóc mới lạ lùng
Chắc
anh hiểu rồi em ở tấm lòng
Nước
mắt chỉ dành cho người ngã xuống
Nên
dù té đau gai rừng tê chân buốt
Đâu
để vết thương anh rỉ máu hai lần
Em
là người thanh niên xung phong không-có-súng-chỉ-có-đôi-vai-cáng-
thương-tải-đạn…
Theo
ông Võ Viết Thanh, nếu ông Võ Văn Kiệt không kiên quyết thì lực lượng thanh
niên xung phong đã không được trang bị súng. Sau những cái chết đau đớn của các
đội viên, nhiều vị lãnh đạo vẫn sợ: “Giao vũ khí cho chúng à?”. Ông Võ Viết
Thanh kể, khi đưa Lực lượng lên rừng, nhiều người vẫn lo “cái đội quân xô bồ, ô
hợp ấy mà tan ra thì hậu quả không biết thế nào”. Tổng cộng đã có 5.000 lượt
thanh niên xung phong tham gia phục vụ Chiến trường đánh Khmer Đỏ.
Ngoài
ông Bảy Thanh, không phải nhà “lãnh đạo lực lượng” có “cầm cờ, đứng tên” nào
cũng “có một ngày đi với anh em” để biết sự tàn bạo của quân Pol Pot. Khi được
trang bị vũ khí, những thanh niên phục vụ chiến trường này đã chiến đấu như
những đơn vị quân sự thật sự. Chính những đội viên thanh niên xung phong xuất
thân từ những người lính chế độ cũ, từng được coi là “Ngụy”, giờ ấy đã tổ chức
huấn luyện cấp tốc cho đồng đội về chiến thuật, về cách sử dụng vũ khí để đánh
lại kẻ thù. Nhiều người trong số họ đã hy sinh anh dũng. Ông Trần Ngọc Châu cho
biết: “Công việc làm đường, tải thương và tiếp đạn đôi khi còn nguy hiểm hơn
những người chiến đấu. Trung đội tôi quân số 50 thanh niên xung phong, có 30
người chết”.
Năm
1982, khi tờ Tuyến Đầu của Thanh niên Xung phong bị lực lượng giải tán, Nguyễn
Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đông Thức… trở về. Bộ đồng phục
xanh lá cây đã làm họ thay đổi rất nhiều sau khi thấm bằng mồ hôi và cả
máu. Thanh niên xung phong là tấm giấy thông hành đem lại ít nhiều kiêu hãnh
cho những người có nó. Chế độ mới đã coi những tấm giấy ấy như một chứng chỉ
hoàn thành cuộc sát hạch vinh quang. Hơn sáu vạn giáo sư, bác sỹ, sinh viên,
thanh niên lẽ ra có thể dành những năm đẹp nhất của cuộc đời mình để cống hiến
cho xã hội những gì mà họ thành thạo nhất. Vậy mà, để được chế độ thừa nhận, họ
đã phải xuống biển, lên rừng, bàn tay chai sần đi và kiến thức chuyên môn thì
mai một.
“Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”
Nhiều
thanh niên “ngụy” đã bước qua cánh cửa Cách mạng thanh niên xung phong rồi được
trọng dụng hơn trong chế độ. “Nước sông công lính” đã giúp khai hoang phục hóa
hàng vạn hecta đất trong các vùng chiến tranh; đào được hàng trăm kilomet kênh
mương. Nhưng, không phải con kênh nào cũng thực sự có ý nghĩa về thủy lợi;
không phải cánh rừng nào bị tàn phá cũng để phục vụ quốc kế dân sinh.
Ngày
3-3-1977, khi nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Xung phong Tiên tiến,
ông Võ Văn Kiệt biểu dương: “Trong năm qua các đồng chí đã cất được hàng
chục vạn nhà, đào hàng ngàn giếng, đốn và chặt hàng triệu cây, phát hoang hàng
trăm mẫu, đã góp công góp sức vào việc hoàn thành trên ba mươi xã trong số tám
mươi xã kinh tế mới”. Thế nhưng, đến cuối năm, ngày 12-12-1977, trong lễ ra
quân trên “Đại Công trường Thủ công” xây dựng khu kinh tế mới Dương Minh Châu,
ông đã cảnh báo họ: “Đất nước còn nghèo, sống hôm nay phải nghĩ tới ngày mai,
các em cần bảo nhau hết sức quý trọng… từng tấc đất và mọi tài nguyên của tổ
quốc! Phải rèn giữ cho nhau từ bỏ thói quen xả láng, phung phí rất xa lạ với
con người mới… Tôi dặn các em chớ thấy cây rừng mà chặt bừa bãi. Cành cây chặt
xuống đừng để vương vãi, các em chịu khó thu nhặt lại, dành dụm được ít củi cho
thành phố”.
