Lý Thái Hùng / Thomas
Việt - VRNs
Đăng bởi pleikly
lúc 6:44 Sáng 12/12/12
VRNs (12.12.2012) - Sài Gòn - Gần đây vấn đề gặp
gỡ, đối thoại giữa môt số cán bộ cao cấp của chính quyền Việt Nam với một vài
nhân vật trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tại Hải ngoại đã dấy lên sự tranh
cãi và chống đối. Bên chống thì cho rằng chính quyền Viêt Nam chỉ lợi dụng
những buổi đối thoại này để tuyên truyền, gây phân hóa chứ không thực tâm lắng
nghe để thay đổi. Bên ủng hộ thì cho rằng cần phải có những đối thoại song song
với những vận động chống đối để áp lực CSVN chấp nhận những thay đổi tốt hơn .
Đây là một vấn đề rất phức tạp, tế nhị trong tình hình
chính trị hiện nay; nhưng nó là một diễn trình có thể xảy ra nếu cả hai phía
(CSVN và các đảng phái không cộng sản) có những bước ngoặc thay đổi khi tìm ra
những đồng thuận cần phải giải quyết trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.
Thomas Việt của Truyền Thông Chúa Cứu Thế (VRNs) và Radio
An Phong xin mời quý vị theo dõi quan điểm của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư
Đảng Việt Tân về vấn đề đối thoại với chính quyền VN - một đảng chính trị mà
CSVN cho là lực lượng nguy hiểm nhất cho họ hiện nay.
Thomas Việt, VRNs (PV): Kính chào ông Lý Thái Hùng. Cảm ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng
vấn đặc biệt hôm nay về chủ đề đối thoại với nhà cầm quyền Việt Nam. Như ông
biết là hiện nay, chính quyền Viêt Nam có cử ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng
Ngoại giao và là Chủ tịch Hội người Việt Nam ở nước ngoài mở một số cuộc đối
thoại kín đáo với vài nhân vật có quá trình hoạt động chống cộng trong Cộng
đồng người Việt hải ngoại như tại Paris (Pháp), Orange County (Nam California)
và Houston (Texas). Ông nghĩ sao về những cuộc gặp mặt, đối thoại này thưa Ông?
Ông Lý Thái Hùng (LTH): Thưa anh, đây không phải là chuyện xảy ra lần đầu tiên. Trong vai trò chủ
tịch Hội người Việt Nam ở nước ngoài, ông Nguyễn Thanh Sơn đã từng đi nhiều
nơi, gặp gỡ một số người trong Cộng đồng hải ngoại không ngoài 3 mục tiêu: Một
là chiêu dụ một số người về Việt Nam làm ăn, đầu tư; hay kêu gọi hợp tác một số
dự án nào đó mà chế độ đang cần. Hai là giải thích, biện minh cho một số đường
lối, chính sách của chế độ để qua đó vô hiệu hóa một phần các chống đối. Ba là
tìm cách mua đứt hoặc hùn hạp với một số cơ quan truyền thông tại hải ngoại để
làm loa cho chế độ. Đặc biệt, ông Sơn còn lên tiếng mời một số nhân vật được
coi là “chống cộng” trong Cộng đồng về nước tham quan mà chính ông Sơn sẽ là
người ra đón tại phi trường.
Tôi không nghĩ đây là những cuộc đối thoại mà chỉ là một
số cuộc tiếp xúc nửa kín nửa hở mà chế độ, qua ông Nguyễn Thanh Sơn, tìm cách
lung lạc một số người và qua đó khuấy lên sự tranh cãi, hầu gây phân hóa Cộng
đồng hải ngoại. Trước đây, CSVN coi việc chiêu dụ đầu tư, hợp tác kinh tế từ
Cộng đồng hải ngoại là chính. Nhưng từ vài năm trở lại đây, Hà Nội rất lo ngại
về tiềm lực đóng góp của Cộng đồng hải ngoại cho các hoạt động của phong trào
đấu tranh tại quốc nội nên họ tìm cách gây phân hóa, lũng đoạn, kể cả việc tung
hỏa mù về đối thoại như đang thấy.
