Le Monde
Phạm
Trọng Tri dịch
Thứ Năm, 11-2-2016
Phóng
viên Michel Lefebvre của Le Monde phỏng vấn hai sử gia Mĩ,
Jane Burbank và Frederick Cooper, về sự chìm nổi của các thực thể chính trị có
tênĐế quốc (Empire).
Michel
Lefebvre (Le Monde): Các ông đã làm việc rất lâu về các đế quốc để viết cuốn Đế quốc, từ Trung Hoa cổ đại cho tới ngày
nay, do Payot ấn hành năm 2011[i]. Các ông có thể
cho biết một đế quốc thường được hình thành như thế nào?
Frederick
Cooper : Quan hệ giữa các thực thể chính trị ít khi đối xứng.
Khi một nhóm xã hội này mạnh hơn một nhóm khác, điều này sẽ tạo ra một trạng
thái bất ổn có thể gây ra một tình trạng bất bình đẳng gia tăng về chính trị. Sẽ
có một vài cộng đồng có một số lợi thế so với các cộng đồng khác về: sự gần gũi
các huyết mạch thương mại, một khả năng sinh sản nhiều hơn một chút hoặc một
lãnh đạo quyến rũ. Họ bắt đầu tìm kiếm các đồng minh, thông qua hôn nhân chẳng
hạn, và như thế họ khởi sự một công cuộc mở rộng quyền lực. Nếu, như hầu hết mọi
nơi trên thế giới, đó là các xã hội đa nguyên, không chỉ chấp nhận một nền văn
hóa, người ta sẽ bắt tay vào việc tạo ra các cấu trúc đế quốc. Đó là các cấu
trúc quyền lực có tính bất đối xứng và bành trướng nhằm duy trì một sự phân biệt
nào đó giữa các dân tộc đã bị nhập vào trong hệ thống.
Le
Monde: Trong cuốn
sách có một so sánh có tính phát hiện về Trung Hoa và La Mã. Các ông có thể cho
biết tóm tắt các khác biệt giữa hai đế quốc này, một ở châu Á, một ở
phương Tây?
Jane
Burbank : Có một thời điểm hết sức quan trọng khi La Mã quyết
định trao quyền công dân cho các thần dân không phải người La Mã. Đó là sự kiện
có tầm vóc lịch sử vĩ đại cho toàn bộ thế giới. Trung Hoa chưa bao giờ làm điều
đó vì nó được xây dựng trên những nguyên lý khác hẳn. Chủ quyền là một thuộc
tính của hoàng đế, kẻ cai trị thông qua sự trợ giúp của nhóm cận thần. Và trong
lịch sử đế quốc của Trung Hoa không có ý tưởng đó, ý tưởng mà chúng
ta cho là “phương Tây”, mở rộng quyền lực cho các công dân.
Frederick
Cooper : Tuyên bố của Caracalla[ii] năm 212
đã mở rộng quyền công dân cho tất cả mọi cá nhân tự do thuộc sự quản lý của đế quốc,
không bao gồm nô lệ và phụ nữ. Trước khi có tuyên bố này, vẫn có thể đạt được
tư cách công dân nhưng khó khăn hơn. Trong các vùng bị chinh phục, để trở thành
công dân La Mã, các thần dân nơi đó phải học tiếng La Tinh, hội nhập văn hóa La
Mã và xây dựng quan hệ với giới chức La Mã.
Le
Monde: Như thế,
Trung Hoa đã đi theo một con đường rất khác, vậy điều gì là đặc biệt?
Jane
Burbank : Ở Trung Hoa, tham vọng đế quốc chưa bao
giờ vắng bóng ngay cả lúc đất nước không do một dòng tộc nào khống chế trong
nhiều thế kỉ. Hoàng đế là người đảm bảo hòa bình, định ra luật pháp, bảo đảm trật
tự. Một nét đặc biệt khác ở Trung Hoa là thiết chế quan liêu-hành chính
(bureaucratie) được hình thành trước rất lâu so với các nơi khác. Trở thành
quan viên, nghĩa là thành người phục vụ hoàng đế, đã là một tham vọng của giới
tinh hoa. Nhưng đối với hoàng đế, hệ thống hành chính là một phương tiện để kiểm
soát quyền lực địa phương và để tạo ra giới quí tộc. Người Trung Hoa đã sáng chế
ra sự kiểm soát bằng hệ thống quan liêu, bởi thế họ đã cai trị thành công các
vùng đất rất trù phú trong thời gian dài.
