Cách
đây chừng ba năm, tôi có mạo muội đề nghị với Tạp chí “Thế Kỷ 21” là nên viết
tên tờ báo đứng đắn đó là Thếkỉ 21. Tiếp đó, một độc giả của tờ tạp chí
ấy có chỉ ra là trong cuốn từ điển Việt-Anh của chính tôi, nhan đề là Vietnamese-English
Dictionary (Saigon: Bình Minh, 1959; Tokyo: Charles E. Tuttle, 1966), từ
“thế kỷ” [nghĩa là “century”] vẫn dùng con chữ “y dài” [thường được gọi là
i-cờ-rét, “chữ Hi-Lạp”.]
Là
người đã từng phụ trách giảng khoa về Kế hoạch hoá Ngôn ngữ (Language
Planning) trong mấy chục năm, tôi thừa hiểu rằng: tại bất cứ một nước nào,
việc thi hành kế hoạch về lĩnh vực lời ăn tiếng nói cũng cần phải lưu tâm đến
tình cảm ngôn ngữ của người dân nói tiếng bản ngữ. Mấy cuộc hội nghị đã được
triệu tập tại cả miền Bắc lẫn miền Nam Việt Nam trước 1975 về vấn đề thống nhất
ngôn ngữ, về nhu cầu cải tiến chữ quốc ngữ, cũng như về việc cần tiêu chuẩn hoá
chính tả và thống nhất danh từ khoa học kĩ thuật. Rồi sau 1975, các nhà chuyên
môn vẫn tiếp tục thảo luận về những đề tài như: dùng con chữ nào cho âm vị nào,
con chữ nào viết hoa, khi nào dùng gạch nối, khi nào viết liền các âm tiết
(cũng là từ tố) bên trong một từ, phiên âm những thuật ngữ khoa học quốc tế
cách nào? v.v… Những nhà ngữ học đó đều phải kết luận rằng có những đề nghị cải
cách rất có tính khoa học, cốt làm cho chữ quốc ngữ nhất quán hơn, và có một số
chuẩn mực phải theo một cách “trước sau như một”, song có điều chưa thi hành
ngay được, vì thiên hạ quen cùng cách này, cách kia rồi.
Chẳng
hạn, thiên hạ quen viết lý trưởng, lý tưởng, lý trí, kỳ dị, nước Mỹ, Mỹ
quốc, (cao lương) mỹ vị, mỹ thuật, v.v… mất rồi. Thậm chí, có nhà văn còn
dùng lối viết quá táo bạo: thi sỹ, hoạ sỹ,v.v… Lí do là người ta đã lẫn
lộn con chữ i dùng để ghi nguyên âm (còn gọi là “mẫu âm”) /i/ — là âm
hạt nhân hay âm chính của một âm tiết trong tiếng Việt — với con chữ y,
dùng để ghi bán nguyên âm (còn gọi là “bán mẫu âm”) /y/ — là âm lướt xuất hiện
ở đầu hoặc cuối một âm tiết và được ngành ngữ âm học ghi bằng kí hiệu [i:]. Có
điều lạ là không ai viết kỳ dỵ, lý trý cả! Thực tế, nay chúng ta bảo
nhau theo cách phân biệt nói trên mà viết cho đúng: ông lí trưởng, lí tưởng,
lí trí, kì dị, nước Mĩ, Mĩ quốc, (cao lương) mĩ vị, mĩ thuật, v.v… thì có
người sẽ thấy lạ hoắc, không quen, nên không chấp nhận.
