Sekai Sama
Tháng Mười Hai 23, 2012
“Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người
ta sẽ kết thúc bằng đốt sinh mạng con người“
Almansor (1821) –
Heinrich Heine
A. Tự do trí tuệ
là gì và tại sao nó quan trọng ?
Tự do trí tuệ có
nghĩa là bất kỳ một cá nhân nào sống trong xã hội loài người đều có quyền tìm
kiếm và tiếp nhận thông tin thuộc mọi quan điểm mà không hề bị bất cứ một trở
ngại nào. Tự do trí tuệ vì vậy bảo đảm cho con người quyền tự do bộc lộ ý tưởng
bằng nhiều cách khác nhau qua đó có thể làm sáng tỏ mọi khía cạnh của một vấn
đề, một nguyên nhân, hay một trào lưu. Như vậy tự do trí tuệ có quan hệ mật thiết
với tự do ngôn luận và tự do biểu hiện. Thiếu tự do trí tuệ xã hội sẽ dễ dàng
bị một thiểu số nhân danh dư luận, nhân danh nhà cầm quyền, nhân danh các nhà
tài phiệt, hay nhân danh một giai cấp, tầng lớp nào đó trong xã hội v.v. lừa
dối. Của cải vật chất, tinh thần, tài nguyên, lãnh thố của quốc gia và cả sinh
mạng con người dễ bị lợi dụng nhằm đạt mục đích ích kỷ của một số người hoặc
các tập đoàn.
Tự do trí tuệ là
một trong những hòn đá tảng xây nên nền móng của một xã hội dân chủ. Trong một
xã hội dân chủ, mỗi người dân là người chủ của chính mình, là người điều khiển
chính bản thân mình, chứ không phải ai khác. Nhưng để mỗi người dân có thể chịu
trách nhiệm về việc đó, mọi công dân của xã hội phải được nhận đầy đủ thông
tin. Tự do trí tuệ như vậy bao gồm tự do tàng trữ, tiếp nhận và phát tán thông
tin.
Đối kháng với tự
do trí tuệ là kiểm duyệt.
B. Kiểm duyệt là
gì, nó xảy ra như thế nào và ai là người muốn kiểm duyệt ?
Kiểm duyệt là sự
ngăn cấm, loại bỏ, hay đàn áp những ý tưởng hoặc thông tin mà một số người thấy
không chấp nhận được hoặc cho là nguy hiểm. Những người này có thể là một số cá
nhân, nhóm người, hoặc một số người nhân danh nhà cầm quyền. Kiểm duyệt bắt đầu
khi có một người nói: “Chớ có cho ai đọc quyển sách đó (hoặc mua số báo đó,
hoặc coi bộ phim hoặc vở kịch đó, hoặc nghe bài hát hoặc bản nhạc đó, hoặc xem
bức tranh đó) vì tôi không đồng ý.” Các nhà kiểm duyệt ép các cơ quan, trường
học, nhà xuất bản, báo chí, tổ chức, công ty, viện nghiên cứu, v.v. loại bỏ các
thông tin mà họ cho là không thích hợp hoặc nguy hiểm, không cho phép công
chúng tiếp xúc với các thông tin đó. Kết quả là không ai có thể có cơ hội đọc
hoặc xem các thông tin này để có thể tự suy nghĩ và phán xét đúng, sai, hay, dở
về chúng. Các nhà kiểm duyệt muốn tự đánh giá, xếp loại, phân “luồng” thông tin
cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, đã là công dân một xã hội dân chủ, pháp quyền,
thì bất kỳ người nào cũng có quyền đọc, nhìn, nghe, và tuyên truyền các ý tưởng
không vi phạm hiến pháp, cho dù nhà kiểm duyệt không muốn chấp nhận những ý
tưởng đó đi chăng nữa.
