Trong khi đất nước Việt Nam đã đi từ chính sách ‘đổi mới’, đến kinh
tế thị trường, đến thiết lập bang giao với Mĩ, và mới đây là đến việc kí kết
thỏa hiệp mậu dịch với Hoa kì, thì người dân Việt Nam trong nước cũng đã
trải qua nhiều giai đoạn, đổ xô nhau đi học thứ ngôn ngữ giao dịch quốc tế, tạo
nên một cơn sốt có thể gọi là cơn sốt Anh ngữ (English fever).
Lớp
dạy tiếng Anh mọc ra như nấm. Người ta không thể tưởng tượng được là có biết
bao nhiêu trường công tư, bao nhiêu trung tâm mở lớp đào tạo Anh ngữ trên toàn
cõi Việt Nam. Ðâu đâu cũng thấy quảng cáo khóa học này, khóa thi nọ. Sinh viên,
công chức được gửi đi du học nước ngoài cũng phải trau dồi thêm vốn liếng Anh
ngữ cho đủ điểm để được nhận vào Ðại học của những nước nói tiếng Anh.
Kể
mà xét theo tầm quan trọng của ngôn ngữ này trên đất Việt, thì bảo nó là ‘ngôn
ngữ thứ nhất’ cũng chẳng phải là nói ngoa. Hay thông thường ra, vì nó là một
ngoại ngữ, nên gọi nó là ‘ngôn ngữ thứ hai’ như bất cứ ngoại ngữ nào khác thì
cũng hợp lí thôi. Như vậy thì thử hỏi có cơ hội gì khiến cho nó trở thành ‘ngôn
ngữ thứ ba’.
Khi
nhận xét về những bài viết bằng tiếng Anh đăng trong các tạp chí quốc tế do
Cộng Ðồng Kinh tế Châu Âu [European Economic Community (EEC)] ấn hành vào thập
niên 1970, tác giả người Anh, Alan Duff, trong cuốn The Third Language xuất bản năm 1981, đã
gán cho cái loại tiếng Anh xử dụng trong những bài viết đó là ‘ngôn ngữ thứ
ba’. Ông đưa ra một số thí dụ minh hoạ như sau:
Trong
tiếng Anh, người ta không nói ‘*ace
violinist‘ để tả ‘một nhạc sĩ vĩ cầm thượng thặng/tài hoa’, mà nói
‘top violinist‘
hoặc ‘violin virtuoso‘.
Họ không viết ‘*indispensably
necessary‘, để diễn tả một việc gì ‘cực kì cần thiết’, mà chỉ cần
viết ‘necessary‘
là đủ, thảng hoặc nếu muốn nhấn mạnh thì người ta cũng có thể viết ‘absolutely necessary‘.
Nói về ‘kiến thức thâu thập/thu nhận/học được’ người ta không nói ‘*knowledge is received’
mà phải nói ‘knowledge is
acquired‘. Khi muốn nói đến tình trạng nào đó đã gây ra một sự rạn
nứt/ngăn cắt/chia rẽ’ giữa thành phần này với thành phần khác trong xã hội,
người ta cũng không nói ‘opened
a wedge‘ mà nói ‘caused
a rift’. Cho dù dịch giả hay người viết muốn dùng chữ ‘wedge‘ đi nữa, thì trong
tiếng Anh, từ ‘wedge‘
không đi chung với từ ‘open‘.
Một ‘vết thương’ (wound)
có thể ‘mở’ (open),
nhưng ‘a wedge‘
(cái nêm/cái chặn/cái bửa) thì phải ‘is
driven‘ hoặc ‘is
introduced‘. Khi nói đến ‘một vết thương khó lành/lâu lành’, người
ta không nói ‘*a wound
healed poorly and late‘, mà nói ‘a wound healed badly‘.
Những
lỗi nêu trên đại loại là do ở người viết mà tiếng Anh của họ không phải là tiếng
mẹ đẻ. Cho nên, mặc dù họ có kiến thức đấy, có vốn liếng văn phạm tiếng Anh
đấy, nhưng khi viết họ đã nghĩ trong tiếng mẹ đẻ của mình rồi đem dịch sát
nghĩa sang tiếng Anh. Văn tiếng Anh của họ vì thế nghe không tự nhiên, không
‘idiomatic’, không phải cái thứ tiếng người Anh, người Mĩ, người Úc họ viết
hoặc dùng trong ngữ cảnh như thế. Người viết vô hình trung phạm phải những lỗi
về kết hợp ngữ (collocational
mismatches).
