Nguyễn Huệ Nghi
Thứ Năm, 11/2/2016, 13:09 (GMT+7)
(TBKTSG
Xuân) - Phía sau sự sắc sảo, đầy tính phản biện trong các phiếm luận văn hóa đề
cập đến tính cách người Việt hiện đại, người đọc nhận thấy ở ông mối ưu tư về sứ
mệnh, đời sống, danh phận người trí thức trong lịch sử lẫn hiện tại. Qua sách
báo, blog, Facebook, những thông điệp của nhà phê bình văn học, phê bình xã hội
tuổi ngoài 70 vẫn đang kiếm sự đồng cảm, chia sẻ của người đọc - trong điều kiện
xã hội đang cần một sự thức tỉnh để thay đổi và phát triển...
TBKTSG:
Trong khoảng 20 năm trở lại đây, từ lĩnh vực chuyên
môn phê bình văn học, ông có sự chuyển hướng sang phê bình văn hóa, phê bình xã
hội. Thưa ông, điều gì đã xảy ra?
-
Ông VƯƠNG TRÍ NHÀN: Sở dĩ tôi chuyển từ phê bình văn học sang phê
bình văn hóa, xã hội là vì muốn có thêm sự tiếp xúc rộng rãi hơn với bạn đọc và
muốn tham gia vào việc tìm hiểu bàn bạc các vấn đề mà cộng đồng đang quan tâm.
Nghiên cứu văn học hiện nay bị hạn chế vì kiến thức các nhà nghiên cứu được
trang bị quá hạn chế, phương pháp được sử dụng quá cũ. Tôi có may mắn không bị
ràng buộc vào một nhiệm vụ cụ thể nào đó, luôn có thời gian rảnh rỗi để lo học
thêm biết thêm. Mà ở thời này các ngành khoa học xã hội đang bùng nổ và có khả
năng giúp cho chúng ta nhìn sâu vào cuộc sống của chính xã hội mình, nên càng
làm bản thân càng thấy bị lôi cuốn.
TBKTSG:
Chỉ nhìn ở phạm vi lịch sử văn hóa Việt Nam, thì
trong mỗi giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi phương thức sống và
hình thái văn hóa nói chung, xáo trộn các giá trị sống thì thường xuất hiện những
lớp học giả tiến bộ với sứ mệnh phản tỉnh xã hội. Ví dụ như hồi cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20 có Mai Viên Đoàn Triển, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn
Vĩnh, muộn hơn, có Phan Khôi với những tác phẩm đăng báo khoảng thập niên
1920-1930, Đào Duy Anh với cuốn Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Nguyễn Văn
Huyên với Văn minh Việt Nam (1944) hay ở đô thị miền Nam những năm 1960-1970,
có cây bút Nhất Thanh - Vũ Văn Khiếu...
-
Ông VƯƠNG TRÍ NHÀN: Cái ý mà anh
nói, đó là “mỗi giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi phương thức sống
và hình thái văn hóa nói chung, xáo trộn các giá trị sống thì thường xuất hiện
những lớp học giả tiến bộ với sứ mệnh phản tỉnh xã hội”, theo tôi thấy thì rất
hiếm có trong xã hội Việt Nam từ thế kỷ 19 về trước. Thời phong kiến ta chỉ có
những trí thức góp phần vào việc quản lý xã hội chứ không có những nhà tư tưởng
lấy việc nghiên cứu về sự phát triển xã hội làm nhiệm vụ. Theo nghĩa ấy khả
năng tự nhận thức của xã hội là rất thấp, sự trì trệ của xã hội là kéo dài.
Tới khi người Pháp xâm lược, và hướng xã hội Việt
Nam vào quỹ đạo phát triển của thế giới, họ mới đưa lịch sử và xã hội ta thành
một đối tượng nghiên cứu. Thừa hưởng thành quả nền giáo dục phương Tây, một lớp
trí thức Việt Nam kiểu mới ra đời. Hồi đó họ rất bị thành kiến. Người ta không
tính cái phần nghiên cứu chủ yếu của họ mà chỉ xem một số đề nghị cụ thể của họ
là có lợi cho người Pháp và khi mà một số người như Phạm Quỳnh tham chính thì họ
bị xóa sạch mọi đóng góp đã có từ trước. Nên nhớ là các nhà trí thức mà bạn vừa
nêu từ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Nhất Linh... đều là những người
mà trước năm 1975 bị coi như người có tội hoặc chí ít là đã không tích cực tham
gia vào công cuộc giành lại độc lập, tác phẩm của họ không hề được đưa vào nhà
trường để giảng dạy cho bọn thanh niên mới lớn chúng tôi. Chỉ trong hoàn cảnh
hiện nay khi đất nước chính thức đặt vấn đề về phát triển, tác phẩm và tư tưởng
của họ mới được khôi phục nhưng sự nghiên cứu và phát triển còn rất hạn chế.