Kiểm duyệt xảy ra
khi các tài liệu bày tỏ ý tưởng như sách, báo, phim, ảnh, các tác phẩm nghệ
thuật, v.v. (gọi chung là “tài liệu”) bị loại bỏ hoặc cất đi không cho công
chúng xem. Một số cá nhân hoặc nhóm người “điểm mặt chỉ tên” những “tài liệu”
mà họ phản đối. Trong một số trường hợp, các nhà kiểm duyệt cấm các trường học
không được sử dụng các “tài liệu” này, cấm các hiệu sách, hiệu đĩa, hiệu băng
video không được lưu giữ chúng, cấm các nhà xuất bản không được ấn hành chúng,
cấm các galleries, các phòng triển lãm không được trưng bày chúng. Kiểm duyệt
cũng xảy ra khi một số “tài liệu” bị hạn chế phạm vi sử dụng, chỉ được sử dụng
đối với một loại công chúng dựa trên một số tiêu chuẩn về tuổi tác, hoặc các
tiêu chuẩn khác (ví dụ sách báo, phim ảnh dành cho người lớn, v.v.).
Trong đại đa số
trường hợp, nhà kiểm duyệt (hoặc người có tư tưởng kiểm duyệt) thường chân
thành tin rằng kiểm duyệt có thể làm xã hội tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn, có thể
bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên, và giữ gìn hoặc khôi phục cái mà nhà kiểm
duyệt cho là “giá trị tinh thần”, “bản sắc dân tộc”, hay “thuần phong mỹ tục”,
v.v. Các nhà kiểm duyệt có thể thật sự tin rằng một số “tài liệu” có chứa nội
dung quá khích, chống lại, thậm chí phá hoại trật tự xã hội hiện hành tới mức
không còn cách nào khác để ngăn chặn “tác hại” của chúng, ngoài việc “khai tử”
cho các “tài liệu” này, tức là loại bỏ chúng, không bao giờ công bố chúng. Một
số nhà kiểm duyệt khác thì lo ngại rằng những người trẻ tuổi hoặc yếu đuối hơn
sẽ có thể làm điều xấu do bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng xấu. Thậm chí, vẫn còn
không ít người tin rằng có một ranh giới hết sức rõ ràng giữa những tư tưởng
“đúng đắn”, phù hợp với “đạo đức” và những tư tưởng “sai trái”, “đồi bại”.
Những người này muốn đảm bảo rằng xã hội sẽ chỉ có lợi nếu tuân theo quan điểm
của họ. Họ tin tưởng rằng một số cá nhân nào đó, hoặc một số tổ chức, cơ quan,
đoàn thể nào đó, thậm chí toàn xã hội sẽ lâm nguy nếu một số tư tưởng riêng rẽ
nào đó được lan truyền rộng rãi mà không bị ngăn cản.
Trớ trêu thay,
điều mà các nhà kiểm duyệt thường không để tâm đến là kiểm duyệt không khác gì
con dao hai lưỡi đối với chính các nhà kiểm duyệt. Cụ thể là, nếu như ngày hôm
nay các nhà kiểm duyệt thành công trong việc loại trừ hay đàn áp các tư tưởng
mà họ không thích, ngày mai những người khác có thể sẽ dùng chính cái tiền lệ
đó để loại trừ hay đàn áp những tư tưởng mà các nhà kiểm duyệt hôm nay đang ưng
ý. Cách đây 150 năm, trong tác phẩm Bàn về tự do (1859), John Stuart Mill đã
viết: “Nếu như toàn nhân loại, ngoại trừ một người, có chung một quan điểm, và
chỉ có một người duy nhất có quan điểm trái ngược, thì bằng cách bịt miệng
người đó, toàn nhân loại cũng chẳng có lý gì hơn là chính người đó, nếu y có
quyền, sẽ dùng quyền lực của mình để bịt miệng toàn nhân loại.” Ông còn viết :
“Chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng quan điểm mà chúng ta đang gắng
sức bóp chết là một quan điểm sai; và nếu chúng ta có chắc chắn đi chăng nữa
thì việc bóp chết nó vẫn cứ là một điều quái gở”.
