Barbara J. Falk
Phó Giáo sư Đại học Toronto
Cập nhật:
14:55 GMT - chủ nhật, 23 tháng 12, 2012
Tiếp tục loạt
bài về di sản và xử lý di sản của chủ nghĩa cộng sản, BBC trân trọng giới thiệu
khái lược với quý vị độc giả góc nhìn của nhà nghiên cứu từ Canada, Phó Giáo sư
Barbara J. Falk, thuộc Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, Nga và Á-Âu, Đại học
Toronto.
Bài viết tìm
hiểu một số khía cạnh như quy mô và tính chất của bất đồng chính kiến trong xã
hội cộng sản ở Trung và Đông Âu trước đây và đánh giá, xem xét kinh nghiệm hoạt
động cũng như vai trò lịch sử của các nhà bất đồng ở các nước này trong thời kỳ
hậu cộng sản. Sau đây là nội dung của bài.
Sau năm 1968,
những hy vọng “cải tổ” đối với chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ và các hoạt động
chuyển hướng về phía xã hội và nhà nước. Các trí thức như Adam Michnik và Jacek
Kuroń ở Ba Lan, Václav Havel và Václav Benda ở Tiệp Khắc và János Kis và Miklós
Haraszti ở Hungary đều thảo luận và viết về tầm quan trọng của tính tự tổ chức
của xã hội, một dạng thức tiến hóa mới nhưng chưa phải là cải cách cấp tiến
nhằm tạo ra không gian cho các hoạt động không bị Đảng cộng sản hoặc một trong
các tổ chức chính thức ngoại vi của Đảng kiểm duyệt.
Hiến chương 77 ở
Tiệp Khắc ra đời như một phản ứng trước vụ xét xử một nhóm nhạc rock ngầm hoạt
động, nhóm ‘the Plastic People of the Universe’ tình cờ liên kết nhiều người
với các quá khứ chính trị rất khác nhau nhưng đồng tâm phấn đấu vì một sự
nghiệp chung. Sau khi Hiệp ước Helsinki được ký kết vào năm 1976, nhóm Hiến
chương đã công khai buộc chính phủ Tiệp Khắc phải tôn trọng pháp luật. Các
thành viên nhóm Hiến chương đại diện cho một nhóm đa dạng của những người Czech
và Slovakia từng bước đề cập nhiều vấn đề về quyền con người. Ngay cả khi họ
nhấn mạnh lập trường "chống chính trị" và không trực tiếp thách thức
thế độc quyền của nhà nước đảng cộng sản, Hiến chương 77 trên thực tế đã làm
chính điều đó.
Các nhà bất đồng
chính kiến của Nga vốn đa phần có trình độ học vấn với nhiều khác biệt và tập
trung ở đô thị, nổi tiếng nhất trong số đó là khoa học gia Andrei Sakharov,
cũng lấy cảm hứng từ Hiệp ước Helsinki. Theo thời gian, những người bất đồng
chính kiến Nga dần dần mở cánh cửa, xét lại lịch sử Xô-Viết, một hành động cực
kỳ can đảm ở một đất nước đã hiện thực hóa cuộc cách mạng của nó thành một câu
chuyện chính thức, bất khả chất vấn.
'Chính là thể
chế'
Nhóm "bất
đồng chính kiến" nổi tiếng nhất mà quy mô của nó quá lớn để gọi nó dưới
cái tên này là ‘Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan.’ Công đoàn tự do, tự quản và độc
lập này trưởng thành từ một loạt các cuộc đình công ở một nhà máy đóng tàu trên
bờ biển Baltic của Ba Lan hồi tháng 8/1980. Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn kết đã
không bị rơi vào hư không. Cuối những năm 1970, một loạt tờ báo, tạp chí, bản
tin độc lập đã được công bố và một trường đại học ngầm đã được thiết lập thành
công (và trở thành mô hình cho những nỗ lực tương tự ở những nơi khác trong khu
vực).