Vậy
thì trong khi chờ đợi chuẩn bị cho những lớp học sinh tiểu học, rồi trung học,
được chỉ dạy những điểm sơ đẳng đó về tương quan giữa ngữ âm và chính tả, thì
biện pháp tốt hơn hết ta có thể áp dụng ở giai đoạn đầu — tức ngay bây giờ —
là:
Khi
một âm tiết có nguyên âm /i/ đứng ở cuối, thì ta dần dần cố nhớ ghi nhất loạt
bằng con chữ i: ăn mì Hải kí gần hơn Tùng kí, ông lí trưởng, Mĩ cảnh,
tiếng nói Hoa Kì, thế kỉ (thứ 21), v.v…
Một
biệt lệ là vần –uy /-wi/ [ui] như trong duy, huy, khuy, nguy, quy, tuy,
thuý, v.v… thì vẫn viết như cũ, NHƯNG phải đánh dấu thanh điệu (hoặc thanh)
vào nguyên âm chính: huý, luỹ, quý, tuý, tuỳ, tuỷ, thuý, thuỷ, nhuỵ, nguỵ,
v.v… để phân biệt với húi, lủi, cúi, túi, đùi, tủi, thúi, khui,
v.v…Ta cần chấp nhận biệt lệ này vì còn có những vần phức tạp hơn như /–uyên/,
/-uyêt/ trong duyên, chuyển, huyên (náo), khuyên, luyến, quyên, tuyên
truyền, thuyền, nhuyễn, nguyên, Nguyễn, xuyễn, duyệt, tuyết, khuyết, nguyệt,
quyết, v.v…
Nếu
âm chính là nguyên âm /i/ đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết, thì vẫn viết
theo thói quen như cũ: […] y học, y khoa, ý kiến, ý nghĩa, Nguyễn Ngu Ý,
v.v…
Trong
ba cuốn từ điển song ngữ Việt-Anh hay Anh-Việt của tôi (xuất bản vào những thập
niên 1950 và 1960 đó), tôi vẫn theo thói quen của các nhà văn, nhà báo và nhà
giáo mà ghi thế kỷ, kỷ niệm, kỷ nguyên, v.v… Nhưng ở thời điểm này (ba
mươi năm sau!), tôi áp dụng chút sở học để cầu tiến và nắm tay các bạn già trẻ
cùng tiến bộ, thiết tưởng bạn đọc và bạn học không nên lấy làm lạ, mặc dầu
những điều tôi nêu lên (không phải là ý kiến riêng của tôi) có thể chưa đủ sức
thuyết phục.
Ngoài
ra, nói riêng một tạp chí đã có lời phi lộ là đem độc giả bước vào thế kỉ sau,
thì quí vị phụ trách tờ báo có giá trị đó, theo thiển ý, chẳng nên ngần ngại gì
mà không bắt đầu viết cho đúng: Thế-kỉ 21. Tôi còn xin phép đề nghị là tốt hơn
nữa, quí vị trong ban biên tập, cho đến nay vẫn bỏ cái gạch nối — là cái dấu
cần thiết cho người học nói, học đọc tiếng Việt, dù là người Việt hay người
ngoài — xin đi xa hơn nữa mà triệt để viết liền hai âm tiết lại với nhau như
thế này: Thếkỉ 21, thì thật là đúng với cái thiên chức quí vị đã đề ra cho tạp
chí kia.
Ngày
xưa, các cụ nhà ta dùng thẳng chữ Nho của người Hán, rồi lại mượn thứ chữ khối
vuông đó của người phương Bắc để đặt ra chữ Nôm, rồi lại được người phương Tây
mách cho cách dùng chữ cái của La tinh để ghi âm Việt. Cả ba thứ văn tự ấy đều
là mượn của người ngoài, chẳng khác gì chiếc khăn đội đầu, về sau được thay thế
bằng các kiểu nón mũ giúp ta tránh mưa che nắng mà thôi. Điểm then chốt là: hệ
thống văn tự mà ta mượn của họ có nhiều điểm bất nhất và bất tiện, ta có cần
mượn luôn cả những cái bất nhất đó vào văn tự của ta hay không?
Nguyễn Đình Hoà
Nguồn: Viện Việt Học
Nguồn: Viện Việt Học
Bài
đăng trên Dòng Việt, số 3 (“Chữ nghĩa tiếng Việt”).
Người
đánh máy thêm vào một số kí hiệu ngữ âm quốc tế:
Chữ
trong ngoặc vuông là cách phát âm, thí dụ: [i].
Chữ
trong hai gạch nghiêng và in ngả (italic) là chữ viết, thí dụ: /i/, /y/.
-------------------------------
Vấn đề Phân Biệt viết i (ngắn) và y (dài)
Thành Long/USSH
Kết
quả tìm kiếm trên Google ngày 12/5/2010 với 4 từ khoá: “ly kỳ” – “ly kì” – “li
kỳ” – “li kì”.