Trên
lối vào của một nhà hàng chuyên bán thực phẩm đồ biển có cái tên nghe khá lạ tai
là Phố Biển nằm giữa trung tâm Hà Nội, có một tấm biển gỗ được treo lủng lẳng
trên không, móc bằng sợi dây xích sắt. Trên tấm biển khá lớn này có những hàng
chữ được khắc rất ư là nghệ thuật bằng hai thứ tiếng Việt Anh. Trong số những
hàng chữ đó nếu ai để í một chút thì sẽ thấy một hàng chữ tiếng Việt: ‘Cám ơn
sự chọn lựa của quý khách’. Bên dưới đó là một hàng chữ tiếng Anh: ‘Thank you for choosing‘.
Ai đã học chút ít tiếng Anh thì đều biết ‘choosing‘
nghĩa là ‘chọn lựa’, nhưng người đọc câu tiếng Anh như thế họ sẽ đặt ngay câu
hỏi ‘choosing what?‘,
chọn lựa cái gì để được nhà hàng cám ơn. Muốn cãi cù cưa thì bảo: tiếng Việt
người ta nói thế là hiểu ngầm được rồi! Nhưng trong tiếng Anh viết thế là sai
văn phạm. Một câu viết thiếu túc từ (object).
Ðể tránh lỗi văn phạm này người ta có thể viết: ‘Thank you for your choice‘. Nhưng để nói
cho đúng ngữ cảnh tiếng Anh, chắc người ta phải viết là ‘Thank you for your patronage‘
[dịch sát thì nó có nghĩa là: 'Cám ơn quý khách đã bảo trợ/chiếu cố (đến nhà
hàng của chúng tôi)].
Phần
cuối của bảng hiệu người ta thấy có câu: ‘Giờ phục vụ’ được dịch sang tiếng Anh
là ‘Serving time‘.
Về mặt văn phạm mà nói thì không có gì sai trái cả. Về mặt ngữ nghĩa cũng không
có gì đáng chê trách. ‘Giờ’ là ‘time‘,
‘phục vụ’ là ‘serving‘.
Ðúng quá rồi! Chỉ tiếc có một điều là chữ ‘Serving
time‘ gợi cho người ta nghĩ đến ‘thời gian thọ án tù’, hay ‘thời
gian thi hành quân dịch/nghĩa vụ quân sự’. Trong tình huống, ngữ cảnh như trên,
trong tiếng Anh có lẽ người ta phải viết ‘Business
hours/Hours of business‘,’Trading
hours’,'Opening hours’,'Operating hours’. Hay trong trường hợp của
một văn phòng thì ‘Giờ phục vụ’ là ‘Office
hours’. Còn trong trường hợp ‘Giờ phục vụ’ tại phòng mạch của bác
sĩ thì lại phải viết ‘Surgery
hours’ hoặc
‘Consulting hours’.
Ở
chân cầu thang của khách sạn Dân Chủ, thuộc loại 4 sao, nằm rất gần Hồ Gươm,
người ta thấy chính giữa khung hình bầu dục của một tấm thảm nhỏ hình chữ nhật,
mầu xanh lá mạ, có hàng chữ chỉ mầu trắng ‘Good
morning‘ (chào buổi sáng). Nghĩa là vào buổi sáng trước khi bước
lên bậc thang thứ nhất là khách đã được một lời chào bằng tiếng Anh. Nhưng gặp
phải khách khó tính, khách chắc sẽ thắc mắc tự hỏi: “Thế còn những buổi khác
trong ngày – buổi chiều, buổi tối, ban đêm – thì cũng chào ‘Good morning‘ à? Ðể
tránh bị bắt bẻ, chắc ‘tấm thảm chào mừng’ kia có khi phải viết lại là ‘Welcome‘ cho đúng phận
sự của nó là ‘A welcome
mat‘ (chiếu trải đón chào).
