Posted on February 5, 2016
Trong khi được mô tả như một cuộc đấu lãnh đạo của Đảng
giữa đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có thể được nhớ tới như dấu mốc
khởi đầu của một sự chuyển dịch thế hệ trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng.
Nhưng một sự chuyển dịch thế hệ không nhất thiết kéo theo những thay đổi lớn.
Quả thật, sau mọi sự phấn khích và căng thẳng bao quanh Đại hội, ở Việt Nam hiện
nay là một tâm trạng phản cao trào.
Vậy chuyện gì đã xảy ra? Thông qua sự kết hợp giữa
các phương tiện mang tính thủ tục (quyết định số 244-QĐ/TW chẳng hạn) và vận động
chính trị khôn khéo gây bất ngờ cho nhiều người, Nguyễn Phú Trọng đã giành cho
mình một nhiệm kỳ Tổng Bí thư thứ hai. Trong quá trình này, dường như ông cùng
những người ủng hộ về cơ bản đã làm đoản mạch sự nghiệp chính trị của Nguyễn Tấn
Dũng, người tự nhận mình có tư tưởng chính trị độc lập – vị thủ tướng đương nhiệm
cho đến cách đây vài tháng vẫn còn được nhiều người kỳ vọng vào vị trí lãnh đạo.
Di sản của ông Dũng chính là sự sụp đổ của ông. Dù
được dán nhãn rộng rãi là một nhà cải cách, thành tích của ông Dũng chưa bao giờ
vừa vặn với cách mô tả đó. Ông chủ yếu là một chính trị gia đã dựng nên một mạng
lưới bảo trợ vững chắc và bắt đầu những cải cách thúc đẩy lợi ích của những người
có vị thế và một số nhà đầu tư nước ngoài được chọn. Đôi khi những “cải cách”
và hành động của ông có vẻ như đã làm tổn hại đến thành tựu kinh tế của đất nước.
Trong khi ông Dũng thể hiện mình cống hiến cho một
Việt Nam cởi mở và dân chủ hơn, những người chỉ trích ông lại bác bỏ một khả
năng như vậy. Nhưng, trước sự thất vọng tràn trề của những người chỉ trích,
phong cách và tài trí bí ẩn của ông Dũng đã khiến nhiều người Việt Nam xem nỗ lực
giành chức Tổng Bí thư của ông như một nỗ lực đem lại hướng đi mới trong nền
chính trị Việt Nam, một hướng đi tuy rõ ràng không hoàn hảo nhưng chí ít sẽ
mang lại sự thay đổi.
Thay vào đó, điều ngược lại đã xảy ra. Mỉm cười là
những người thường được mô tả là đại diện cho phái bảo thủ trong Đảng. Ngay sau
Đại hội, báo chí nhà nước tràn ngập hình ảnh ông Trọng được một nhóm những người
mới được bổ nhiệm được lựa chọn cẩn thận của ông chúc mừng. Ngược lại, trong ảnh
ông Dũng hoặc đứng nhẫn nhịn, hoặc quay lưng lại, hướng ra lối về.
Vậy
thì tới đâu từ đây? Trong không gian mạng sôi động của Việt Nam và trên
báo chí quốc tế, kết quả của cuộc kế vị lãnh đạo được xem như một phiếu thuận
cho sự tiếp diễn trong Đảng. Đây là một kết luận có lý. Suy cho cùng ông Trọng,
dù giáo điều và bị chê cười đến đâu, mới là người thắng thế. Ông Trọng, chứ
không phải “ông Dũng độc lập,” mới là người giữ chức Tổng Bí thư trong ít nhất
hai năm tới và có thể là năm năm.
Còn có những dấu hiệu khác về sự tiếp diễn. Một ví dụ
là số lượng đông đảo cán bộ công an trong Bộ Chính trị mới được chọn. Chủ tịch
nước mới được xức dầu thánh của Việt Nam là “sếp cảnh” của đất nước. Còn hai vị
trí lãnh đạo cấp cao khác – Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội – thì một người là
quan chức mờ nhạt từ miền Trung còn một người từ miền Nam tuy có năng lực trong
các vấn đề xã hội nhưng vẫn chưa thể hiện được bản thân trong các lĩnh vực
khác.