Gần đây, những cuộc gặp gỡ của ông Nguyễn Thanh Sơn
thường chú trọng vào việc giải thích, biện minh cho những chính sách của nhà
cầm quyền Hà Nội liên quan đến vi phạm nhân quyền, và ứng xử tại biển Đông.
Dĩ nhiên chúng ta đã thấy trong thực tế những cảnh lừa
đảo để trấn lột hết tài sản của những người Việt về nước đầu tư, cũng như sự
thật về thái độ quá sức hèn nhát của Hà Nội, không dám đối đầu với Bắc Kinh mà
chỉ hùng hổ đàn áp những người dân muốn bảo vệ đất nước. Điều đáng buồn là đáng
lẽ thực tế đó tự nó đủ để phủ nhận hết các ngụy biện của ông Nguyễn Thanh Sơn,
nhưng vẫn có người, dù là chỉ một số ít, vì quyền lợi riêng vẫn chạy theo làm
những điều mà chế độ muốn.
PV: Thưa ông, lịch sử chính trị Việt Nam trong gần 100 năm nay đã có những
cuộc đối thoại giữa hai phe đối nghịch chính kiến nào hay chưa?, cụ thể ra là
giữa những người Cộng sản và không Cộng sản?
LTH: Thưa anh, nói đến kinh nghiệm lịch sử thì chúng ta phải nhắc đến hai biến
cố đã là bài học đáng nhớ như sau:
Bài học thứ nhất là cuộc hợp tác giữa lực lượng CSVN (lúc
đó gọi là Việt Minh) với một số đảng phái quốc gia (Việt Nam Quốc Dân Đảng gọi
tắt là Việt Quốc và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Cách)
trong cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 1 năm 1946. Lúc đó, các đảng phái quốc gia
có 70 ghế trong Quốc hội và nhất là tham gia vào chính phủ liên hiệp lâm thời
do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Nhưng chỉ mấy tháng sau đó, lực lượng CSVN tìm
cách cô lập các hoạt động của những đảng phái quốc gia và chính quyền liên hiệp
bắt đầu rạn nứt sau khi ký hiệp định sơ bộ với Pháp vào tháng 6 năm 1946, khi
ông Hồ chấp thuận để 15 ngàn quân Pháp ra Bắc thay thế 10 ngàn quân Tưởng Giới
Thạch rút về nước.
Và từ tháng 7 năm 1946, lấy cớ điều tra có người dự tính
ném bom vào đoàn diễn hành Pháp nhân ngày Quốc khánh Pháp (14/7), công an CSVN
đã tung chiến dịch lục soát các cơ sở của các đảng phái quốc gia và công bố một
số tài liệu, vũ khí cáo buộc rằng hai đảng Việt Quốc và Việt Cách có âm mưu vũ
trang lật đổ chính quyền liên hiệp. Trước sự trấn áp thô bạo của lực lượng
CSVN, ông Nguyễn Hải Thần lãnh đạo Việt Cách và các thành viên của Việt Quốc,
Việt Cách trong đó có có hai nhân sự trong chính quyền liên hiệp là ông Nguyễn
Tường Tam, Vũ
Hồng Khanh phải chạy lánh nạn sang Trung Quốc. Hợp tác
giữa CSVN với các đảng phái quốc gia chấm dứt từ đó và mở ra một trang sử đen
tối khi CSVN càn quét và tiêu diệt những ai không theo chủ nghĩa cộng sản.
Bài học thứ hai là cuộc Hội đàm Paris để chấm dứt chiến tranh
và lập lại Hòa Bình tại Việt Nam giữa bốn bên gồm Việt Nam Cộng Hòa (Chính
quyền Miền Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Chính quyền Miền Bắc), Chính quyền
Hoa Kỳ, Mặt trận giải phóng Miền Nam. Cuộc hội đàm kéo dài từ tháng 5 năm 1968
đến tháng 1 năm 1973 với sự ra đời của Hiệp định Paris vào ngày 23 tháng 1 năm
1973, dựa trên nền tảng: “các nước tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam như được công nhận bởi Hiệp định Genèva ra đời vào tháng
7/1954.