Quá trình tự nhận thức xã hội mà gắn liền với nó là
việc hình thành lớp trí thức mới này diễn ra suốt từ cuối thế kỷ 19 đầu 20.
Ngày nay, qua độ lùi thời gian, khi nhìn nhận lại quá trình hoạt động của Phan
Châu Trinh và Phan Bội Châu, chúng ta thấy có sự khác biệt. Phan Bội Châu từ một
người chủ trương hành động, chỉ sau khi bị bỏ tù thì người chiến sĩ ấy mới trở
thành một trí thức nhưng vai trò trí thức của ông ở giai đoạn 1925-1940 không
được giới sử học ghi nhận. Còn Phan Châu Trinh thì ngay từ đầu đã chú trọng đến
đời sống tinh thần của quốc dân. Ông đặt cuộc giải phóng dân tộc trên nền tảng
của một cuộc cách mạng xã hội, cách mạng văn hóa vì cho rằng, chỉ có qua con đường
đó mới tìm được độc lập thực sự cho dân tộc.
Những quan niệm sáng suốt đó của cụ Tây Hồ được những nhà trí thức đầu thế kỷ 20 ở ta tiếp tục theo đuổi.
Những quan niệm sáng suốt đó của cụ Tây Hồ được những nhà trí thức đầu thế kỷ 20 ở ta tiếp tục theo đuổi.
Trước năm 1945, ngoài danh sách ở trên bạn vừa nói,
tôi còn muốn đặc biệt chú ý đến vai trò quan trọng của những nhà báo, nhà trí
thức của nhóm Thanh Nghị và Tri Tân như Nguyễn Văn Tố, Vũ Đình Hòe, Phan Anh,
Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Văn Hiền, Đinh Gia Trinh hoặc các nhân vật ở
Nam bộ như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh... Trong khi tiếp nhận phương Tây một
cách sáng tạo, họ đã chuẩn bị cho một nước Việt Nam phát triển theo nghĩa hiện
đại.
Ngoài ra, không bao giờ được phép quên Trần Trọng
Kim. Ở Trần Trọng Kim, đôi khi chúng ta chỉ quan tâm tới khía cạnh chính trị mà
bỏ quên sự đóng góp cho văn hóa của ông là rất lớn. Những công trình như hai cuốn
Nho giáo và Việt Nam sử lược của ông đã đóng góp vào tự nhận thức của dân tộc.
Sau nữa - và đây là điều bây giờ chúng ta có thể nói
được rồi - các trí thức ở miền Nam trước năm 1975 cũng có vai trò tiếp nối rất
xứng đáng. Tôi vừa mới mua được một cuốn sách về ngành luật, nó bổ sung cho quan
niệm của tôi về trí thức, đó là cuốn Lịch sử nghề luật sư ở Việt Nam của Phan
Đăng Thanh và Trương Thị Hòa, do Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM xuất bản. Quan niệm
của cuốn sách bộc lộ ngay trong phần bố cục: phần I (84 tr) nói về nghề luật thời
Pháp thuộc, phần II (74 tr) nói về nghề luật thời Quốc gia Việt Nam 1949-1955
và Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975, phần III (98 tr) nói về nghề luật thời Cách mạng.
Nghĩ về đời sống tinh thần của miền Nam trước năm 1975, tôi nhớ tới từ các nhà
giáo trung học cho đến các giáo sư đại học, các chuyên viên nghiên cứu khoa học
xã hội trong đủ các bộ môn bao gồm lịch sử xã hội học, pháp luật kinh tế. Tôi
thường tìm sách của Nguyễn Phương và Cao Văn Luận, Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn
Trung, Thanh Lãng và Nguyễn Hiến Lê, Trần Ngọc Ninh và Vũ Quốc Thúc... Chính họ
đã mở đầu cho việc vận dụng các kinh nghiệm phát triển của Việt Nam trong thế
giới hiện đại mà đến nay với chúng ta còn khá thích hợp.