Có lẽ sự tiếp diễn quan trọng nhất là Việt Nam sẽ vẫn
là một đất nước được cai trị bởi tập thể, bất chấp những lời kêu gọi “cải cách
chính trị cấp bách” từ Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư sắp nghỉ. Về khía cạnh này
Việt Nam khác hầu hết các quốc gia khác trên thế giới. Cơ quan chính trị tối
cao của đất nước, Bộ Chính trị, nay gồm 19 thành viên.
Cũng phải thừa nhận rằng từ bên ngoài, rất khó đánh
giá mức quyền lực của các thành viên Bộ Chính trị. Hơn nữa, từ hôm nay không thể
biết ai sẽ thay ông Trọng sau nhiệm kỳ này. Như vậy, định hướng và tinh thần của
nền chính trị chóp bu Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn vẫn còn là câu hỏi mở,
ít nhất là đối với tác giả bài viết này.
Vắng ông Dũng, chúng ta có nên cho rằng những cải
cách ở Việt Nam sẽ chậm lại? Có lẽ là không. Bộ Chính trị mới có một số thành
viên trẻ, có năng lực và có năng lượng, đại diện cho các khu vực chính sách chủ
chốt như tài chính và ngoại giao. Và tinh thần rộng lớn hơn của chính trị Việt
Nam dù ngập ngừng đến đâu cũng không phải là bất động.
Rồi còn có áp lực thay đổi. Trong khi việc đảm bảo
những lợi ích dài hạn của Đảng vẫn là mục tiêu chủ chốt, giới lãnh đạo Việt Nam
cũng cam kết mở rộng và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ quốc tế. Cả bốn nhà
lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam đã đến thăm Hoa Kỳ trong năm vừa rồi và toàn thể
Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đều công nhận Hoa Kỳ là một đối tác
thương mại và an ninh không thể thiếu. Rõ ràng là thời thế đã thay đổi, ngay cả
khi một người bảo thủ nắm quyền.
Việt Nam có nhiều lợi thế. Nhưng đa số chuyên gia
tin rằng nền kinh tế nước này – vốn suy yếu do phi tập trung hóa thái quá và
thương mại hóa lấy nhà nước làm trọng tâm – có thể vận hành tốt hơn hiện nay.
Liệu giới lãnh đạo mới được chọn của Đảng có nhận ra điều này và có khả năng tiến
hành những cải cách có ý nghĩa hay không vẫn còn chưa rõ. Người dân Việt Nam
đang kêu gọi cải cách tương đối mạnh mẽ, nhưng họ không lãnh đạo Đảng.
Có lẽ không chắc chắn nhất là ông Trọng sẽ đối phó với
chủ nghĩa bành trướng của Bắc Kinh như thế nào. Và Bắc Kinh sẽ hành xử ra sao.
Hiện nay, việc quân sự hóa trên Biển Đông đã và còn đang được tiến hành. Trong
quá khứ ông Trọng đã chủ trương một cách tiếp cận hòa hoãn với Trung Quốc. Ông
Trọng không đơn độc trong việc nhận ra là vì lợi ích tốt nhất của mình Việt Nam
nên có quan hệ tốt nhất có thể với Bắc Kinh.
Tuy nhiên, duy trì mối quan hệ láng giềng đã trở
thành một thách thức lớn. Bị dồn vào chân tường, người dân Việt Nam sẽ đòi hỏi
giới lãnh đạo đất nước bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Sẽ không có ai
bất ngờ nếu Bắc Kinh có hành động bạo động trong những tháng tới. Để đối phó với
khả năng này, Hà Nội phải có một sáng kiến mới. Đề
xuất mới đây của tôi và Vũ Quang Việt chỉ là một trong nhiều phương án
nên được xem xét.
Như riêng tôi đã đề nghị nhiều lần, giới lãnh đạo Việt
Nam nên tiến hành những bước cụ thể để giành được sự ủng hộ của quốc tế. Cải
cách thể chế và tôn trọng nhân quyền là hai bước cụ thể sẽ không chỉ góp phần
vào sự chính danh của nhà nước mà còn giúp đỡ cho hoạt động của nền kinh tế và
giúp Việt Nam trên chính trường quốc tế ngay lập tức.
Vậy Việt Nam đang đứng ở đâu? Với sự lựa chọn lãnh đạo
này, có phải Việt Nam sẽ thụt lùi? Các vị lãnh đạo mới được chọn sẽ cứ làm như
trước đây? Có lẽ là không.