Thế nhưng Hiệp định Paris chưa ráo mực thì đầu năm 1975,
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Miền Bắc) đã tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lăng, tấn công quân sự trên toàn lãnh thổ miền Nam và đã tiến chiếm Thủ đô
Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thay vì thực thi chủ trương hòa giải dân
tộc sau chiến tranh như họ tuyên truyền trước đó, lãnh đạo Miền Bắc đã áp dụng
chính sách trả thù tàn ác, đưa hàng trăm ngàn quân cán chính Miền Nam vào các
trại tù tập trung cho chết dần và đẩy gần cả triệu thường dân vô tội lên vùng
rừng thiêng nước độc dưới mỹ từ xây dựng vùng kinh tế mới.
Không chỉ bội ước đối với chính quyền Miền Nam, lãnh đạo
Cộng sản Miền Bắc còn phản bội cả Mặt trận giải phóng miền Nam qua cái gọi là
“hiệp thương Nam Bắc” để xóa sổ toàn bộ bộ phận lãnh đạo Mặt trận và thống trị
cả nước từ tháng 1/1977. Vô số chiến sĩ, cán bộ, đảng viên cộng sản từ cả miền
Nam lẫn miền Bắc đột nhiên bừng tỉnh, thấy mình bị lừa.
Từ hai kinh nghiệm lịch sử đó, những ai đang ráng dùng mỹ
từ “đấu tranh đối thoại” thì chỉ hoặc đang ngụy biện để che đậy những ý đồ nào
khác, hoặc đang tự lừa dối chính mình mà thôi, thưa anh.
PV: Việc ông Nguyễn Thanh Sơn đi gặp gỡ kín đáo một số người trong cộng đồng
chỉ là những bước thăm dò. Tuy nhiên theo ông thì chúng ta (các đảng phái không
cộng sản và nhân dân Việt Nam) có nên chọn giải pháp đối thoại với chính quyền
Cộng sản Việt Nam?
LTH: Trong đấu tranh bất bạo động, có đối thoại hay thương lượng chứ. Nhưng
chỉ có thể là loại đối thoại như để tạm án binh bất động mọi phía hầu có thể di
tản những người dân bị thương vì bạo lực của công an; hay như để những cá nhân
muốn từ giã lực lượng độc tài có đường rút lui mà không bị người dân truy đuổi,
hay ngay cả như thương lượng để một thiểu số lãnh đạo độc tài chạy ra nước
ngoài, hóa giải lực lượng bảo vệ chế độ và nhờ đó tránh đổ máu cho dân chúng,
v.v...
Nhưng không thể nào là loại đối thoại để tiếp tục kéo dài
sự tồn tại của một chế độ độc tài. Kinh nghiệm đấu tranh bất bạo động của nhiều
dân tộc cho thấy -- và có lẽ càng đúng trong trường hợp Việt Nam hiện nay -- là
đối thoại với chế độ độc tài gần như luôn luôn là cái bẫy nguy hiểm cho lực
lượng dân chủ và có hại cho quốc gia. Chúng ta có thể tạm liệt kê một vài ý đồ
như:
- Để biết hết nhân sự và nguồn lực của lực lượng dân chủ
rồi phá hoại, hay ngay cả thủ tiêu nhân sự.
- Để tạo phân hóa trong hàng ngũ dân chủ bằng cách mặc cả
riêng với từng thành phần dân chủ, hay tạo ấn tượng đang liên kết với thành
phần dân chủ này để cô lập thành phần kia.
- Để bòn rút tối đa tài sản đất nước và đổ tội cho các
lực lượng dân chủ trước khi trốn chạy.
- Để kéo dài thời gian rối loạn và biện minh cho việc trở
lại độc tài để “ổn định xã hội” như đang thấy tại Nga hiện nay.