Hiện
nay, trong chính tả tiếng Việt (chữ Quốc ngữ), người ta vẫn còn lúng túng trong
việc chọn i ngắnvà y dài trong một số trường hợp. Cụ thể là khi
âm /i/ đứng làm âm chính trong âm tiết mở (không có âm cuối vần) sau các phụ âm
/h, k, l, m, s, t/. Và do đó vẫn tồn tại hai cách viết.
hi
vọng/ hy vọng kĩ thuật/ kỹ thuật lí luận/ lý luận mĩ thuật/ mỹ thuật công ti/ công ty sĩ quan/ sỹ quan
Thực
ra muốn bàn vấn đề này một cách thấu đáo, phải đề cập một phạm vi rộng hơn, đó
là vấn đề chính tả của chữ Quốc ngữ nói chung. Nhưng như thế, bài viết sẽ quá
dài, do đó chúng tôi chỉ đề cập vấn đề chung một cách ngắn gọn, chủ yếu là
những gì liên quan đến cách viết i ngắn/ y dài, xoay quanh nguyên tắc ghi âm hay ghi ý.
Những
người thiên về góc nhìn ngữ âm học cho rằng cả hai chữ i ngắn và y
dài trong các trường hợp trên đều ghi âm /i/ nên bản chất không có gì khác
nhau cả, vậy nên tốt nhất là nhập hai cách viết đó làm một cho nhất quán và
giản tiện.
Giáo
trình Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt viết: “Trong chính tả hiện nay
đang có những trường hợp cùng một âm vị nhưng được viết tùy tiện theo hai cách
khác nhau. Đó là cách viết lung tung i/y và d/gi” (1). Và tác
giả đề nghị: “Thống nhất viết nguyên âm – âm chính /i/ bằng chữ cái “i”, ví
dụ: lí luận, kĩ thuật, mĩ thuật,…” (2). Không chỉ tác giả của
giáo trình trên mà xu hướng chung của giới ngôn ngữ học nhiều năm qua là như
vậy.
Nhưng
xã hội cũng không dễ gì chấp nhận những đề nghị nói trên, dù có những lý do hợp
lý nhất định. Tuy đại đa số không có lý thuyết về ngôn ngữ học, nhưng bằng ngữ
cảm bản ngữ, người ta cũng nhận thấy viết nhất loạt i ngắn như mất mát,
thiếu hụt cái gì đó, cho nên cách viết y dài vẫn được duy trì ở chỗ này
chỗ khác. Chẳng hạn:
–
Tại số nhà 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội có hai viện “chữ nghĩa” lớn nhất nước ta –
Viện Văn học (với cơ quan ngôn luận là tạp chí Văn học) và Viện Ngôn ngữ
(với tạp chí Ngôn ngữ) – thì trong khi bên Ngôn ngữ viết i
ngắn, bên Văn học vẫn viết y dài.
–
Nhà xuất bản Giáo dục quy định những trường hợp trên phải nhất loạt viết i
ngắn. Tuy nhiên, khi các công ty con của nhà xuất bản ra đời, ban đầu tên
công ty đều viết là ti (i ngắn), nhưng rồi càng ngày người ta càng nhận
thấy bất tiện, nên đã dần dần đổi sang viết ty (y dài).
–
Một số tác giả viết sách cho Nhà xuất bản Giáo dục, trong khi chấp nhận viết
nhất loạt i ngắn cho sách giáo khoa, thì các sách khác vẫn đề nghị viết
phân biệt i ngắn/ y dài.
Nhà
nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Trần Ngọc Thêm, lúc đầu cũng ủng hộ nhất loạt
viết i ngắn, nhưng về sau chính ông đã nhận thấy, chỉ xét riêng về mặt
văn hóa, đã không ổn. Góp ý cho sách giáo khoa lớp 4 mới (2005), ông chỉ ra việc nhất loạt viết i ngắn là một chủ chương cực đoan
và không thích hợp, nhất là khi gặp tên riêng, vì ở đó phải tôn trọng truyền
thống và tự do cá nhân. Và năm sau, NXB Giáo dục đã sửa cách viết
tên riêng theo hướng này. (Viết Chương Mỹ, Lý Tự Trọng thay choChương
Mĩ, Lí Tự Trọng)
Đặc biệt, học giả
Cao Xuân Hạo,
trong một giai đoạn dài đã đơn thương độc mã chống lại chủ trương sáp nhập i
ngắn và y dài, cũng như chủ trương cải tiến chữ Quốc ngữ nói chung.