Ở
Hải Phòng, có một khách sạn 4 sao, cao 8 tầng, mới được xây cất cách nay 3 năm
ở Phố Lạch Tray, bên cạnh một cái hồ nhân tạo hình tròn khá lớn, chạy vòng
quanh một khu vực ốc đảo dùng làm Trung tâm Sinh hoạt Thanh niên. Không hiểu có
phải để tiện việc sổ sách, chủ nhân khách sạn đã lấy tên Phố Lạch Tray đem rút
ngắn lại còn một chữ là ‘Tray’. Mà ‘Tray’ hiểu theo tiếng Anh lại có nghĩa là
‘Cái khay’, mà ‘Cái khay’ hiểu theo nghĩa ‘phục vụ’ thì thật là quá tốt. Ông
‘Cố vấn’ nào giỏi chữ nghĩa thánh hiền ‘Shakespeare’ quả đã có sáng kiến hay
khi ông đưa ra đề nghị từ ‘Tray’ cho chủ nhân khách sạn. Chỉ có điều là một
khách sạn hạng sang như thế mà đặt cho cái tên là ‘Tray’ (Khay), thì đối với
người bản ngữ tiếng Anh, có phải đó là một sự chọn lựa khéo hay không? Khách
sạn hiện thời ở Việt Nam mà chủ nhân phần lớn là người nước ngoài thì có những
tên khá quen thuộc như Métropole, Hilton, Eden, Sofitel, Novotel, Omni, Rex,
hoặc New World… Chữ ‘Tray’ trong tiếng Việt không có nghĩa gì cả. Mà khi đọc
theo giọng Bắc, viết theo cách phát âm là ‘Chay’, thì lại có nghĩa là ‘chay’
như trong ‘chay tịnh’, nghĩa là ‘không ăn mặn’, ‘không ăn thịt thà’ (vegetarian) như đa số
những người theo Ðạo Phật thường làm.
Cũng
tại khách sạn này, người ta thấy trên vách tường cầu thang máy có rất nhiều
hình ảnh mầu sắc quảng cáo các tiện nghi của khách sạn như hồ bơi, phòng tắm hơi,
phòng tẩm quất, phòng hội họp, phòng ăn điểm tâm, quầy uống rượu… Bên dưới
những hình ảnh đó là một hàng chữ: ‘So good to enjoy, so hard to forget’. Tiếng
Anh của người Việt thuộc loại ăn đong thì cũng có thể hiểu được là í khách sạn
muốn quảng cáo là ‘Quí khách ở đây sẽ được hưởng những tiện nghi quá tốt, tốt
đến độ nhớ mãi để đời, không dễ gì quên được’. Chỉ có điều là khi hỏi người bản
ngữ tiếng Anh họ nghĩ gì khi họ đọc cái quảng cáo này, thì ta cũng có thể được
câu trả lời đại loại như thế này: “Chúng tôi có nói ‘so hard to forget‘,
nhưng không nói “so good
to enjoy”. Ðành rằng ta có thể lí sự là ngôn ngữ có tính động, thay
đổi luôn luôn, từ cái cũ người ta có thể sáng chế ra cái mới, cái gì bắt mắt,
cái gì nghe cho kêu (catchphrase).
Tôi còn nhớ hồi còn làm Ðài BBC Luân đôn cách nay đã lâu, có một anh bạn đồng
nghiệp sau khi đọc được tên tựa đề của một cuốn phim là ‘Dressed to kill‘ (có
nghĩa là ‘ăn diện thật đẹp thật kẻng để quyến rũ người khác’) đã được anh cố
tình đổi lại là ‘Undressed
to kill‘ (có nghĩa là ‘cởi hết quần áo/thoát y để thu hồn/hấp hồn
người khác’). Kết quả là anh em trong Ðài đã được một mẻ cười. Tuy nhiên, trong
hoàn cảnh tiếng Anh tại Việt Nam hiện giờ, có lẽ mình còn phải học cho thông
chữ nghĩa của người ta cái đã, rồi hãy phóng tay sáng chế cho bay bướm cũng
chưa muộn.