Le
Monde: La Mã, thông
qua việc trao quyền công dân cho các dân tộc bị chinh phục, đã sáng tạo ra một
ý niệm về chủ quyền[iii] có
tính đặc trưng cho phương Tây; các đế quốc khác, từ Mông Cổ cho tới Abbasside[iv], đã thu nhập
nhiều dân tộc có các phong tục và tôn giáo khác nhau nhưng lại bằng một cách
khác…
Jane
Burbank : Chúng ta có thể nhớ đến một loạt các đế quốc
“Á-Âu” được xây dựng dựa trên các văn hóa cai trị của các nhóm người du cư ở
vùng hoang nguyên (Con đường Tơ lụa). Đối với người Mông Cổ hoặc người
Thổ của châu Á, hoàng đế là hoàng đế của tất cả mọi người nhưng ông ta lại trao
nhiều quyền cho giới tinh hoa địa phương và chấp nhận các tôn giáo khác nhau.
Tính đa dạng tạo nên sự vĩ đại cho hoàng đế. Ngay cả khi đang thôn tính các đô
thị ở trung Á, người Mông Cổ tránh đụng tới các giáo sỹ địa phương và giới thợ.
Đối với các nhà chinh phục Mông Cổ, những người đó là những nhân vật hết sức hữu
dụng. Còn khi đế quốc La Mã bị Cơ đốc hóa thì tôn giáo lại trở thành một bộ phận
của văn hóa đế quốc, gây khó khăn cho sự tồn tại công khai của các tôn giáo
khác. Nhưng dưới con mắt của người Mông Cổ, người Nga, người Ottoman, sự đa dạng
về dân tộc trong đế quốc là điều tự nhiên và có lợi.
Le
Monde: Đó cũng đúng
với các đế quốc Omeyyade[v] và
Abbasside?
Frederick
Cooper : Các đế quốc Hồi giáo đã được sinh ra bên cạnh các
đế quốc khác, đế quốc Byzantin và đế quốc Ba Tư. Đầu tiên, họ còn ở cách khá xa
trung tâm quyền lực của các đại cường đó, điều này cho phép họ củng cố quyền lực
trước khi đối đầu với những đế quốc cổ xưa hơn và hùng mạnh hơn họ trên phương
diện quân sự. Thời kỳ lúc các caliphat[vi] tự hình
thành và phát triển sau khi Mahomet qua đời, ban đầu họ chỉ là một nhóm tinh
hoa rất giới hạn, hoàn toàn là người Ả Rập và tạo lập quanh một vài bộ tộc
trong vùng. Nhưng họ đã đạt được sự bành trướng rất nhanh và không phải quá vất
vả trong việc cải giáo các dân tộc bị chinh phục. Caliphat của Omeyyade đã sử dụng
một số cấu trúc của Byzantin để cai trị một số vùng trong đế quốc của mình.
Nhưng sau này, chính sách đó đã thay đổi do nhiều người tự cải sang Hồi giáo và
các caliphat đã triển khai nhiều phương thức cai trị phức tạp hơn. Khi caliphat
Omeyyade bị thay bằng caliphat của Abbasside vào năm 750 thì nảy sinh ra vấn đề
làm thế nào để cai quản được một cấu trúc quá rộng và quá đa dạng. Đầu tiên, họ
sử dụng người Ả Rập – những người thuộc dân tộc sáng lập đế quốc -, sau đó, với
thời gian và nhiều thành công, họ làm theo chiều ngược lại. Ví dụ, để có các nô
bộc trung thành, họ dùng những đàn ông trẻ tuổi không phải Ả Rập cũng không phải
Hồi giáo nhưng phải trở thành những người lệ thuộc hoàn toàn, bị cải thành Hồi
giáo và đào tạo thành các viên quản lý cho caliphat. Đó là một biến thể của giới
quan lại Trung Hoa, nhưng khác biệt ở chỗ con người có nguồn cội riêng biệt trước
đó trở thành lệ thuộc tuyệt đối vào caliphat.