Cái mà đa số giới ngôn ngữ học cho hệ thống ghi âm 1 đối 1 (1 âm – 1 chữ
và ngược lại) là ưu điểm của chữ Quốc ngữ – thì ông đánh giá ngược lại: “Nhược
điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị
học, mà ở chỗ nó có tính chất thuần tuý ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước
nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ
nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong
tiếng Việt. Tuy vậy, cũng giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta
coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn
của các từ đồng âm như da và gia, lý và lí
(trong lí nhí). v.v.. Đáng tiếc là những chỗ như thế không lấy gì làm nhiều” (3).
Dưới đây chúng tôi
sẽ phân tích thêm những bất cập của chủ trương nhất loạt viết i ngắn và
sự có lý của chủ trương bảo tồn sự phân biệt i ngắn/y dài.
Nếu
vận dụng triệt để nguyên tắc ngữ âm học theo kiểu 1 – 1 giữa âm và chữ,
thì ngoài i ngắn/ y dài trong âm tiết mở nói trên, sẽ còn phải xử lý
“nhất quán” hàng loạt trường hợp khác. Ví dụ:
i/y
độc lập làm âm tiết: y tế, chuẩn y, ý nghĩa, ỷ thế, yêu cầu, yếu thế yểu
điệu,… → i tế, chuẩn i, í
nghĩa, iêu cầu,… Và i/y trong tổ hợp làm vần: uyên bác, khuyên bảo,
quyên góp, thuyết minh,… →
uiên bác, khuiên bảo, quiên góp, thuiết minh,…
c/k/q
(cùng ghi âm “cờ”): quốc ca, cứu quốc, con đường quanh co,… → kuốc
ka, kứu kuốc, kon đường
kuanh ko,…
d/gi
(cùng ghi âm “dờ”): giáo dục gia đình → dáo
dục da đình hoặc záo zục za
đình
g/gh
(cùng ghi âm “gờ”): gồ ghề, ghen ghét → gồ
gề, gen gét
ng/ngh
(cùng ghi âm “ngờ”): ngấp nghé, ngông ghênh → ngấp
ngé, ngông ngênh
Ngoài
ra còn nhiều trường hợp “bất hợp lý” khác: viết u và o khi cùng ghi âm đệm /u/:
quanh/ khoanh; viết u và o khi cùng ghi âm cuối /u/: báu/ báo;
viết ă và a khi cùng ghi âm chính /a/ ngắn:săn/ sau (trẻ con vẫn đánh
vần “á-u-au, sờ-au-sau”. v.v..
Nếu
sửa tất cả cho nhất quán, để chữ Quốc ngữ thành một “hệ thống ghi âm hoàn hảo,
không chê vào đâu được”, hẳn sẽ có một thứ chữ Quốc ngữ “hiện đại” khác xa thứ
chữ hiện hành. Hậu quả là khoảng vài chục năm sau nữa, con cháu sẽ không đọc
nổi chữ Quốc ngữ kể từ thời chúng ta trở về trước!
Nhưng điều quan
trọng hơn, nếu triệt để vận dụng nguyên tắc ngữ âm học như trên, tuy được một
vài cái tiện nhất định thì lại mất rất nhiều cái lợi khác.
Thứ nhất, nó mất đi sự trong sáng. Ví dụ, nếu đồng nhất viết gia
đình cũng như da thịt, lý sự cũng như lí nhí sẽ mất sự
phân biệt nghĩa và mất cả sự đánh dấu về từ nguyên.
Thứ hai, nó mất đi sự phong phú. Chẳng hạn trong tên riêng,
người ta có quyền lựa chọn để biểu đạt một ý nghĩa nào đó. Giữa tên là Tí
với nghĩa là “bé” khác với Tý với nghĩa là “năm Tý, năm Chuột”. Hầu hết
tên riêng người ta chọn y dài (gốc Hán) để thể hiện sắc thái trang
trọng: chọn Hy (hy vọng), không chọn Hi (cười hi hi), chọn Kỳ
(kỳ vọng), không chọn Kì (kì kèo), v.v..