Với những sự chuẩn bị như thế, dần dần dân tộc đã có
một sự thức tỉnh thực sự, từ đó dẫn tới một sự phát triển theo nghĩa hiện đại.
Có điều lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ 20 là sự lặp lại lịch sử các thế kỷ
trước. Trong chiến tranh, con người mải hành động hơn suy nghĩ, xã hội lo đạt tới
những mục đích trước mắt mà không nghĩ nhiều về chuyện phát triển, và trí thức
cũng được đào tạo theo khuynh hướng đó. Ngày nay, ngay đến quan niệm về phát
triển xã hội còn phải đang bàn bạc chưa ngã ngũ ra sao thì việc đào tạo con người
nói riêng và trí thức nói chung xoay xở sao kịp.
TBKTSG:
Sự trì trệ của xã hội Việt Nam thời phong kiến, mà
như ông vừa nói, biểu hiện rõ là sự thiếu vắng một tầng lớp trí thức cơ bản và
việc không đào tạo được những nhân vật lớn có vai trò mở đường về tư tưởng,
theo ông xuất phát từ đâu?
-
Ông VƯƠNG TRÍ NHÀN: Như trên vừa nói, trong suốt thời phong kiến,
từ khi Đinh Bộ Lĩnh, Ngô Quyền giành độc lập cho tới nhà Nguyễn là một sự trì
trệ kéo dài, không có chuyển biến nào đáng kể, chưa hề có sự thức tỉnh bao giờ,
chỉ có chuyện đám người này lên, đám người kia xuống, rồi “được làm vua thua
làm giặc” ai thắng sẽ được công nhận, cứ xem sự tiếp nối từ nhà Lý sang nhà Trần
là đủ thấy rõ.
TBKTSG:
Điều gì đã xảy ra trong một xã hội mà con người chỉ lo “tồn tại”?
-
Ông VƯƠNG TRÍ NHÀN: Là người ta không nghĩ tới sự phát triển. Sau
cái công thức bao quát ấy là hàng loạt hậu quả khác. Chiến tranh qua đi, tiếp
theo là những thời kỳ hậu chiến tăm tối, con người quá mệt mỏi nên chỉ lo hưởng
thụ, rồi là lo đền ơn đáp nghĩa. Người ta không tính chuyện sống khác đi mà chỉ
bằng lòng được sống như cũ.
Nếu bảo rằng mỗi xã hội tồn tại được đều có nền văn hóa của mình thì phải nói thêm đó là thứ văn hóa để tồn tại chứ không phải văn hóa để phát triển.
Nếu bảo rằng mỗi xã hội tồn tại được đều có nền văn hóa của mình thì phải nói thêm đó là thứ văn hóa để tồn tại chứ không phải văn hóa để phát triển.
Ngay từ thời trung đại, một cộng đồng muốn tồn tại
cũng phải có những hồn cốt và những thiết chế văn hóa của mình. Nhưng trong điều
kiện Việt Nam, ta chỉ cần giữ được nền văn hóa cổ truyền trong việc tổ chức
làng xã cộng với sự vay mượn ở mức tối thiểu những kinh nghiệm tổ chức quốc gia
ở nước láng giềng phương Bắc là đã đủ để tồn tại như cái mức chúng ta đã thấy.
Tiếp tục câu chuyện về xã hội chỉ lo tồn tại. Khi sự
suy nghĩ bị hạn chế ở mức đơn giản nhất thì người ta không nghĩ tới chuyện tự
nhận thức mình, không đặt ra những câu hỏi “mình là gì, thế giới này là gì”,
“mình sẽ sống sao trong thế giới này”. Quan hệ với các dân tộc khác cũng rất khó
khăn. Thấy kẻ khác từ nơi xa tới liền như kẻ thù, không cần tiếp thu và học ai
khác, hoặc có học thì cũng chỉ lo học lỏm học mót, rồi liệu mà sống với nhau. Hệ
quả là chúng ta rất khó phát triển theo cái nghĩa mà cả thế giới người ta vẫn
hiểu.