Sau
hai năm lên rừng để dọn sạch những “rác rưởi” của chiến tranh, mỗi lần trở về
thành phố vẫn thấy “nhan nhản những đám thanh niên tiếp tục sống bám vỉa
hè, nhởn nhơ bên lề xã hội, giết thời gian bằng cách lê la tiệm quán, hết
đi lượn phố lại tụ năm tụ ba ở những nơi công cộng”, nhiều thanh niên xung
phong đã không khỏi nhìn lại những năm tháng đi xa xây dựng chế độ mới của
mình. Tại “Lễ mừng 46 năm thành lập Đoàn”, 26-3-1978, ông Võ Văn Kiệt nói:
“Nhiều em cũng viết thư cho tôi tỏ ý bất bình… Nhiều bạn trí thức sống lâu
năm ở thành phố này cũng nói với chúng tôi: Cảnh đó trước đây nhìn mãi quen
mắt, không ai để ý đến nữa, tưởng đời sống thanh niên thành phố vốn nó là như
thế. Đến bây giờ không sao coi được. Tôi rất muốn gặp các anh em đó, hỏi các em
nghĩ gì về cuộc đời này, nghĩ gì về cuộc đời bản thân của các em”.
Ông
Kiệt muốn những người “lê la tiệm quán” ấy phải tự đặt câu hỏi về tương lai của
mình. Nhưng các “em thanh niên xung phong” viết thư cho ông Kiệt không chỉ để
chất vấn những người “chậm tiến” ấy. Điều khiến họ hy sinh những năm tháng xa
người thân, xa đèn điện là để kiến tạo một thành phố mới chứ không phải để thấy
rồi những “tàn dư Mỹ Ngụy” lại vẫn cứ quay về. Sáu vạn thanh niên rời Thành phố
đi xa, và sửa mình theo hướng mà Cách mạng cho là tích cực. Trong khi đó, bốn
triệu thường dân khác vẫn có nhu cầu để sống một đời sống bình thường. Nếu như
năm 1975, 1976, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài Gòn vẫn thích đeo bên
hông khẩu K54, thì những năm về sau, họ đã biết uống bia, biết áo phông, quần
bò. Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén sau bảy năm
“giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền Bắc, đến
trước mặt anh chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và hỏi: “Ê Quân, thấy bọn
này Sài Gòn chưa?”.
Khi
ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:
Bảy
năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một
góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những
con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời
lương thiện
Những
gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm
lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc
đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
Và
khi ấy
Thì
chính “các anh”
Những
người nhân danh Hà Nội
Các
anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi
đã đời
Chửi
hả hê
Chửi
vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các
anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi
có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội
nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những
bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt.
Những
bà mẹ làm ra hạt lúa
Những
năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những
bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm để những đứa con lớn lên có cái nhìn và
trái tim trong sạch
Bây
giờ
Những
đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang
nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các
anh đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean
xắn gấu
Cũng
phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các
anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Rượu
bia và gái
Các
anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
Các
anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các
anh cũng chạy đứt hơi
Rượt
bắt và trùm kín đầu những rác rưởi
Sài
Gòn thời quá khứ Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại
bắt đầu ghẻ lở?
…
Tội
nghiệp em
Tội
nghiệp anh
Tội
nghiệp chúng ta những người thành phố
Những
ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những
ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để
tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
Xin
ngả nón chào các ngài
“Quan
toà trong sạch”
Xin
các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình
thản đổi thay lốt cũ
Hãy
để yên cho hàng me
Sài
Gòn
Hồn
nhiên xanh muôn thuở để yên cho xương rồng, gai góc
Chân
thật nở hoa
Này
đây!
Xin
đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi
một góc (chỉ một góc thôi)
Sài
Gòn bầy hầy, ghẻ lở Bây giờ…
Tin
chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”
Khi
sống hả hê giữa một thiên đường Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với
Trường Sơn?
Chú Thích Chương VII
321 Từ tháng 8-1975 đổi
tên thành đường Điện Biên Phủ.
322 Uaz một thương hiệu
xe nổi tiếng của Liên Xô, ra đời từ năm 1941.
323 Ủy viên Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa IV.