C. Mối quan hệ
giữa kiểm duyệt và tự do trí tuệ
Những quyền mà các
nhà kiểm duyệt thực hiện khi họ phát biểu quan điểm hoặc mối lo ngại của họ về
các tác phẩm của đương sự (nhà xuất bản hay tác giả) cũng chính là những quyền
mà đương sự đó cần được bảo vệ khi đối mặt với nhà khiểm duyệt. Điều đó có
nghĩa là khi các nhà kiểm duyệt công bố cho công chúng biết sự phê phán của họ
chống lại một số ý tưởng nào đó, họ đã thực hiện những quyền đúng như những
quyền của người sáng tạo ra hoặc truyền bá các “tài liệu” mà các nhà kiểm duyệt
phản đối. Điều đó cũng có nghĩa là, trong một xã hội dân chủ, quyền của các nhà
kiểm duyệt trong việc phát biểu và thuyết phục người khác chấp nhận quan điểm
của mình sẽ được luật pháp bảo vệ chừng nào quyền của những người phát biểu
quan điểm đối nghịch cũng được luật pháp bảo vệ. Quyền của cả hai phía đều phải
được luật pháp bảo vệ như nhau. Nếu không, không phía nào có thể tồn tại lâu
dài được.
Lịch sử nhân loại
đã làm chứng cho vô vàn các cuộc kiểm duyệt. Sách vở thường xuyên bị kiểm duyệt
vì nội dung chính trị, tình dục, hoặc ngôn ngữ xúc phạm tới chủng tộc, dân tộc,
văn hóa, giới tính, lập trường chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo của các nhóm
người khác nhau. Các tài liệu bị coi là nhảm nhí, tục tĩu, khiêu dâm, hoặc
không thích hợp cho thiếu nhi cũng thường bị kiểm duyệt. Từ khi nhân loại bắt đầu
lưu giữ được các biểu hiện của mình bằng văn bản, nhiều người đã bị thiêu sống
trên giàn lửa, bị ép uống thuốc độc tự tử, bị đóng đinh câu rút, bị giam cầm,
đày ải, hành hạ, sỉ nhục chỉ vì những gì họ đã viết ra và tin theo. Sau đây chỉ
là một vài ví dụ điển hình. Đầu năm 213 TCN Tần Thủy Hoàng định “xóa sổ” lịch
sử bằng cách ra lệnh đốt tất cả sách sử trừ những sách sử của nhà Tần. Những ai
tàng trữ hai bộ Kinh Thi và Kinh Thư hoặc sách vở của trăm nhà đều phải đem
trình quan để đốt đi. Hai người dám bàn nhau về Kinh Thư, Kinh Thi thì chém
giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ. Một năm sau Tần Thủy Hoàng
ra lệnh bắt 460 Nho sĩ đem chôn sống. Heinrich Heine từng viết trong vở kịch
Almansor (1821) của mình: “Ở nơi nào người ta đã đốt sách, người ta sẽ kết thúc
bằng đốt sinh mạng con người”. Một thế kỷ sau, lời tiên trì của Heine đã thành
sự thật ngay tại quê hương ông. Năm 1933 những người Đức Quốc xã bắt đầu bằng
việc đốt sách tại Berlin. Trong số sách báo bị đốt đó có cả các tác phẩm của chính
Heinrich Heine. Tám năm sau, Đức Quốc xã dựng nên các trại tập trung và lò
thiêu người, mà điển hình là trại Auschwitz, nơi một triệu một trăm ngàn con
người đã bị thiêu chết, trong đó 90% là người Do Thái. Tại Liên Xô trong những
năm 1940 – 1950 Stalin đã ra lệnh đốt toàn bộ sưu tập sách của người Do Thái
thuộc thư viện ở Birobidzhan – thủ phủ của khu vực tự trị của người Do Thái lúc
bấy giờ, nằm ở Viễn Đông, giáp vùng Khabarovsk, Amur của Nga, và biên giới giữa
Nga và Trung Quốc. Trong cuốn Khủng bố vĩ đại tác giả Robert Conquest cho biết
khoảng 10 triệu người đã bị hành quyết hoặc chết trong các nhà tù dưới chế độ
Stalin. Khi Stalin chết vào năm 1953, Liên Xô có 12 triệu người bị giam trong
các trại tập trung.