Các tổ chức sinh
viên và thậm chí tổ chức của nông dân độc lập đã liên kết tạo thành một phần
của Công đoàn Đoàn kết. Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn kết cũng gặp một số vấn đề
như bị phân chia, còn có sự do dự, bị ảnh hưởng bởi một số chia tách về thế hệ
và chính trị, và tinh thần của hoàn toàn dân chủ của nó đối lập với nhu cầu cần
có lãnh đạo chiến lược tập trung. Thời gian hoạt động ngầm kéo dài sau thiết
quân luật làm cho các thành viên tham gia bị mệt mỏi, với nhiều lãnh đạo của
Công đoàn bị bỏ tù. Tuy nhiên, cuối cùng chính quyền Ba Lan đã không có sự lựa
chọn mà phải cư xử với Công đoàn như một tổ chức tái hợp pháp hóa trong bối
cảnh kinh tế nghiêm trọng của đất nước, và cần đến sự chuẩn y và tham gia của
nhiều tổ chức để thực hiện những cải cách triệt để. Như nhiều chính phủ trong
khu vực bị buộc phải đàm phán do làn sóng gia tăng của phong trào quần chúng
trong năm 1989, chính phủ Ba Lan vẫn nghĩ rằng họ có thể quản lý được một đối
tác cấp dưới, nhưng các phong trào quần chúng rộng lớn trong xã hội vốn ủng hộ
phe đối lập non trẻ đã quyết định tình hình khác đi.
Phạm trù
"bất đồng chính kiến" đã và vẫn còn trong vòng tranh luận. Liệu các
độc giả và các nhà sản xuất ra các ấn bản “samizdat” cũng là bất đồng chính
kiến, hay chỉ những người đã viết các tài liệu này mới đóng một vai trò tích
cực và công khai hơn? Liệu tiếp tục sử dụng thuật ngữ "bất đồng chính
kiến" có hàm ý một quan hệ ngầm "chúng ta đối nghịch với họ" mà
độc tài cộng sản vẫn áp dụng trong các kinh nghiệm của nó vốn là chỗ dung chứa
cho những hành vi thích nghi đôi khí tới mức bệnh hoạn, hay nhiều khi là bàng
quan cá nhân nhưng được ủng hộ công khai, cơ hội chủ nghĩa hay hoàn toàn trung
thành với chế độ? Havel đã trào phúng về "bất đồng chính kiến" trong
bài viết nổi tiếng của ông "Quyền lực của thảo dân” (Power of the
powerless) khi ông mô tả người bất đồng chính kiến, và mở rộng ra, tới bản thân
ông “như một phạm trù về công dân phụ bên ngoài thể chế quyền lực." Các
nhà bất đồng chính kiến có thể được ca ngợi ở nước ngoài và nhận được các bình
luận của giới nhà báo, đại sứ và hoạch định chính sách, nhưng họ thường bị coi
là những cây bút và những kẻ bất tuân phục làm phức tạp hóa cuộc sống của những
người xung quanh. Trong một xã hội cộng sản được bó lại với nhau bằng keo dính
của hệ tư tưởng này, ở một mức độ nào đó, tất cả các công dân được yêu cầu phải
"sống trong dối trá" và chấp nhận, cổ súy những gì được yêu cầu, bất
kể là niềm tin thực sự hay chỉ để a dua. Bằng cách sống dối trá đó, như Havel
đã nêu, "các cá nhân xác quyết thể chế, hoàn chỉnh thể chế, tạo lập thể
chế, và chính là thể chế."
'Rắc rối lớn
nhất'
Rắc rối lớn nhất
đối với Havel và những người khác là việc nhiều đồng nghiệp bất đồng chính kiến
của họ vẫn tiếp tục một cuộc sống khác với sự dối trá, bằng cách tự báo cáo bí
mật các hoạt động của mình cho cảnh sát chìm hay mật vụ. Hành vi tốt nhất để
chống lại điều khó tránh khỏi này là hoàn toàn minh bạch. Các tổ chức như Hiến
chương 77 và Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan đã hoạt động hoàn toàn công khai, các
nhà lãnh đạo và người phát ngôn của họ được công khai biết đến và công nhận.