Le
Monde: Chúng ta vừa
nói về các đế quốc Trung Hoa, La Mã và Hồi giáo, chúng đã biến đổi ra sao, có
buộc phải biến mất hay tự tái sinh không?
Jane
Burbank : Để tiếp tục tồn tại, các đế quốc đều phải điều chỉnh
các chính sách để đối phó với các thách thức mới. La Mã ban đầu là một nước cộng
hòa, sau đó là principat[vii] và,
với thời gian, đã trở thành một đế quốc Cơ đốc. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh,
đó là chính sách của đế quốc thường rất linh hoạt, rất năng động. Một đế quốc
có thể mất một phần lãnh thổ nhưng không để mất tất, đó là trường hợp đế quốc
Anh. Vào cuối thế kỉ XVIII, nó phải nhả các thuộc địa tại Bắc Mĩ nhưng vẫn giữ
được các sở hữu ở vùng Ca Ri Bê cho tới tận những năm 1960. Những nơi đó cho sản
lợi nhiều hơn các vùng ở Bắc Mĩ. Hơn nữa, Đại Anh quốc vẫn còn cả bán đảo Ấn Độ.
Le
Monde: Nếu nhìn lại
thế kỉ XVII, những đại cường nằm ở đâu?
Jane
Burbank J.B.: Thay vì xếp các đế quốc thành tiền hiện đại hoặc
hiện đại, chúng ta sẽ thấy thú vị hơn nếu tìm hiểu sự cạnh tranh giữa các đế quốc
qua chiều thời gian và không gian. Vào thế kỉ XVI, đầu tiên ta có Đế quốc
Ottoman[viii].
Kẻ thù chính của Charles Quint[ix] chính là
Soliman Xa hoa[x]. Người
Ottoman đã đoạt được một phần lớn Đế quốc La Mã và có một vị thế rất lớn trong
nền kinh tế toàn cầu lúc đó. Họ là những người quyền thế ở khu vực Địa Trung Hải,
ở một phần châu Âu và có nhiều lợi thế để hướng về phương Đông, đối mặt với
Trung Hoa - một nơi giàu có của thế giới. Người Ottoman đã biết nhiều cách để
cai quản các lãnh thổ của họ. Như chúng ta đã đề cập, họ biết biến nô lệ thành
các viên quản lý cao cấp. Đồng thời họ còn tạo ra một hệ thống hậu duệ triều đại
hết sức đặc biệt. Đó là những người được sinh ra chỉ từ hoàng đế với các bạn
tình không giá thú để tránh được các vấn đề liên đới tới các quyền lợi hôn nhân
trong giới quí tộc. Như vậy, vào thế kỉ XVI, chúng ta có các đế quốc hùng mạnh
Ottoman, Habsbourg[xi] và
Trung Hoa thuộc nhà Minh và sau đó là Thanh, hai triều đại đã thống nhất Trung
Hoa.
Le
Monde: Chúng ta đã
đến từ bờ bên kia của Đại Tây Dương vào năm 1492. Các ông giải thích thế nào về
việc Hoa Kì đã được sinh ra từ phong trào chống chế độ thực dân Anh rồi chính họ
lại trở thành một đế quốc thực dân?
Frederick
Cooper : Hoa Kì đã hiện ra từ một cuộc nổi loạn chống lại một
đế quốc và cuộc cách mạng đó đã được hỗ trợ bởi một đế quốc kẻ thù của Anh, đó
là Pháp. Ở châu Mĩ lúc đó còn một đế quốc thứ ba rất mạnh, đó là đế quốc Tây
Ban Nha. Các nhà lập quốc Hoa Kì đã có ý thức rất sâu về các rủi ro phải sống
trong một thế giới gồm nhiều đế quốc hùng mạnh; đó chính là lý do tại sao 13
thuộc địa đã quyết định không tạo thành 13 Nhà nước-dân tộc mà cùng liên kết tạo
thành một liên hiệp để có thể sống sót trong một không gian đầy các đế quốc.