Ðể
cho an toàn, có lẽ ‘thượng sách’ là tìm cách trưng dụng được những cụm từ cố
định (fixed expressions)
trong tiếng Anh. Cụm từ cố định thông thường trong tiếng Anh để diễn tả tình
huống nói ở trên là ‘So
easy to remember, so hard to forget‘. Còn nếu muốn dùng í của câu ‘So good to enjoy, so hard to forget‘,
tức là muốn còn giữ được nghĩa của những từ ngữ ‘enjoy’ (vui thú) và ‘remember’
(nhớ), có lẽ người bản ngữ tiếng Anh sẽ đề nghị những câu viết như thế này: ‘Make your stay enjoyable and
memorable!’ hay ‘Have
an enjoyable and memorable stay‘ hoặc ‘Helping to make your stay enjoyable and memorable!‘
Xin tạm dịch diễn nghĩa là ‘Mong thời gian quí khách lưu lại đây là thời gian
vui thú khó quên’.
Lên
hồ bơi trên sân thượng của khách sạn, người ta sẽ thấy trên thành miệng hồ bơi
có một chỗ kẻ bằng sơn xanh là 1.70 m, cạnh đó có ghi câu tiếng Anh: ‘Thou shalt not dive!‘
(Nhà ngươi chớ có nhào lặn!). ‘Chớ có nhào lặn’ là vì mực nước không đủ sâu,
nên chớ có đứng trên thành hồ bơi, đâm đầu xuống nước mà toi mạng. Tức cười ở
chỗ là câu văn cảnh cáo nghe như Ðiều Răn thứ 11 trong Kinh Thánh. Chẳng hiểu
người viết điều răn này có phải để khoe chữ, khoe nghĩa hay để chọc cười khách
cư ngụ chơi? Chỉ biết rằng trong hoàn cảnh thông thường như thế người bản ngữ
tiếng Anh sẽ viết: ‘No
diving allowed ‘ (Cấm nhào lặn).
Ở
khách sạn ‘Tray’ này, khách trọ phả trả 25 đô-la Mĩ một ngày cho một phòng có
giường đôi, có bàn ghế nhỏ, TV màu, tính luôn cả điểm tâm. Ðấy là cho người nước
ngoài gốc Việt, chứ không có gốc Việt thì phải trả gấp đôi. Mỗi lần khách trọ
đi ăn sáng phải mang theo tấm phiếu ghi tên phòng của mình để tiện việc cho
nhân viên phục dịch ăn uống kiểm soát. Nếu ai để í xem tấm phiếu thì sẽ thấy
hai mặt giấy, một mặt ghi các kiểu ăn sáng khác nhau bằng tiếng Anh, mặt kia
ghi bằng tiếng Việt. Phần tiếng Anh ghi bữa sáng gồm những kiểu như: ‘Buffet’, ‘American’, ‘Continental
‘... Lật qua mặt sau có phần tiếng Việt thì là những lời dịch của
phần tiếng Anh. Nói chung thì cũng đúng cả thôi. Chỉ có một bữa sáng ăn theo
kiểu ‘Continental
‘ thì lại dịch tương đương là ‘Kiểu Châu Á’ … Ðây có thể là trường hợp chữ
‘tác’ đánh chữ ‘tộ’. Chữ ‘Continental‘
ở đây không phải là ‘Oriental’ (nghĩa là ‘Á đông’), mà phải hiểu là ‘Continental breakfast‘,
bữa ăn sáng theo kiểu Lục Ðịa Châu Âu, khác với ăn sáng theo kiểu Quần Ðảo
Ăng-lê (The British Isles). Ăn sáng theo kiểu Lục Ðịa Châu Âu nghĩa là ăn bữa
ăn nhẹ, chỉ có bánh mì sừng bò (croissants),
hay bánh mì nướng (toasted
bread), ăn với công-phi-tuya (conserves/jam),
hoặc với bơ (butter),
rồi uống cà-phê hay nước trà.