324 Khu ủy Sài Gòn-Gia
Định.
325 Nay là đường Lê
Duẩn.
326 Sài Gòn Giải Phóng,
22-1-1976.
327 Tố Hữu, Ta Đi Tới,
in trong tập thơ Việt Bắc, xuất bản năm 1954.
328 Hiện định cư ở
Orange County, California, Mỹ.
329 Lúc ấy là phó chủ
tịch kiêm giám đốc Công an Thành phố.
330 Tin Sáng,
16-9-1975.
331 Lịch sử Đảng bộ
Thành phố Hồ Chí Minh, cuốn I, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố.
332 Sau đổi tên thành
Nhà hát Thành phố.
333 Sài Gòn Giải Phóng,
5-8-1975.
334 Báo cáo kết quả điều
tra di dân tự do vào Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế, tháng 9-1997, trang
8.
335 Báo cáo kết quả điều
tra di dân (trang 5) ghi những người đi kinh tế mới trong khoảng 1989-1995 chủ
yếu là tự nguyện.
336 Sài Gòn Giải Phóng,
25-5-1975.
337 Sài Gòn Giải Phóng,
25-5-1975.
338 Sài Gòn Giải Phóng,
25-5-1975.
339 Không chỉ tuần hành
thị uy ngoài đường, trong khí thế đó, các thanh niên bảo vệ Văn hoá còn dự định
sẽ vào tận từng nhà để truy tìm, dẹp bỏ các văn hoá phẩm xấu. Tuy nhiên, theo
ông Dương Đình Thảo, Giám đốc Sở Văn Hóa thông tin, sau chuyến công tác nước
ngoài trở về, ông Thảo đã góp ý với ông Võ Văn Kiệt và đặc biệt với Trưởng Ban
Tuyên huấn Trần Trọng Tân, để “chiến dịch bài trừ văn hoá” không lan vào các
nhà dân.
340 Sài Gòn Giải Phóng,
1-6-1975.
341 Sài Gòn Giải Phóng,
4-6-1975.
342 Ông và gia đình vượt
biên năm 1978.
343 Nay là đường Phan
Đình Phùng.
344 Về sau, khi cuộc
sống khó khăn, chúng được mang ra bán ở chợ sách Đặng Thị Nhu.
345 Theo lời kể của ông
Nguyễn Diên Hồng, con trai cụ Nguyễn Đức Phong.
346 Sài Gòn Giải Phóng,
30-10-1975.
347 Sài Gòn Giải Phóng,
25-12-1975.
348 Từ Đông Đức trở về,
quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của
toàn thế giới”.
Một
hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an ách lại và ngang
nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông. Tức tối, ông Nghĩa về cơ quan
là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả lãnh
đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ nhiệm
Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng loe”.
Tuy, ít nơi chính thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các
mệnh lệnh thường có giới hạn thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất
là khi các đoàn viên “hồng vệ binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc
càn quấy” ấy. Nhiều nơi, những người mặc quần loe, để tóc dài đã bị các đoàn
viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường
(Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam). Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn
Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông thấy, ở cơ quan Trung ương
Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần loe để tóc dài”.
349 Mao không có râu
còn đầu Lenin thì không có tóc.
350 Tính đến cuối năm
1974, ở miền Nam Việt Nam có 258.514 xe, gồm: 35.384 xe vận tải nặng; 64.229 xe
du lịch; còn các xe máy dầu, xe gắn máy 2-3 bánh thì không tính hết vì chính
quyền miền Nam không buộc các xe dưới 49cc phải đăng ký.
Chỉ
riêng Sài Gòn năm 1974 đã có 599.215 xe gắn máy, 3.025 xe taxi, 1.270 xích lô
máy, 5.348 xích lô đạp. Tổng số xe công của các cơ quan và các đoàn ngoại giao
có trên toàn miền Nam đến năm 1974 là 973.624 xe.
351 Sài Gòn Giải Phóng,
17-9-1975.
352 Sài Gòn Giải Phóng,
7-10-1976.