Do đó trong phản kháng chính trị, yếu tố chính tạo ra
những thay đổi xã hội là lực lượng dân chủ phải kiên định mục tiêu đấu tranh
giành lại tự do dân chủ thật sự và chấm dứt nạn độc tài độc đảng, chứ không
phải là những cuộc đối thoại trên bàn hội nghị, vì nó chỉ giúp cho chế độ độc
tài tiếp tục tồn tại với một vài hứa hẹn thay đổi nào đó.
PV: Miến Điện đã có những thay đổi rất ngoạn mục trong hơn một năm vừa qua.
Ông nghĩ gì về cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Thein Sien và bà Aung San Suu Kyu
của Miến Điện?
LTH: Khi lên làm Tổng thống vào tháng 3 năm 2011, ông Thein Sein đã đối diện
với 2 trong nhiều vấn đề đe dọa đến sinh mệnh chính trị của ông và nước Miến.
Thứ nhất là Trung Quốc đã không chỉ khống chế mọi mặt
kinh tế, quân sự, thương mại tại Miến mà còn đang giúp vũ khí cho hai sắc tộc
người Kachin và người Shang chống lại quân đội Miến để đòi độc lập, tách ra
khỏi liên bang Miến.
Thứ hai là Hoa Kỳ và quốc gia Phương Tây không chỉ cấm
vận kinh tế, phong tỏa ngoại giao nước Miến mà con ra lệnh phong tỏa toàn bộ
tài sản, trương mục ngân hàng của hơn 5 ngàn tướng lãnh, nhân viên cao cấp của
chính quyền Miến kể cả gia đỉnh ông Thein Sein tại hải ngoại.
Muốn tháo gỡ hai đe dọa nói trên, ông Thein Sein phải tự
chấm dứt sự lệ thuộc vào Bắc Kinh và phải chấp nhận sự tồn tại của bà Aung San
Suu Kyu và lực lượng đối lập thì mới bãi bỏ các cấm vận kinh tế từ phía thế
giới tự do.
Từ tháng 5 năm 2011, Tổng thống Thein Sein đã cho đại
diện của ông là Bộ trưởng bộ lao động U Aung tiếp xúc riêng với bà Aung San Suu
Kyu để dàn xếp một cuộc đối thoại với Tổng thống Thein Sien dựa trên 4 điểm căn
bản : 1/
Cùng nhau nỗ lực vì hoà bình, ổn định và phát triển của đất nước theo nguyện
vọng của nhân dân; 2/
Hợp tác vì phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng hệ thống dân chủ; 3/ Tránh đưa ra các
quan điểm xung đột, nỗ lực hợp tác trên cơ sở cùng có lợi; 4/ Tiếp tục thúc đẩy
đối thoại.
Ngày 19 tháng 8 năm 2011, cuộc đối thoại chính thức giữa
Tổng Thống Thein Sein và bà Aung San Suu Kyu lãnh đạo Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân
Chủ đã diễn ra tại dinh Tổng thống. Trong cuộc đối thoại này, Tổng thống Thein
Sein đã hứa sẽ trả tự do khoảng 6.000 tù nhân lương tâm qua nhiều đợt, bãi bỏ
kiểm duyệt báo chí và ngôn luận, chấp nhận sự hoạt động của Liên Đoàn Quốc Gia
Vì Dân Chủ vốn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ngược lại ông Thein Sein kêu gọi
bà Aung San Suu Kyu hợp tác với chính quyền Miến bằng cách kêu gọi các quốc
gia, nhất là Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận kinh tế và phong tỏa ngoại giao.
Mấu chốt của cuộc đối thoại giữa Tổng thống Thein Sein và
bà Aung San Suu Kyu là đã đặt quyền lợi của quốc gia và sự tự do, dân chủ và
hạnh phúc của dân tộc Miến lên trên quyền lợi của phe nhóm riêng và đã vượt qua
những xung khắc chính trị của quá khứ. Kết quả của cuộc đối thoại này đã mở ra
một viễn cảnh rất tươi sáng cho Miến Điện hiện nay mà cả thế giới ai cũng nức
lòng ngưỡng mộ về sự sáng suốt của Tổng Thống Thein Sein và sự dũng cảm của bà
Aung San Suu Kyu.