Tất cả các thông cáo và các ấn phẩm samizdat đều mang tên của họ. Trong chừng
mực có thể, họ cố gắng hoạt động phù hợp với các chuẩn mực và giá trị mà họ ủng
hộ, tiếp cận bằng sự đồng thuận, bằng công khai tranh luận và đưa ra các quan
điểm khác nhau, đấu tranh cho các trình tự và tổng thể công bằng. Sự công khai
trên thực tế là sách lược bảo hiểm tốt nhất của họ, trong khi bí hiểm, nước đôi
có thể dẫn đến đặt điều, vu cáo hay bị tống tiền.
Tuy nhiên, vì sự
theo dõi, kiểm duyệt và các mối đe dọa bắt giữ, tống giam tùy tiện của chính
quyền luôn hiện diện, những người bất đồng chính kiến buộc phải rơi vào một thế
giới của bất chắn và thông tin không đầy đủ. Các hoạt động của họ phụ thuộc vào
một mức độ cao của tình bạn thân thiết và tin tưởng xã hội, nhưng điều này lại
thường bị các tin đồn, nhỏ to, sự khác biệt chính trị, xung đột cá nhân và hành
động khiêu khích có chủ ý làm xói mòn. Ngày nay chúng ta được biết qua nhiều
tiết lộ và qua việc tiếp cận các hồ sơ mật vụ rằng một số người tham gia vào
các phong trào bất đồng chính kiến đã báo cáo về hoạt động của những người
khác. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần lưu ý rằng hành vi "báo cáo"
có sự khác biệt đáng kể: không phải tất cả những người cung cấp thông tin đều
cung cấp cùng một loại hình hoặc cùng tính chất thông tin, nhiều người đã bị
chính quyền, chế độ cũ đe dọa và bị đặt dưới các áp lực, cưỡng bức cá nhân, do
đó tính trung thực tương đối của các tập hồ sơ sẽ còn tiếp tục được mở ra cho
các cuộc tranh luận. Và một số khác thì cố chơi trò hai mặt, thường làm cho
việc dán nhãn một cá nhân cụ thể như một nhà "bất đồng chính kiến"
hoặc người "chỉ điểm"… trở nên quá phức tạp.
Giai đoạn Hậu
1989
Giai đoạn hậu
1989, nhiều nhà bất đồng chính kiến thường được coi không hoàn toàn xác đáng là
các anh hùng hay về mặt lịch sử, là các nhà quán quân trong một câu chuyện kể
vĩ đại, trong đó cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản là không thể tránh
khỏi. Những người ăn mừng chiến thắng hậu chiến tranh lạnh cho rằng, mặc dù là
thiểu số, những cá nhân tự hy sinh đứng lên, nói ra sự thật trước cường quyền,
đã đóng góp một phần đáng khen ngợi và cần thiết trong thay đổi chế độ. Thực
tế, tất nhiên phức tạp, lẫn lộn và khó tiên đoán hơn thế. Không có thời điểm
nào mà bất kỳ các nhà bất đồng chính kiến hay những phong trào của họ cho thấy
dân chủ hóa và tự do hóa trên quy mô lớn là có thể, hoặc rằng một kết thúc hòa
bình cho cộng sản có thể xảy ra chỉ thông qua thương lượng.
Thật vậy, nhiều
người đã bị những người biểu tình trẻ tuổi hay những thành viên cấp tiến cao độ
chỉ trích rằng vào những thời điểm quan trọng trong năm 1989, họ đã không đi đủ
xa hoặc không có hành động đủ nhanh. Nhưng thế hệ cũ của những người bất đồng
chính kiến, dày dạn kinh nghiệm trong lịch sử quốc gia vốn từng trải qua nhiều
chu kỳ sóng gió và đàn áp, đã tỏ ra thận trọng hơn. Ngày 04/6/1989 là ngày cuộc
bầu cử tự do đầu tiên giành chiến thắng áp đảo trong vùng của Công đoàn Đoàn
kết, nhưng nó cũng là khởi đầu của cuộc đàn áp của Bắc Kinh ở Quảng trường
Thiên An Môn. Và trong khi nhiều nỗ lực kiên trì đàm phán đã thu được những kết
quả quan trọng và lâu dài, như các cuộc đàm phán ở Hội nghị Bàn tròn ở Hungary
và Ba Lan, không phải tất cả các nhà lãnh đạo cộng sản đều sẵn sàng đồng ý một
cách hòa bình để đi tới thùng rác của lịch sử. Nicolai Ceauşescu của Romania là
một trường hợp điển hình.