353 “Ngày 26-5-1976,
trong cơn mưa bão tầm tã, đồng chí Võ Văn Kiệt, phó bí thư Thành ủy Đảng Lao
động Việt Nam, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh, đã đi
xem cơ sở biến chế than quả bàng, nhằm giải quyết tốt vấn đề chất đốt cho nhân
dân thành phố. Miền Nam trước kia rất dồi dào than củi. Nhưng từ khi đế quốc Mỹ
tiến hành chiến xâm lược, bằng chính sách khai quang, dùng chất độc hủy hoại
cây cối, khiến các rừng đước, rừng vẹt ở rừng Sác, Cà Mau, nơi cung cấp than
củi cho nhân dân thành phố bị hủy diệt trên một quy mô rộng lớn, vấn đề chất
đốt trở thành mối bận tâm lớn của nhân dân thành phố. Đồng bào phải dùng điện,
dầu hôi hoặc hơi đốt để nấu ăn, như thế rất tốn kém. Hoặc phải dùng than hầm,
củi của các rừng miền đông cũng rất đắt, lại thiếu vệ sinh. Đồng thời, cũng phí
phạm rất nhiều cây gỗ, là nguồn tài nguyên quý báu của đất nước. Để giải quyết
tình trạng trên, Đảng bộ và Ủy ban Thành phố đã chỉ thị cho các ngành chuyên
môn phải khẩn trương nghiên cứu, tìm biện pháp giải quyết. Và lần đầu tiên,
than quả bàng được phổ biến cho nhân dân dùng và được hoan nghinh như một loại
chất đốt tiện lợi và tốt. Than quả bàng làm bằng than đá từ miền Bắc gởi vào,
trộn với đất, rồi dùng máy ép lại cho chặt và phơi (hoặc sấy) khô. Trước hết,
giá thành rất rẻ, chỉ bẳng từ 1 phần tư đến 1 phần ba giá than củi trên thị
trường. Một gia đình 5 người ăn, nấu 2 bữa cơm và 3 món thức ăn chỉ tốn mỗi
ngày khoảng 1kg than quả bàng, trị giá độ 7 xu (tức 35 đồng tiền cũ)” (Sài Gòn
Giải Phóng, 28-5-1976).
354 Sài Gòn Giải Phóng,
7-10-1976.
355 “Người xin đi đem
giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã;
Làm một đơn trình bày lý do xin đi (mẫu đơn đã in sẵn xin tại văn phòng công an
phường, xã); Làm một bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã);
Công an phường, xã xác nhận đơn và tờ khai chuyển lên công an quận, huyện xét
cấp. Thời gian xét cấp chậm nhất là ba ngày”. Đi các vùng biên giới, hải đảo,
trên biển: “Người xin đi phải đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ
căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi (mẫu đơn in
sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản
tự khai chuyển lên công an quận, huyện và chuyển lên Sở Công an thành phố xét
cấp. Thời gian xét cấp sẽ được giải quyết trong vòng ba ngày”. Đi các tỉnh phía
Bắc: “Người đi đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến
Công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi; Làm một bản tự khai
(mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn
và bản tự khai chuyển lên công an quận, huyện xét duyệt cấp; Riêng đối với cán
bộ, công nhân viên nhà nước chỉ cần có giấy phép và giấy giới thiệu của cơ quan
(không phải làm đơn, không phải làm bản tự khai, đem tới Sở Công an thành phố
sẽ được xép cấp)” (Sài Gòn Giải Phóng, 21-1-1977).
356 Tuổi Trẻ, 3-2-1976.
357 Trần Bạch Đằng nói:
“Chúng ta quan niệm đẹp từ bản chất. Đó là luân lý dân tộc và đó cũng là quan
điểm khoa học.
Tuyệt
đại đa số thanh niên chúng ta hiểu cái đẹp trong tư thế chiến đấu, trong động
tác xung phong đánh giặc dũng cảm, trong tư thế đĩnh đạc trước hiểm nguy và
trước mặt kẻ thù. Người ta có thể dựng tượng một thanh niên cắp lê phóng vào
giặc Mỹ hoặc một thanh niên ưỡn ngực trước dùi cui của bọn cảnh sát ngụy nhưng
không một nghệ sĩ nặn tượng nào hứng thú về một anh thanh niên tóc xấp xỏa
ngang vai, quần áo nửa xanh nửa đỏ in đầy chữ quảng cáo pepsi cola, lái honda
lượn nghinh ngang trên đường phố...”. Ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Luân lý của
chế độ cũ nhồi nắn cho chúng ta cái ý thức làm ít hưởng nhiều, sự khôn ngoan là
biết cách không làm gì hết mà vẫn sống phè phỡn, học hành cốt chọn một nghề gì
ít mất sức nhất mà hưởng lợi nhiều nhất. Luân lý phản động ấy đã tạo cho một số
thanh niên ghét nắng, kỵ mưa, mù sương không ưa… Giữ cái mịn màng của làn da
hơn là giữ độc lập, tự do của dân tộc và phẩm giá, tiết trinh của chính bản
thân” (Trần Bạch Đằng, luận về cái đẹp, lược ghi, đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày
7-5-1976).
