8-12-2012
Tự trọng, nói một cách ngắn gọn nhất, có nghĩa là tôn trọng chính
bản thân mình. Định nghĩa rõ hơn, lòng tự trọng là phẩm chất giúp con người
nhận thức được giá trị của bản thân mình (về năng lực, tính cách, niềm tin...),
trong mối tương quan với các cá thể khác trong xã hội.
Xã hội loài người vốn được cấu trúc theo dạng hợp quần, trong đó
các cá thể luôn có những tác động trực tiếp vào nhau, đôi khi hỗ trợ, đôi khi
đối kháng. Việc nhận thức được giá trị của bản thân, thông qua lòng tự trọng,
giúp các cá thể tồn tại và phát triển vững vàng, vượt qua được các mâu thuẫn
đối kháng thường xuyên nảy sinh trong quá trình sống hợp quần đó. Bên cạnh đó,
lòng tự trọng cũng đóng vai trò như một rào cản đạo đức cơ bản nhất, giúp con
người soi rọi lại giá trị nhân bản của bản thân, và qua đó, mỗi cá thể góp phần
hỗ trợ cho sự sống của các cá thể khác và, nói chung, sự phát triển tốt đẹp của
toàn xã hội.
Trong phạm vi bài viết này, người viết xin được bàn về lòng tự
trọng ở khía cạnh thứ hai, tức là nghiêng về phương diện đạo đức nhiều hơn. Xin
được nói về nó, trước hết, ở phạm vi cá nhân, và sau đó, ở một bình diện khác
cao hơn - bình diện quốc gia.
Điều trước tiên cần xác định là lòng tự trọng là một sản phẩm của
ý thức, và do đó, chỉ có con người mới có lòng tự trọng (vì con người là động
vật duy nhất có ý thức phát triển hoàn chỉnh). Với đặc tính đó, vô hình trung,
lòng tự trọng chính là thước đo giá trị nhân bản của con người, giúp phân biệt
giữa con người và các loài động vật khác. Một lòng tự trọng ít nhiều khiếm
khuyết, hao hụt là dấu hiệu cho thấy sự suy thoái đạo đức đang diễn ra ở một
con người. Và khi một con người (được cho là) hoàn toàn không còn có lòng tự
trọng nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là, giá trị nhân bản của con người đó đã
bị phủ nhận: cá thể đó chỉ còn đơn thuần tồn tại như một động vật. Trong xã hội
loài người, những con người - động vật như thế không thể hòa hợp với các cá thể
khác và chẳng thể có được một đời sống tốt đẹp.
Có một điều mà người viết tự nhận thấy, qua kinh nghiệm sống cá
nhân, là: Ở xã hội của các nước phát triển (như các nước phương Tây), lòng tự
trọng (self-esteem hay self-respect) thường được đề cập đến nhiều hơn (ở
khía cạnh thứ nhất) như là khả năng nhận chân ra được các giá trị hữu dụng của
bản thân, và từ đó, có phương hướng phát triển cá nhân thích hợp. Việc nhận
chân đó, đi kèm với sự phát triển, giúp con người có được niềm tin (trust)
ở chính bản thân mình, và đồng thời, gieo được niềm tin về mình nơi người khác.
Do đó, để lên án một con người nào đó đã những hành động hay hành vi ứng xử vô
đạo đức, đi ngược lại các nguyên tắc đạo lý chung, người ta thường hay nói
"Tôi không tin anh nữa" (I don't trust you any more).
Trong khi đó, ở các nước kém phát triển hơn (như các nước Đông Nam
Á, trong đó có Việt Nam), trong những trường hợp như thế thì chúng ta lại có
thói quen viện dẫn đến lòng tự trọng nhiều hơn, đại khái như: "Bạn còn
lòng tự trọng không mà lại hành xử như thế?"Câu hỏi này vừa như một
lời cáo buộc, phán xét, vừa như một lời nhắc nhở, khiển trách, tùy trường hợp.
Ở đây, dường như chúng ta trông cậy nhiều hơn vào sự tự ý thức (hay vào lương
tâm) của cá nhân người đó. Do đó, khi chúng ta cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng về
ý thức, về lương tâm nơi người đó, thì chúng ta thường buông lời phán quyết
cuối cùng là: "Bạn là một con người hoàn toàn không còn lòng tự trọng
nữa". Sau lời cuối đó, hiếm khi nào chúng ta còn nghĩ, hay nói, hay có
bất cứ một mối liên hệ nào với con người như thế.