Ngoài ra, trong một
số trường hợp, nó mất đi vẻ đẹp văn hóa. Ví dụ giữa “công ti” và “công ty”, người
ta thấy viết “công ty” hay hơn. Vì sao vậy? Vì chữ “ti” được viết trong “ti
trôn”, rồi “ti” còn có nghĩa là “vú” (sờ ti). Viết “công ty” sẽ trang trọng hơn
“công ti” là vì thế.
Đấy
là điều giải thích vì sao cả nửa thế kỷ qua, với rất nhiều lời kêu gọi của
nhiều nhà ngôn ngữ học, với hàng loạt giáo trình, sách giáo khoa chỉ ra sự “bất
hợp lý” mà sự “bất hợp lý” vẫn tồn tại! Cuộc sống bao giờ cũng có sự lựa
chọn khôn ngoan, chống lại những giáo điều, duy ý chí.
Sự duy ý chí ấy bắt
nguồn từ đâu?
Theo tôi, đó là việc việc vận dụng máy móc lý thuyết về chữ ghi âm, coi chữ chỉ
là ký hiệu của âm: “Chữ ghi âm không quan tâm đến nội dung, ý nghĩa của từ
mà chỉ ghi lại chuỗi âm thanh của từ đó. Chữ viết ghi âm là đại diện của ngữ âm
chứ không phải ý nghĩa. Quan hệ giữa chữ và ý ở đây là một quan
hệ gián tiếp mà âm là trung gian: chữ – âm – ý” (4) (Người trích
nhấn mạnh).
Nhận
định trên thực ra chỉ đúng trên nguyên tắc chung của loại hình chữ ghi âm,
trong tương quan với phạm trù đối lập là chữ ghi ý. Nguyên tắc có giá trị lý
thuyết, giúp cho nhận thức khái quát, đi vào những sự vật hiện tượng cụ thể lại
phải xem xét một cách cụ thể. Thực tế bao giờ cũng phong phú hơn lý thuyết. Thực tế trên thế giới, theo nhiều nhà ngôn
ngữ học, không có một thứ chữ nào thuần túy ghi âm, cũng như không có một thứ
chữ nào thuần túy ghi ý.
Theo
chúng tôi, đành rằng chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, nhưng đấy là trên nguyên tắc
chung, phần còn lại, tính chất ghi ý của nó cũng chẳng phải là nhỏ.
Ngoài những ký hiệu và chữ viết tắt như m, m2, m3, kg,
kw, kb, D, ^, %, <, >, &, @, v.v, XHCN, UBNN,… hiển nhiên đấy là chữ
ghi ý thì hình thức chính tả “siêu phương ngữ” hiện hành là biểu hiện
sinh động của tính chất ghi ý.
Hình
thức chính tả hiện nay được gọi là “siêu phương ngữ” vì nó không “trung thành”
hẳn với phát âm của một vùng phương ngữ nào. Miền Bắc không phân biệt các âm
đầu /ch – tr/, /x – s/, /d/gi – r/ khi nói nhưng khi viết vẫn phân biệt, cho
nên hình thức (quả) chanh – (đấu) tranh, xinh (đẹp) – sinh
(sống),… là những hình thức ghi ý; miền Nam không phân biệt các âm cuối /n –
ng/, t – c/, các thanh hỏi – ngã, âm đầu /v – d/,… cho nên (ánh) trăng –
(con) trăn, bắt (tay) – bắc (cầu), rủ (bóng) – rũ
(xuống),… là những hình thức ghi ý. Vậy nên dù có sáp nhập các hình thức i
ngắn/ y dài, d/ gi thì cũng chẳng thêm được bao nhiêu, thì cũng không sao
đưa chữ Quốc ngữ thành chữ ghi âm hoàn toàn được.
Nếu
bây giờ trung thành với nguyên tắc “ngữ âm học” (nói sao viết vậy) thì tiếng
Việt sẽ vỡ ra ít nhất thành hai mảng: tiếng miền Nam và tiếng miền Bắc. Nhưng người
Việt Nam từ Móng Cái đến Hà Tiên chẳng mấy khó khăn khi viết chính tả, dù rằng
rất nhiều chữ nói một đằng viết một nẻo, nói giống nhau mà viết khác nhau. Vì
sao vậy?
Thứ
nhất vì chữ viết là một hệ thống, độc lập tương đối với hệ thống ngữ
âm.