Trong số những lời
phản đối kiểm duyệt của các trí thức và nhân vật lừng danh trên thế giới trong
lịch sử cận đại, hùng hồn nhất có lẽ là phát biểu của thủ tướng Anh Winston
Churchill. Ông nói : “Các bạn hãy nhìn các nhà độc tài đang ngự trên bệ, bao
bọc bởi những hàng lưỡi lê của quân lính và dùi cui của đội cảnh sát của họ.
Thế nhưng con tim của họ đang bị bao trùm bởi một nỗi sợ hãi không nói được và
không thể nói được nên lời! Họ sợ các lời nói và ý nghĩ. Những lời nói được
phát ra bên ngoài, những ý nghĩ sôi sục bên trong, tất cả bỗng chốc trở nên
mạnh mẽ hơn, chính bởi vì chúng bị cấm đoán. Những cái đó làm họ hoảng sợ. Chỉ
một con chuột nhắt, một tư tưởng nhỏ xíu như con chuột nhắt, xuất hiện trong
phòng đã khiến cả những thống lãnh quyền lực nhất rơi vào trạng thái hoảng
loạn”.
D. Sự vô nghĩa của
kiểm duyệt tự do trí tuệ trong thời đại internet
Trong bức thư ngày
7 tháng 1 năm 1794 gửi nhà độc tài Robespierre vì đã đốt tờ báo Vieux
Cordelier, nhà cách mạng và nhà báo Pháp Camille Desmoulins đã trích dẫn lời
của Jean-Jacques Rousseau : “Đốt không phải là câu trả lời”. Desmoulins đã phải
trả giá cho câu nói của mình bằng chính mạng sống của ông : Ngày 31 tháng 3 năm
1794 ông bị bắt và bị đem ra xử tại “Tòa án cách mạng”. Tại đây ông bị buộc tội
“gián điệp”, bị từ chối quyền tự bào chữa, rồi bị kết án tử hình ngày 5/4/1794
lúc ông mới 34 tuổi. Mặc dù cái kết cục bi thảm ấy thường được lặp đi lặp lại
nhiều lần trong lịch sử, câu trích dẫn lời Jean-Jacques Rousseau đã vạch rõ một
chân lý hiển nhiên: “Không thể thuyết phục được một con người bằng cách bịt
miệng anh ta“.
Lịch sử đã sang
trang trong hai thập kỷ cuối và nền văn minh nhân loại đã bước sang một thời
đại mới: thời đại của internet. Hơn cả máy in, điện thoại, radio, rồi vô tuyến
truyền hình, internet là phương tiện lan truyền tự do ngôn luận và tự do tư
tưởng mạnh mẽ nhất và dân chủ nhất mà con người từng được biết đến. Khi mà bất
cứ người nào ở bất cứ nơi đâu (được nối mạng) trên thế giới cũng có thể gửi mọi
thông tin, ảnh, phim video, âm thanh lên internet để toàn thế giới có thể đọc,
xem, nghe được ngay tức khắc, kiểm duyệt dần dần trở nên bất lực, trơ trẽn, lố
bịch, và vô nghĩa. Tự do ngôn luận dần dần trở thành cái gì đó không ai có thể
hạn chế được.
Trong phần kết của
bài báo “Những chiến sĩ của mặt trận tàng hình” đăng tại Tạp chí Nga ngày
8/6/2006, tác giả Alexander Kolesnichenko đã kết luận: “Internet là phương tiện
thông tin đại chúng tự do nhất trong các phương tiện từng tồn tại từ trước tới
giờ. Chẳng bao lâu nữa, chúng ta sẽ được lựa chọn trên internet không chỉ những
gì để đọc, mà còn để nghe và nhìn nữa. Cứ mặc kệ cho nhà nước tiếp tục kiểm
soát vô tuyến truyền hình và những tập đoàn đặc quyền đặc lợi tiếp tục chiếm
hữu các tờ báo của họ. Như người đời thường nói, cứ kệ cho họ chiếu và viết
những nhăng nhít mà chỉ có chính họ sẽ xem và đọc mà thôi”.
Theo FB Sekai Sama
No comments:
Post a Comment