'Vai trò lịch sử'
Nhiều nhà bất
đồng chính kiến thường được lãng mạn hóa như các hình mẫu lý tưởng và cô đơn về
lòng can đảm chính trị trên một đại dương mênh mông của sự cúi đầu tuân thủ:
một quan điểm đã không nhận được sự chấp nhận công khai hay trở nên nổi tiếng
ngay lập tức trong thời kỳ hậu cộng sản. Bằng cách nào đó, chính sự tồn tại của
điều này nhắc nhở những người khác rằng họ đã không có lập trường can đảm hoặc
không chịu các rủi ro cá nhân: đã làm bất cứ điều gì phải làm để tồn tại, để
thích ứng với thực tế thời buổi khi còn ít người cảm thấy đã được trao quyền
lực để thách thức hay để nghĩ rằng có thể thay đổi. Nhiều người không phải là
những siêu sao trí tuệ và các nhà hoạt động nổi tiếng nhất trong các phong trào
đối lập đã bị lãng quên. Vai trò của các nhà bất đồng chính kiến trong sự sụp
đổ của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn nhiều tranh luận. Các kỳ vọng của người tiêu
dùng gia tăng, sự thất bại của nền kinh tế chỉ huy trì trệ, bế tắc tạo ra sự
mọi mức độ nghiêm trọng để đi tới đổi mới hoặc cải cách, nhân tố
"Gorbachev" và sự thiếu năng lực, vụng về của các nhà lãnh đạo mệt
mỏi, tất cả đều có vai trò.
Tuy nhiên, chúng
ta biết rằng các quốc gia có các phong trào rộng rãi và hiệu quả hơn về bất
đồng chính kiến và các nhà lãnh đạo bất đồng đã có những kinh nghiệm tốt hơn về
quá trình chuyển đổi kinh tế, tự do hóa và dân chủ hóa nền chính trị trong hai
thập kỷ đầu tiên của giai đoạn hậu cộng sản. Đồng thời, các nước này, đặc biệt
là Ba Lan, Hungary, bây giờ là nước Đức thống nhất, Cộng hòa Czech và Slovakia,
đều có ít nhất một phần kinh nghiệm lịch sử hay các ví dụ về quá trình dân chủ
hóa vốn giúp cho họ kết nối sâu sắc hơn với các truyền thống trí tuệ, tri thức
và chính trị châu Âu và góp phần giúp cho các nước này định vị tốt hơn trong
quá trình đi tới thành công. Tuy nhiên, các kinh nghiệm cũng giúp cho các chính
trị gia và các nhân vật công chúng trong tương lai với tư cách những nhà bất
đồng chính kiến về sau phát triển được những "kỹ năng" để phụng sự
đất nước của họ tốt nhất: Václav Havel đã trở thành Tổng thống của Tiệp Khắc và
sau đó là của Cộng hòa Czech, hay Adam Michnik trở thành Tổng biên tập lâu năm
của Gazeta Wyborcza, tờ báo được Ba Lan trọng vọng.
Tác giả Barbara
J. Falk là Phó Giáo sư làm việc tại Khoa Nghiên cứu Quốc phòng, thuộc viện
Canada Forces Colleage và Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, Nga và Á-Âu, thuộc Đại
học Toronto. Bà có nhiều công trình nghiên cứu về các chủ đề từ chiến tranh
lạnh, quan hệ quốc tế cho tới chính sách công ở châu Âu.
Các bài liên quan
No comments:
Post a Comment