Khi
đi mua sắm ở Việt Nam, người ta có thể thấy có nhiều hàng hoá dịch vụ phục vụ
du khách, hoặc những ai dư dả tiền bạc muốn hưởng thêm tiện nghi nho nhỏ, lạc
thú ở đời. Trong số những hàng hóa ấy có loại giấy lau tay lau mặt (paper tissues) được bầy
bán nhan nhản tại các tiệm tạp hóa, sách báo. Trên mặt ngoài của những gói nhỏ
bằng ni-lông đầy màu sắc, đủ loại hoa hòe hoa sói trông đẹp mắt dùng để đựng
giấy xốp mềm mại trắng tinh ấy, người ta thấy những câu viết bằng tiếng Anh như
‘Forever Love’ (‘Yêu mãi không thôi’), ‘Just for Fun’ (‘Quà mọn cho vui’) … thì
bất chợt người ta đọc được hàng chữ ‘Thingking
for you‘ (nguyên văn), thay vì phải viết ‘Thinking of you‘ (‘Nhớ
[đến] em/ anh/ bạn’) mới đúng tiếng Anh. Bên mặt trong của gói đựng ’tissues’,
nếu có ai để í kĩ thì còn thấy hàng chữ ‘Handker
chiefs‘ viết rời thành hai chữ, thay vì ‘Handkerchiefs‘ viết liền
thành một chữ. Mấy lỗi vừa kể có thể được liệt vào loại lỗi sơ í, hoặc văn
phạm, chính tả tiếng Anh còn kém. Thôi thì không nói làm gì!
Nhưng,
câu tiếng Anh ‘Made in
Hanoi‘, dùng dán nhãn cho những loại hàng hóa được sản xuất tại thủ
đô ngàn năm văn vật, như mũ lưỡi trai, nón cối, giầy dép… thì phải kể là một
thí dụ nữa về hiện tượng ‘ngôn ngữ thứ ba’ tại Việt Nam, không hơn không kém.
Trịnh Nhật
Sydney, 2001
Sydney, 2001
(Khách sạn Tray Hotel nay đã đổi chủ, lấy tên là Nam Cường Hotel)
*
*
English: The Third Language in Vietnam
While
the country of Vietnam has gone through ‘Ðổi
mới’ (‘renovation’) to being a market economy and establishing
diplomatic relations with America, as well as signing a trade agreement with
them, the people of Vietnam have also gone through various stages, rushing and
elbowing their way through to learn an international language as a means of
relating meaningfully to the wider world. This has created what could be called
‘English fever’.
English
classes have mushroomed. It’s hard to imagine how many public and private
schools, and how many centres are running English training courses throughout
Vietnam. People can see courses and examinations advertised everywhere.
Students as well as public servants, who have been approved for overseas
training, also have to improve their English, in order to get marks to reach
admission levels allowing them to study at universities where English is used
as the medium of instruction. Judging from the importance of English in
Vietnam, one could refer to it as ‘the first language’ without this being
considered an overstatement. Also, strictly speaking, it should be referred to
as ‘a second language’, as would reasonably considered any other foreign
language. Then what are the chances for it to become ‘the third language’?
When
commenting on English articles carried in various international journals by the
European Economic Community (EEC) published in the 1970s, Alan Duff in his book
The Third Language
(1981) referred to the type of language used as ‘the third language’. He cited
some examples as an illustration:
In
English, people do not say ‘*ace violinist’ to describe a virtuoso violinist.
They say ‘top violinist’. They do not write ‘*indispensably necessary’ to
describe something which is most necessary. ‘Necessary’ is enough, but if it
needs emphasis then they write ‘absolutely necessary’. When referring to
knowledge which is gained, they do not say ‘*knowledge is received’. They say
‘knowledge is acquired’. When referring to a particular situation which has
caused a division or split between some group and another, they do not say
‘*opened a wedge’ but rather say ’caused a rift’. Even if the translator or
writer wished to use the word ‘wedge’, in English, ‘wedge’ does not co-occur
with ‘open’. A ‘wound’ can ‘open’ but a ‘wedge is driven’ or ‘introduced’. When
talking about a wound which takes time to heal, people do not say ‘*the wound
healed poorly and late’, but ‘the wound healed badly’.
The
above mistakes cited were made by non-English-speaking background writers. Even
though they had a sound knowledge of English, when they wrote, they thought in
their mother tongue, then translated it into English. As a result, their
writing does not sound natural nor idiomatic, and is not the type of English
that American, Australian or for that matter English people would use in such a
context. They are collocational mismatches.