Nhưng lý do sẽ không nằm trong giới chính trị chóp
bu. Chính người dân Việt Nam đang ngày càng quan tâm và tham gia vào những
tranh luận chính trị xã hội. Họ đang đòi hỏi cải cách, quyền lợi, và minh bạch
hơn, và nhà nước đang dần đáp ứng. Trong nước nhiều người là quá gần để thấy
cũng có một số, thậm chí nhiều thay đổi tích cực trong hoạt động của nhiều
(chưa phải tất cả) bộ phận của nhà nước.
Như chúng ta biết, có nhiều người cực giỏi, có tên
tuổi ngay trong Trung ương Đảng, cũng đang khuyến nghị cải cách, cũng như ở
ngoài bộ máy. Tuy nhân quyền còn là một vấn đề rất lớn và thường xuyên bị vi phạm,
tiếng nói của người dân Việt Nam vẫn không thể bị bưng bít. Dù những tự do được
hứa hẹn trong hơn 70 năm qua vẫn chưa hình thành thì chúng ta vẫn phải thấy rằng
ở Việt Nam ngày càng có nhiều cuộc thảo luận mở về các vấn đề xã hội và chính
trị.
Thách thức hiện nay là làm sao để tạo điều kiện cho
những thảo luận này thực sự góp phần vào sự phát triển của đất nước. Mở rộng tự
do báo chí và nâng cao tính độc lập của Quốc hội là hai phương án mà nhiều người
trong nước từng đề nghị. Ngoài ra còn nhiều đề xuất hơn nữa.
Tôi tin rằng trong tương lai gần và thậm chí trong
dài hạn, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển khá nhanh. Song, những mối
quan tâm lớn nhất của Việt Nam lúc này là chất lượng của sự phát triển đó và mức
độ lợi ích mà nó sẽ tạo ra cho người dân Việt Nam, cùng với những thách thức an
ninh và quyền lợi của của đất nước.
Giải quyết thành công những vấn đề này là không dễ.
Điều đó không chỉ đòi hỏi giới lãnh đạo cởi mở và sẵn sàng lắng nghe người dân.
Mọi công dân đều phải có quyền đóng góp một vai trò mang tính xây dựng trong sự
phát triển của đất nước. Nói Việt Nam cần một đội ngũ lãnh đạo can đảm và có
năng lực hơn bao giờ hết là chính xác nhưng chưa đủ. Để giải quyết những thách
thức trước mắt, cần có một tinh thần chính trị mới. Một văn hóa chính trị đa
nguyên và đa chiều. Làm thế mới có thể mở đường tới một trật tự xã hội ôn hòa,
dân chủ, văn minh.
—
Xin
thêm một ý cuối cùng.
Đôi khi cách viết của tôi bị xem là viết theo
kiểu chỉ trích hơn là xây dụng hay “thiếu khách quan.” Tôi cũng có thể
hiểu quan điểm đó nhưng cũng xin thông cảm của người đọc vì cách nhìn của tôi
phản ánh vị trí của mình. Có lễ là cách viết của mình nên nhẹ hơn, ngoại giao
hơn chút. Chỉ xin nói rõ, vai trò của tôi không phải và không nên để ủng hộ người
bên này, nói xấu người bên kia.
Tôi là một người chân thận mà. Ai không hài lòng với
cách viết của tôi xin cho tôi biết. Tôi viết để chia sẻ những ấn tượng của tôi.
Không có ý định áp đạt quan điểm và chắc chắn không muốn bị coi là bi quan. Bất
đồng ý kiến là chuyện quá bình thường. Rất tiếc, một yếu tố còn thiếu không chỉ
ở Việt Nam và mà ở đa số quốc gia chính là khả năng để bàn luận về những vấn đề
tranh cãi nhưng giữ một thái độ trân trọng, xây dựng,
Nếu cách viết của tôi chưa đạt được kết quả đó thì
rõ ràng tôi phải nỗ lực hơn nữa. Sẵn sàng làm thế. Chỉ có những ý định tốt nhất.
Trân trọng
JL
Jonathan London là giáo sư tại Khoa Nghiên cứu Châu
Á và Quốc tế và thành viên cốt cán của Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại
học Thành thị Hồng Kông. Ấn phẩm gần đây của ông bao gồm cuốn Politics in Contemporary Vietnam(Palgrave-Macmillan 2014).
Bài
liên quan: “Where
to from here for Vietnam?”East Asia Forum, Feb. 4, 2016.
No comments:
Post a Comment