358 Theo ông Võ Ngọc
An, người phụ trách thời kỳ đầu của báo Tuổi Trẻ, hầu hết những bài báo “đánh
tư sản mại bản”, dạy dỗ “Ngụy quân, Ngụy quyền” mà các báo đăng đều được lấy từ
những tài liệu do Ban Tuyên huấn soạn sẵn và cung cấp.
Ban
Tuyên huấn Miền đến năm 1976 vẫn còn hoạt động, Trưởng Ban là ông Nguyễn Văn
Linh và Phó Ban là ông Trần Bạch Đằng.
359 Xem Nhật ký Lý Mỹ,
chương III - Đánh tư sản.
360 Theo Kim Hạnh,
nguyên cán bộ Hội, tổng biên tập Tuổi Trẻ (1981-1991).
361 Theo ca sỹ Khánh
Ly.
362 Dương Đình Thảo, trả
lời phỏng vấn tác giả.
363 Bác sỹ Vũ Quần
Phương được đào tạo trên miền Bắc, nhưng ông không phải là đảng viên vì có một
người chú ruột di cư vào Nam.
364 Nguyên văn
"the road to hell is paved with good intentions", bắt nguồn từ câu
viết nổi tiếng L'enfer est plein de bonnes volontés et désirs của Thánh Bernard
xứ Clairvaux 365 Trao đổi với tác giả qua email.
366 Tên thật của nhà thơ
Thận Nhiên.
367 Mãi tới năm 2009 Đỗ
Trung Quân mới công bố bài thơ này trên blog.
368 Chỉ thị 222 ngày
17-6-1975 của Ban Bí thư.
369 Trong Chỉ thị 222,
Tố Hữu viết: “Trước hết, chúng ta cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng thầy
giáo và học sinh ở các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam là những
người con của dân tộc Việt Nam, là nạn nhân của một nền giáo dục nô dịch và
phản động của Mỹ và tay sai, chúng ta phải có trách nhiệm giáo dục đầy đủ để họ
nhanh chóng trở thành những người công dân trí thức yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội”.
370 Ông Phan Lạc Phúc
viết: “Khi tôi đi cải tạo con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười
lăm tuổi bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó “vượt biên” hết cả chỉ còn nó ở lại với
“mẹ cháu” đợi tôi. Khi tôi về, nó theo tôi đi chơi tha thẩn. Ở Hóc Môn nó không
có bao nhiêu bạn. Nó theo tôi lên Sài Gòn chơi với Tr. T. con gái Thanh Tâm
Tuyền, hay “đi chợ” với chị Ch. con gái bác Hà Thượng Nhân. Thôi thì bố chơi
với bố, con chơi với con cũng là phải đạo. Chưa được gặp nhưng con tôi nó muốn
gần chị G., con gái đầu của Tô Thùy Yên. G. học thật giỏi. Trong một xã hội Xã
hội Chủ nghĩa (không có giai cấp) nhưng khi thi vào đại học có 15 thứ hạng. Ưu
tiên hạng 1,2,3 thuộc gia đình cách mạng hay “chính sách” thì, thi 3 bài từ 7
điểm trở lên đã được “chiếu cố” vô Đại học rồi. Con gái “ngụy quân” như chúng
tôi đứng hạng thứ 14 áp chót (hạng chót là gia đình phản động, phản cách mạng).
Khi bố đi tù cải tạo về rùi thì lại lên được một hạng, hạng 13. Con gái ngụy
quân muốn vô Đại học phải đạt 21 điểm, gấp 3 số điểm gia đình chính sách thì
mới vô đại học được” (Phan Lạc Phúc, Bạn Bè Gần Xa, Nhà Xuất bản Văn Nghệ,
2002, tr 420-421).
371 Nhật ký Nguyễn Mạnh
Huy.
372 Thư bạn đọc Nguyễn
Kỳ Tâm viết: “Khi giải phóng, tôi vừa 17 tuổi. Trong cái nô nức, hồ hởi của
những người chung quanh, tôi cũng thấy lòng mình rộn lên bao niềm tự hào, hãnh
diện. Tôi trở về Sài Gòn tiếp tục học để thi vào đại học. Tôi tham gia những
hoạt động thanh niên, và chính nơi đây, trong những buổi sinh hoạt, qua những
câu chuyện, sách báo... tôi dần dần thấy ra vấn đề lý lịch của mình. Rồi tôi
rớt đại học. Tôi xin vào làm tại một số cơ quan nhà nước, nhưng chờ mãi cũng
chưa thấy nơi nào trả lời. Gần hai năm rồi tôi vẫn cứ là cảm tình Đoàn, và
nhiều sự việc khác cứ làm tôi suy nghĩ...