Trong
buổi đầu hình thành chữ Quốc ngữ, có thể đó là một hệ thống ký tự 1 đối 1
đối với hệ thống ngữ âm, nghĩa là khá “hợp lý”. Nhưng trong quá trình phát
triển, ngữ âm và chữ viết đã biến đổi theo những con đường riêng, không hoàn
toàn phụ thuộc vào nhau, cuối cùng tiến tới một hình thức như ngày nay.
Thứ
hai, do tính độc lập tương đối đó, chữ viết trở thành một kênh giao tiếp
khác. Ngôn ngữ nói
được tiếp nhận bằng thính giác, còn ngôn ngữ viết được tiếp nhận bằng thị
giác. Theo Cao Xuân Hạo: “Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong
vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hoá. Mỗi từ ngữ dần dần có một
diện mạo riêng. Một gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay
đổi được nữa. Và cái gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với
cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó người đọc phân
biệt các từ đồng âm mặc dù không có sự giúp đỡ của các tình huống đối thoại hay
của sự hiện diện của người đối thoại…” (5)
Gestalt là một thuyết tâm
lý học. Nghĩa của từ này trong tiếng Việt tuơng đương các từ “hình thể”, “hình
dạng”, “phom”, “diện mạo tổng quát”. Thuyết gestalt được áp dụng trong nhiều
lĩnh vực. Riêng về nhận thức, nó cho rằng sự tri giác của con người không phải
là sự đơn lẻ, lần lượt mà có tính tổng hợp, toàn bộ, tức thời (cho nên có người
dịch là thuyết “hoàn hình”). Ví như ta nhận ra một người quen không phải lần
lượt bằng từng nét riêng rẽ (mắt, mũi, dáng điệu,… ) rồi cộng lại, mà nhận ra
toàn bộ diện mạo một cách đồng thời. Trong việc đọc cũng vậy, không phải bằng
“đánh vần” từng âm, ghép các âm lại rồi mới luận ra nghĩa, mà cái nghĩa đến
ngay khi tri giác toàn bộ “mặt chữ”, cũng không cần “vang lên” bất kỳ một âm
thanh nào. Nói cách khác, từ chữ, cái ý (nghĩa) đến thẳng, không cần qua “cầu”
trung gian là âm.
Tóm
lại việc duy trì hai hình thức i ngắn/ y dài có lý do sâu xa trên nhiều
phương diện. Còn về việc khó khăn khi viết thì hoàn toàn có thể khắc phục được.
Thực ra thì hầu hết đã có quy tắc (6), chỉ còn lại trường hợp khi
chúng làm âm tiết mở sau các phụ âm /h, k, l, m, s, t/ sẽ nói dưới đây.
Trường hợp đứng sau
6 phụ âm /h, k, l, m, s, t/, về cơ bản, cũng đã hình thành một thói quen: viết i
ngắn
khi là từ thuần Việt; viết y dài khi là từ Hán Việt.
Bây giờ chỉ cần chuẩn hóa thói quen đó. Bảng dưới đây liệt kê một số trường hợp
trong đối sánh các từ đồng âm (trường hợp không có từ đồng âm, dùng ký hiệu X;
các yếu tố Hán Việt đồng nghĩa chỉ nêu 1, 2 trường hợp, ví dụ: ly – “lìa
ra”: ly hôn).