PV: Nếu đảng cộng sản Việt Nam tuyên bố công khai đối thoại với các đảng phải
thì điều kiện cần thiết họ phải làm trước khi đối thoại là gì, trên quan điểm
của Việt Tân, thưa Ông?
LTH: Thưa anh, hiện tại thì tôi không nhìn thấy bất cứ dấu hiệu gì là nhà cầm
quyền CSVN sẽ chấp nhận một cuộc đối thoại như Tổng thống Thein Sein đã thực
hiện cùng với bà Aung San Suu Kyu vì họ vẫn tiếp tục coi những lực lượng chính
trị khác với đảng Cộng sản Việt Nam đều là các nhóm phản động và coi đa nguyên
đa đảng là nguyên nhân của hỗn loạn và bất ổn xã hội.
CỨ TẠM THEO CHỮ NẾU trong câu hỏi của anh, một ngày nào
đó, đảng Cộng sản Việt Nam tự dưng đổi đời tuyên bố công khai đối thoại với các
đảng phái khác như anh đề cập, thì điều kiện tối thiểu CSVN cần phải tỏ thiện
chí trong tình trạng nguy ngập hiện nay của đất nước là:
1/ Ngưng ngay các hành vi bán nước quá nguy hiểm hiện
nay. Ngưng ngay việc tiếp tay với Bắc Kinh bịt mắt dân tộc Việt Nam về mối quan
hệ hữu hảo không hề có.
2/ Thả hết những tù nhân lương tâm, những nhà yêu nước
đang bị giam giữ một cách phi lý và phi nhân trong suốt mấy thập niên vừa qua.
3/ Trực tiếp đối thoại TRƯỚC HẾT với giới trí thức, các
nhà dân chủ, các nhà yêu nước ngay tại quốc nội một cách nghiêm túc. Các đảng
viên Việt Tân chúng tôi trong nước sẽ cùng đứng với các nhà yêu nước trong giai
đoạn thử thách cam go đó.
4/ Từng bước bỏ các điều luật đang xiềng xích đất nước
như điều 4 Hiến pháp, điều 79, điều 84, điều 88 luật hình sự, v.v.
Tóm tắt là nền tảng căn bản của đối thoại - nếu phép lạ
Miến Điện xảy ra - KHÔNG phải là tìm cách để độc tài cộng sản tiếp tục cai trị
và chỉ nhả ra cho người dân thêm chút quyền. Nhưng mục tiêu phải là đặt nền
tảng để chuyển sang thể chế dân chủ thật sự. Thể chế đó không nhằm truy lùng
tiêu diệt người cộng sản, nhưng đảng cộng sản chỉ được phép là một trong những
tập hợp chính trị vận động để được dân tộc chọn và trao cho trách nhiệm lãnh
đạo đất nước trong một khoảng thời gian nhất định. Và dù được chọn hay không,
mọi đảng phái PHẢI hoạt động bên dưới pháp luật quốc gia.
Tôi không nghĩ những điều tối thiểu nêu trên quá tầm tay
của những người cầm quyền hiện nay. Nếu họ tạm ngưng vơ vét một chút thôi và
nghĩ đến tương lai của chính con em của họ, chứ chưa nói gì đến vận mạng của
đất nước, thì đã đủ để họ thấy là nên làm những điều như tôi vửa nêu ra ở trên.
Vì một khi đã mất nước rồi hay dân chúng đã tức nước vỡ bờ rồi thì cái núi tiền
mà họ vơ vét đó để làm gì? Có giữ được không, dù chạy ra nước khác?
PV: Xin cám ơn ông Lý Thái Hùng, Tổng bí thư đảng Việt Tân
Thomas Việt, VRNs
No comments:
Post a Comment