Tuổi
Trẻ ơi, phải chăng tương lai của chúng tôi coi như chấm dứt, xã hội mới sẽ
không có chỗ đứng nào cho những người như chúng tôi? Có phải số phận đen đủi
với cái lý lịch quái ác sẽ đưa tôi ra ngoài rìa xã hội? Mà tôi có ao ước gì cao
xa đâu.
Chỉ
muốn sống và công tác bình thường mà không bị nghi kỵ, thành kiến”.
373 Năm 1978, Luật sư
Trần Văn Tuyên, một trí thức nổi tiếng, có cô con gái thi đậu đại học nhưng
không được học. Các trí thức Sài Gòn phản ứng nhưng không ai dám giải quyết vì
đấy là nguyên tắc. Nhờ ông Kiệt can thiệp, con gái của Luật sư Trần Văn Tuyên,
không những được vào đại học mà còn được đi du học tại Liên Xô.
374 Ông Võ Văn Kiệt
nhấn mạnh“hậu quả của chính sách độc hại nhất của nước Mỹ”, rồi phê phán: “Một
tâm lý xã hội tiêu thụ cực đoan đã giết chết thói quen và tinh thần yêu lao
động cố hữu của dân tộc. Trong mọi vết thương của chiến tranh, chính vết thương
tinh thần đó là khó chữa nhất". Ông kêu gọi: “Trong những năm chiến đấu,…
có bạn trẻ nào không xúc động với câu hát: ‘Nếu là người tôi sẽ chết cho quê
hương?’ Quê hương hôm nay không đòi hỏi mỗi người tuổi trẻ phải chết. Đất nước
vĩnh viễn độc lập, tự do rồi. Quê hương đòi hỏi anh phải sống và sống cho ra
sống. Câu hát đó ta nên sửa lại là: ‘Nếu là người tôi phải sống cho quê hương’.
Sống là chia sẻ ngọt bùi với nhân dân. Sống không phải ăn bám mà là lao động”.
375 Về sau Trần Ngọc
Châu trở thành Tổng thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, Phó TBT Thời báo Kinh Tế Sài
Gòn.
376 Nhà văn viết chuyện
thiếu nhi.
377 Cha Nguyễn Nhật Ánh
phải cải tạo từ 1975-1982.
378 Trong bài phát biểu
này, ông Võ Văn Kiệt đã nêu những ví dụ: “Ở một đại đội có hai đồng chí gàn
bướng nhất đơn vị, không biết nội quy kỷ luật là gì, đánh lộn gây gỗ là thường
xuyên, thì nay đã là cá nhân xuất sắc của Đại hội, một đồng chí là tiểu đội
trưởng, một đồng chí là tiểu đội phó của đơn vị. Có đồng chí trước đây xâm tay
xâm mình, đã lấy thanh sắt hoặc đũa nướng xóa đi những vết xâm đó, thà rằng mang
thẹo còn hơn”.
379 Theo phát biểu của
ông Võ Văn Kiệt ngày 3-3-1977: “Có người xuất thân từ công nhân, ở đợ, văn hóa
chưa làm được toán trừ thì nay đã là đại đội trưởng, liên đội phó xuất sắc,
giỏi về công tác chính trị và cả về quản lý, kỹ thuật. Có người trước đây
chuyên buôn bán chợ trời, thì nay trở thành cán bộ, giáo viên văn hóa. Có đại
đội với ngót 40% thanh niên là binh lính thuộc chế độ cũ và lưu manh, xì ke ma
túy, sau sáu tháng phấn đấu đã bình, tuyển được gần tám mươi cá nhân tiên tiến,
xuất sắc và biểu dương. Nhiều anh em trước đây không biết chữ, nay vào thanh
niên xung phong đã biết chữ”.
380 Cách nói chỉ những
người không thuộc sự quản lý của một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức chính trị
nào.
381 Tiểu thuyết Trăm
Sông Về Biển của Nguyễn Đông Thức là dựa trên câu chuyện có thật này.
Nguồn:
bodoilambao
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
No comments:
Post a Comment