Để giải thích cho sự khác biệt đó trong cách phản ứng, tôi cho
rằng nó xuất phát từ sự khác biệt về xã hội. Ở những xã hội văn minh hơn,
thường con người ta mặc nhiên trao niềm tin cho nhau. Con người luôn được mặc
định là vô tội, cho đến khi nào có đầy đủ chứng cớ pháp lý để kết tội. Chính vì
mặc định về niềm tin đó mà khi bị hụt hẫng, cái mà người ta cảm thấy mất mát
chính là niềm tin. Trong khi đó, ở những xã hội kém văn minh hơn, hay những xã
hội mà con người vốn đã chẳng thể tin nhau, thì vấn đề lại không phải là niềm
tin - cái vốn đã không có, mà lại là lương tâm, là ý thức. Họ chỉ còn biết đánh
động vào lương tri con người như một cứu cánh sau cùng. Nói là cứu cánh sau
cùng vì ở những xã hội như thế, thường thì luật pháp cũng khá lỏng lẻo, con
người chẳng dám trông chờ.
Xét cụ thể vào cuộc sống xã hội của người dân Việt, chúng ta dễ
dàng thấy là lòng tự trọng là một khái niệm thật phổ biến, với những đặc thù
rất riêng mang tính dân tộc. Câu hỏi được đặt ra là: Sống như thế nào thì
được xem là tự trọng? Đây là một câu hỏi mở, có rất nhiều đáp án khác nhau,
tùy theo điều mà bạn đang muốn mổ xẻ. Cá nhân tôi xin được trình bày ở đây một
đáp án mang tính khái quát lớn.
Đáp án đó chính là nguyên tắc: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân", dịch ra tiếng Việt là "Những gì mình không muốn, thì đừng làm
cho người khác". Đây là câu nói cổ xưa của Đức Khổng Tử mà rất nhiều người
biết. Riêng tôi đã có dịp đọc nó từ ngày còn rất nhỏ, vì nó được in trên lịch
(ngày) treo tường. Cũng cùng một ý nghĩa như thế, người Mỹ có câu: "Treat
others the way you want to be treated", dịch ra là, muốn người khác
đối xử với mình như thế nào, thì hãy đối xử với họ đúng như thế. Đây là câu nói
mà đa số người Mỹ dùng rất thường xuyên trong đời sống hằng ngày.
Câu nói của Đức Khổng Tử thoạt nghe có vẻ đơn sơ, nhưng lại hàm
chứa một triết lý sống lớn. Nó thể hiện được lòng tự trọng của con người, và
nêu lên được mối tương quan nên có và cần có trong mối liên hệ con người. Hãy
xét xem: Không ai muốn đau khổ hay nghèo khó cả, phải không? Thế thì đừng gây
đau khổ và đừng làm cho người khác đói nghèo. Không ai muốn mình bị xúc phạm
hay thóa mạ cả, phải không? Thế thì đừng bao giờ xúc phạm hay thóa mạ người
khác. Không ai muốn tính mạng mình bị đe dọa, hay mình bị ngược đãi cả, phải
không? Thế thì đừng đe dọa và ngược đãi người khác... Thực hiện đúng nguyên tắc
đó thôi, chúng ta sẽ có được một đời sống tự trọng và xã hội sẽ trở thành một
nơi chốn bình an. Đó là một sự tự trọng đúng nghĩa được dựa trên cơ sở tôn
trọng (quyền lợi, nhân phẩm và tính mạng của) người khác.
Tiếc thay, nguyên tắc nghe dễ thế, mà con người vốn vô minh nên
không phải ai cũng nhớ, cũng làm. Xâm phạm nguyên tắc đó chính là nguyên nhân
lớn nhất làm lòng tự trọng của con người bị tổn hại và phá hủy. Phần lớn con
người đều quên hay không ý thức được mối tương quan giữa mình và các cá thể
khác. Họ chỉ muốn mình tồn tại, phát triển và thịnh vượng, mà không hề màng đến
sự tồn tại, thịnh vượng và phát triển của người khác. Điều đó không chỉ phá
hoại các riềng mối xã hội, mà còn làm cho sự phát triển chung của toàn xã hội
trở nên mất cân đối và chông chênh.