The
fact that English in Vietnam nowadays is looked upon as ‘the third language’,
as viewed by Alan Duff, is borne out by the many instances of such a
phenomenon. Let’s consider the following:
At
the entrance to a seafood restaurant named Phố
Biển (‘Ocean Street’) in the heart of Hanoi, there was a wooden
board dangling in the air and held by metal chain. On this board was a group of
words, artistically carved in both Vietnamese and English. If one took careful
notice, there was a Vietnamese line saying: ‘Cám
ơn sự chọn lựa của quý khách’. Below it was the English equivalent:
‘Thank you for your choosing’. Those who have some knowledge of English know
what ‘choosing’ means, but when they read this phrase, they should
automatically ask: ‘Choosing what in order to be thankful?’ If someone wanted
to be adamant about this they could say it was readily understood in
Vietnamese, but such a phrase in English is grammatically incorrect. It is a
clause lacking an object. In order to avoid this grammatical error one could
write: ‘Thank you for your choice’, but for the purpose of using it in a
correct context in English, perhaps one should write: ‘Thank you for your
patronage’.
At
the base of the board, the phrase: ‘Giờ
phục vụ’ was rendered into English as ‘Serving time’. Grammatically
speaking there is nothing wrong with this, and nothing to blame as far as word
meaning goes. ‘Giờ’
means ‘time’ and ‘phục vụ’
means ‘serving’. The only problem is that the term ‘serving time’ suggests in
the English-speaker’s mind the time served in prison or time served in military
service. In this context, people should write: ‘Business hours/Hours of
business’, ‘Trading hours’, ‘Opening hours’, ‘Operating hours’, or in the case
of an office, ‘Office hours’. In the case of ‘Serving time’ at a doctor’s
surgery, it would be ‘Surgery hours’ or ‘Consulting hours’.
At
the bottom of the staircase of the four-star Dân
chủ (‘Democracy’) Hotel which lies close to Hồ Gươm (‘Sword Lake’),
one can see, right in the middle of a green rectangular mat, an oval-shaped
centrepiece, inscribed with the words in bold white print: ‘Good morning’. That
is to say, in the morning, before you start walking up the stairs, this
greeting is there, welcoming you to the hotel. But if you were a nit-picking
guest, you may ask yourself: ‘How about the other times of the day, like
afternoon, evening and night? Does the same greeting still apply? In order to
avoid being corrected by such people, perhaps the mat bearing the greeting
should say ‘Welcome’ to be in line with its role as ‘a welcome mat’.
In
Haiphong there is a four-star hotel, 8 storeys high, built about three years
ago in Lạch Tray Street,
adjacent to a rather large round artificial lake with an island in the middle,
which is used as a Youth Activity Centre. It is not known if the hotel owner
has used the name of the street, cutting it down to ‘Tray’ as in The ‘Tray’
Hotel, or if the English word ‘tray’ is insinuated, which means ‘a flat
receptacle with raised edges on which food, drinks… are served up to people’.
Perhaps the term ‘tray’ was suggested to the hotel owner by someone, who
supposedly had a good knowledge of Shakespeare and the Queen’s English. The
only problem is that with such a ‘posh’ hotel and the name ‘Tray’, to a
native-speaker of English might it be considered a well-chosen name? Existing
hotels in Vietnam, owned mostly by foreigners, have rather familiar names, such
as Métropole, Hilton, Eden, Sofitel, Novotel, Omni, Rex, or New World… The word
‘tray’ in Vietnamese has no meaning, but when pronounced with a Northern
accent, it sounds like ‘chay’,
as in ‘ăn chay’,
meaning ‘having food without meat’, or ‘being a vegetarian’, as when describing
a Buddhist.