Phụ
âm
|
Từ
thuần Việt
|
Từ
Hán Việt
|
h
|
(cười)
hi hi(mắt) ti hí, hí hoáy, hỉ mũi, hủ hỉ, hỉ hả
|
hy
vọng, du hý, hý trường, hý viện, hiếu hỷ, hỷ xả, song hỷ
|
k
|
kì
cọ, kì kèo, kí cóp, kí (kilôgam), kĩ tính, kĩ càng
|
kỳ
vọng, kỳ thi, ly kỳ, quốc kỳdu ký, chữ ký, ký âm, ký giả; ký sinh, đố kỵ, kỵ
binh, ngày kỵ (giỗ), kỷ luật, kỷ yếu, kỷ niệm, thế kỷ, kỹ nữ, kỹ thuật, tạp
kỹ
|
l
|
li
(milimét), li (cốc), (giấy) ô li, li (quần), li bì, li ti, lì lợm, nhẵn lì,
lì xì, (điệu) lí, (nói) lí nhí, (đã bảo mà) lị
|
(quẻ)
ly, ly hôn, lý thuyết, hương lý, hải lý, tỉnh lỵ, kiết lỵ
|
m
|
(bọn)
mi, mi ca, nốt mi, mì (sắn), bột mì, mì chính, mụ mị
|
tu
my, nhu mỳ, mỵ dân, mỹ thuật, mỹ tửu, mỹ mãn
|
s
|
cây
si, nốt si, đen sì, sì sụp, mua sỉ
|
ngu
sy, sy tình, sỷ nhục, sỹ tử, sỹ phu, sỹ diện
|
t
|
đinh
ti, ti trôn, (bé) ti ti, ti toe, tì (tay), tì vết, (uống) tì tì, tí hon, tí
tách, tí toáy, tỉ tê, tỉ mỉ, (khóc) tỉ ti, tị nạnh
|
ty
(sở), tự ty, công ty, tỳ (lá lách), tỳ bà, tỳ thiếp, tỳ tướng, (năm) tý, tỷ
lệ, tỷ dụ, tỷ thí, tỵ nạn, (năm) tỵ
|
Sẽ có người băn
khoăn: làm thế nào để nhận biết từ Hán Việt, từ thuần Việt? Thực ra bằng ngữ
cảm bản ngữ, nói chung mỗi người đều có thể nhận ra, cũng giống như biết rằng
khi nào dùng từ phu nhân, khi nào dùng từ vợ, khi nào dùng phụ
nữ, khi nào dùng đàn bà. Về cách phân biệt Hán Việt/thuần Việt,
chúng tôi sẽ đề cập vào một dịp khác, ở đây chỉ nêu một quy tắc thông dụng
nhất: Yếu tố thuần Việt có thể dùng độc lập, còn đa số yếu tố Hán Việt thì
không. Ví dụ nói hai nước chứ không nói hai quốc.
Nhưng
vấn đề nhận biết Hán Việt/ thuần Việt cũng không quan trọng lắm. Nếu đã chuẩn
hóa và các sách báo làm gương thực hiện thì cách viết i hay y dần
dần sẽ trở thành những gestalt trong đầu óc mỗi người, và việc viết đúng
đã được tự động hoá, cũng giống như xưa nay mọi người vẫn viết đúng y
tế/ (lớp) i tờ, ỷ thế/ ỉ eo, ý nghĩa/ í ới mà không cần phải suy nghĩ gì.
Đối
với các thuật ngữ gốc nước ngoài và tên riêng nước ngoài thì nên để chữ này như
trong nguyên ngữ. Ví dụ: hydrogenium -> hy-đrô; histamine -> hi-xta-min;
Myamar -> My-an-ma; Midway -> Mít-guây.
Đối
với một dân tộc, trong vài ba thế kỷ, mỗi từ ngữ sẽ dần dần có một diện mạo
riêng, một gestalt, thì với một con người, nhiều nhất cũng chỉ dăm bảy
năm (cứ cho là học hết lớp 9), cũng đủ hình thành cái gestalt thị giác
cho mỗi chữ – nghĩa, và việc viết đúng chính tả i/y là không mấy khó
khăn.
Cần
sớm chuẩn hóa vấn đề này. Vì nếu i ngắn được “nhất loạt hóa” như một số
cơ quan báo chí, xuất bản hiện nay sẽ tạo điều kiện lối viết tùy tiện, bất chấp
nghĩa. Lâu ngày cái gestalt ấy được định hình, muốn quay trở lại để phân
biệt (nghĩa) cũng không được nữa.
ĐÀO TIẾN
THI
(1) Mai Ngọc Chừ, Vũ
Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb
Giáo dục, 2003, tr.123.
(2) Mai Ngọc Chừ, Vũ
Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Sđd, tr.123.
(3) Cao Xuân Hạo. Tiếng
Việt – văn Việt – người Việt. Nxb Trẻ, 2003, tr.113.
(4) Mai Ngọc Chừ, Vũ
Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Sđd, tr.120.
(5) Cao Xuân Hạo. Sđd,
tr.110.
Bài
viết này được tác giả trình bày tại Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc năm 2010, Trường
ĐHKHXH&NV, ngày 18/4/2010 và đăng trên tạp chí Thế giới trong ta số chuyên
đề 3 + 4 (2010).
No comments:
Post a Comment