Chúng ta vừa bàn đến lòng tự trọng ở những người dân thường. Bây
giờ hãy xét đến lòng tự trọng ở những con người có chức trách cao hơn - những
con người lãnh đạo xã hội. Nếu lòng tự trọng ở một người dân thường chỉ quan
trọng một, thì ở những người có chức quyền, nó quan trọng và có sức ảnh hưởng
hay tàn phá nhiều lần hơn. Chức quyền càng lớn, sức ảnh hưởng và tàn phá càng
ghê gớm.
Trong học thuyết chính trị của mình cách đây hàng nghìn năm, Đức
Khổng Tử đã có nêu lên những đòi hỏi căn bản của ông về người cầm quyền như
sau: Người cầm quyền nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng
chính gương của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm. Nếu
xét kỹ thì ta sẽ thấy rằng ba cái "nên" mà ông nêu ra đó đều xoay
quanh lòng tự trọng, cũng như xoay quanh nguyên tắc sống tự trọng (cũng của
chính ông) mà chúng ta vừa xét đến ở trên. Theo đó, ta thấy, chung qui, điều
đòi hỏi cơ bản và thiết yếu nhất ở một người cầm quyền chính là lòng tự trọng.
Một người cầm quyền có lòng tự trọng hẳn sẽ biết thương yêu và quan tâm đến
người dân của mình, biết đặt quyền lợi của người dân đen lên trên hết.
Nhìn vào xã hội VN hiện nay, chúng ta thấy điều gì đang diễn ra?
Chúng ta thấy có hàng ngàn dân đen ngày đêm kêu oan cho những mảnh đất, mà họ
cho là gần như bị cướp trắng. (Điều đó nói lên họ đã không được quan tâm và
thương yêu). Chúng ta thấy nạn tham nhũng hoành hành trên diện rộng trên toàn
đất nước, đưa VN xuống hàng thứ 123 trong tổng số 176 quốc gia, trên bảng xếp
hạng tham nhũng thế giới năm nay của tổ chức TI (Transparency International).
(Điều đó cho thấy có nhiều các viên chức cầm quyền đã từ lâu không còn nghĩ đến
việc làm gương cho ai cả). Và rồi, chúng ta thấy dư luận quần chúng đang mải
bàn tán xôn xao về văn hóa... từ chức. (Dân chúng muốn các nhà cầm quyền từ
chức vì họ đã không chịu học cách để tự kỷ luật mình).
Điểm qua những điều đó, và đối chiếu với những đòi hỏi cơ bản của
Đức Khổng Tử về người cầm quyền, chúng ta có thể rút ra một kết luận hoàn toàn
khả tín là: Chúng ta đang có rất nhiều những người cầm quyền không có lòng...
tự trọng. Việc thiếu vắng lòng tự trọng ở các vị này gây một sự ngạc nhiên lớn.
Người ta ngạc nhiên là vì một con người bình thường không có lòng tự trọng đã
là một điều rất đáng xấu hổ. Một người có trách nhiệm lớn với xã hội, với người
dân mà lại không có lòng tự trọng thì chắc hẳn họ không còn biết xấu hổ là gì
nữa. Người dân cứ thế mà cảm thấy bẽ bàng thêm.
Một câu hỏi gây chấn động lớn, xuất phát từ thực trạng đó, chính
là:
Khi một xã hội được cầm quyền bởi một lượng lớn những người không
có lòng tự trọng, thì còn có thể sót lại một khoảng trống nhỏ nhoi nào trong
đời sống xã hội, để lòng tự trọng của người dân có chỗ để sống còn hay không?
Một xã hội mà lòng tự trọng - rào cản đạo đức cơ bản của con người
- không còn có chỗ sống sót thì tương lai của nó sẽ như thế nào là một điều
không khó đoán. Đó là điều mà những người có lòng với dân tộc, với đất nước
chắc hẳn không khỏi phải day dứt với chính mình.
08/12/2012
Jeffrey Thái
No comments:
Post a Comment