Trong một xã hội như thế, giới ưu tú không thể phát
triển, cái giới ưu tú ấy nếu có cũng còi cọc và luôn bị phá vỡ cấu trúc. Đến lượt
nó, sự phát triển kém cỏi của giới trí thức lại làm cho cộng đồng cứ trì trệ
mãi.
Do những khó khăn của thực tại, mối quan hệ giữa tình trạng yếu kém của giới trí thức với những khó khăn về phát triển trong quá khứ ngày nay cũng đang lặp lại. Trí thức ngày nay không bước qua được sự giằng níu của áo cơm và đám đông hỗn độn. Anh ta không đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần để suy tư về sự tồn tại, về trời đất, về các vấn đề nhân sinh, sự phát triển xã hội để kéo xã hội đi lên.
Do những khó khăn của thực tại, mối quan hệ giữa tình trạng yếu kém của giới trí thức với những khó khăn về phát triển trong quá khứ ngày nay cũng đang lặp lại. Trí thức ngày nay không bước qua được sự giằng níu của áo cơm và đám đông hỗn độn. Anh ta không đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần để suy tư về sự tồn tại, về trời đất, về các vấn đề nhân sinh, sự phát triển xã hội để kéo xã hội đi lên.
TBKTSG:
Nếu nhìn rộng ra cộng đồng, hành trang phát triển của
người Việt trong thời toàn cầu hóa cần thêm vào một thứ gì đó và bớt đi một thứ
gì đó, thì theo ông, đó là những gì?
-
Ông VƯƠNG TRÍ NHÀN: Trước khi bắt tay hành động, cần đề cao sự
suy tư, và khuyến khích những tìm tòi đời sống tinh thần. Trên con đường khó
khăn của sự tự nhận thức nghiêm chỉnh, cần từ bỏ cái tự kỷ trung tâm luận, từ bỏ
cái thói quen bằng lòng một đời sống đơn giản, tự phát thấp kém mà bấy lâu
chúng ta cố khoác lên nó cái áo đôn hậu, tự nhiên. Và chúng ta cần thay đổi hẳn
quan niệm về văn hóa. Văn hóa không phải là cờ đèn kèn trống, lễ hội, ngắm
nghía thưởng ngoạn mà là chỉnh đốn cách quản lý quốc gia, truy vấn về hồn cốt,
lối sống, lối nghĩ của chúng ta để thay đổi. Chúng ta đã nghĩ sai, nghĩ phiến
diện về văn hóa và hành xử sai với văn hóa quá lâu rồi.
TBKTSG:
Thế còn giới trí thức? Nhìn sang Fukuzawa Yukichi
(nhà khai minh Nhật Bản, tác giả của cuốn Khuyến học) hay mới đây là Bá Dương
(học giả Trung Quốc, tác giả Người Trung Hoa xấu lậu)... có thể thấy vai trò của
trí thức trong phản tư, phản biện văn hóa, phong tục, tâm tính cộng đồng là rất
lớn, có khi nhờ đó mà khai sáng, thay đổi cả vận mệnh một dân tộc. Làm sao để
người trí thức Việt Nam cũng có được vai trò đó?
-
Ông VƯƠNG TRÍ NHÀN: Chỉ có thể phát triển nếu biết tự phê phán,
cái mà chúng ta mong muốn xem như tinh thần chung chi phối cả xã hội thì cũng
phải được xem như yêu cầu với chính mình. Tác động của chúng ta tới cộng đồng
không phải thu hẹp lại ở những tô vẽ theo đuôi mà phải thực sự đóng vai người mở
đường về tư tưởng. Tiếp sau quá trình tự nhận thức để nhận ra những hạn chế, việc
tìm cách tự đào tạo lại chắc chắn sẽ mở ra nhiều thách thức nhưng cũng mang lại
cho người trí thức niềm tự hào sâu xa: chúng ta phải trở thành những người có
ích.
---------------------------
Trình độ trí thức xã hội chủ nghĩa đến như Vương Trí
Nhàn chịu khó học hỏi mà còn thiếu sót vụng về như thế này thì lấy đâu người ra
lãnh đạo đất nước?
Mời
đọc bài viết :
No comments:
Post a Comment