Also,
in the hotel one can see on the walls of the lift many colourful pictures
advertising the hotel’s many facilities, such as the swimming pool, spa pool,
massage room, conference rooms, breakfast bar, cafes, bars and restaurants and
gymnasium… Below these impressive pictures there is a line saying: ‘So good to
enjoy, so hard to forget’. A Vietnamese with a meagre knowledge of English
would be able to understand what message the hotel would like to convey which
is: ‘Guests will enjoy the facilities so much to the extent that they will
forever remember and find them hard to forget’. The only problem is that, when
asking a native-speaker of English what they would think on reading this
slogan, the response may be: “We do say ‘So hard to forget’, but we would not
say ‘So good to enjoy’”. It might be argued that something new can come from
something old, and consequently a new catchphrase is created. A former BBC
colleague of mine heard the title of a movie ‘Dressed to kill’, and he
knowingly changed it to ‘Undressed to kill’. Needless to say he caused some
mirth. However, with English in a state of flux as it is at present in Vietnam,
it might be best to stick to the proper and common fixed expressions. The
common fixed expression in English used to describe the first situation is ‘So
easy to remember, so hard to forget’. In order to avoid using such an
unidiomatic English slogan ‘So good to enjoy, so hard to forget’, but which
still retains the words ‘enjoy’ and ‘remember’, perhaps native-speakers might
suggest concise, compact phrases such as ‘Make your stay enjoyable and
memorable’ or ‘Have an enjoyable and memorable stay’, or ‘Helping to make your
stay enjoyable and memorable’.
Going
up to ‘The Top of the Roof Free-Form Tray Pool’, as stated in the Hotel
brochure, instead of just ‘Roof Top Swimming Pool’, written on the top edge of
the pool and painted in blue was the depth indicating 1.70 metres. Next to
this, was a board with a sign, written in English: ‘Thou shalt not dive’,
indicating that the depth of the pool did not preclude diving, so it was a warning
not to stand on the edge at this point and dive head-first into it, unless you
wanted to kill yourself. The funny thing was that the style of the warning
sounded like the 11th Commandment. It’s not known if the ‘so-called’
English-language advisor, who wrote this commandment wanted to show off his
knowledge of words and their meaning, or whether he just wanted to give the
guests a belly-laugh, either intentionally or unintentionally. All we know is
that under normal circumstances the native speaker of English would write: ‘No
diving allowed’.
Patrons
at The Tray Hotel have to pay US$25 for a standard room with a double bed,
which includes breakfast. Every time guests go to breakfast they have to
present a voucher to the reception area indicating the room number, and to
verify that guests are bona-fida. If the voucher is carefully scrutinised, it
states on one side, written in Vietnamese, and the other side, written in
English, the types of breakfast available. The English original text states
that the breakfast types are ‘Buffet’, ‘American’, ‘Continental’… The
Vietnamese translation, however, states that breakfast types are ‘Tự chọn’, ‘Kiểu Mỹ’, ‘Kiểu Châu Á’. The term
‘Continental’ is translated as ‘Kiểu
Châu Á’ (‘Asian type’). This is possibly a case of mistaking the
word ‘Continental’ for the word ‘Oriental’. A ‘Continental breakfast’ is a
European-type light breakfast, consisting of croissants or toasted bread,
served with butter and conserves, accompanied by tea or coffee. It is different
from an English breakfast, which consists of toasted bread and conserves,
cooked eggs and meats or baked beans, fruit, fruit juices, and tea or coffee.
While
shopping in Vietnam, you can find shops selling amenities for tourists, and for
those Vietnamese with extra money to spend on the niceties of life. For
instance, the buyer can pick up a neat, soft nylon-type tissue cover, decorated
with colourful flowers and ‘feel-good’ slogans on the front such as ‘Forever
Love’, or ‘Just for Fun’… One of the slogans however was wrong and it read in
English: ‘Thingking for you’ (verbatim) which in fact, should be ‘Thinking of
you’ if it were correct English. On the inside of the little bag, there was the
word ‘Handkerchiefs’ written in two words ‘Handker chiefs’, instead of one word.
Errors of this nature can be attributed to perhaps absent-mindedness or poor
English grammar and spelling.
However,
the label ‘Made in Hanoi’, which was attached to the headgear, footwear and the
likes, manufactured in the country’s capital city, can be used as another
example of ‘the third language’ in action in Vietnam.
Think
about it!
Frank Trinh
Sydney, 2001
Sydney, 2001
No comments:
Post a Comment