Thomas Jefferson đã bảo vệ ý niệm “đế quốc tự do”. Nhưng ông chưa bao giờ nghĩ
tới sự tự do đó cũng dành cho người nô lệ và người bản địa Indien. Đó là đế quốc
tự do dành cho người Âu-Mĩ. Khái niệm đó có tính nền tảng đối với họ. Người Mĩ,
người Âu, người da trắng tự cho họ quyền bành trướng lãnh thổ của họ, đó là cái
chúng ta gọi là Định mệnh Khai hóa(Manifest Destiny)[xii].
Le
Monde: Chúng ta
đang sống trong một hệ thống chính trị còn rất mới, Nhà nước-dân tộc, trong khi
các đế quốc đã có một lịch sử rất dài lâu. Một số đế quốc cổ xưa đã có những
phương cách chúng ta có thể gọi là các sách lược đế quốc. Liệu các sách lược
này có đe dọa các Nhà nước-dân tộc?
Jane
Burbank : Đã có những trường hợp khá rõ ràng, như nước Nga.
Đó là một ví dụ tốt cho thấy một đế quốc có những biến chuyển gây mất hẳn một số
nguyên tắc trong suốt thế kỉ XX. Đế quốc Nga, như nó tự xưng một cách chính thức,
đã bị thay thế bằng Liên Xô. Người cộng sản đã tìm được một công thức để quản
lý sự đa dạng về sắc tộc – thậm chí cả về dân tộc – bằng một cách thức khá hiệu
quả trong suốt 74 năm tồn tại của chế độ của họ thông qua việc tạo ra một liên
hiệp các dân tộc khác nhau. Chúng ta có thể thấy lại trong đế quốc đó nguyên tắc
cai trị của người Mông Cổ hoặc Á-Âu – tư duy thu nhận các dân tộc khác nhau vào
một thực thể chính trị minh thị thừa nhận tính chất tạp chủng. Ngày nay, Nga vẫn
còn là một liên bang và vẫn thành công trong việc tạo dựng một thực thể chính
trị với nhiều tôn giáo và nhiều dân tộc khác nhau. Liên bang Nga hiện đang cố
giành lại các lãnh thổ đã có ở “Đế quốc Xô Viết” cũ.
Frederick
Cooper : Vấn đề dân tộc đã được đặt ra vào thế kỉ XIX.
Nhưng khái niệm này liệu đã có tính quyết định cho chính trị chưa? Thế giới vẫn
còn là thế giới của các đế quốc trong suốt thế kỉ XIX và ít nhất kéo dài cho tới
giữa thế kỉ XX. Khái niệm thế giới gồm các Nhà nước-dân tộc, trong đó mỗi thành
viên là một thực thể pháp lí tương đương với mỗi thành viên khác, là một khái
niệm khá mới. Vào đầu thế kỉ XX, toàn thế giới có chưa tới 10 đại cường, tất cả
đều có cấu trúc phức hợp và đa dạng, tất cả đều cạnh tranh với nhau. Trong nội
bộ nhiều đế quốc lớn còn có các kình địch về dân tộc tính. Trong Đế quốc
Áo-Hung, các kình địch đó ít nhiều đã được quản lí. Trong Đế quốc Đức, thực thể
được hình thành vào cuối thế kỉ XIX, còn có các vùng trực thuộc nói tiếng Đan Mạch,
Ba Lan, Pháp, Yiddish[xiii] và
gồm nhiều thuộc địa hải ngoại tại châu Phi, Đông Á, Thái Bình Dương. Đó là một
cấu trúc rất phức tạp. Đầu thế kỉ XIX, Đế quốc Ottoman bị suy yếu nhiều so với
trước mặc dù vẫn rất rộng lớn và nằm ở ngay vị trí chiến lược. Đế quốc Anh có
nhiều thuộc địa, nhiều vùng bảo hộ và các dominion[xiv] được
quản lí bằng phương cách rất khác, trong đó chính quyền Anh phải dùng giới tinh
hoa địa phương.
Thế chiến đầu tiên là cuộc chiến giữa các đế quốc,
không phải giữa các dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc đã lớn lên qua cuộc chiến này.
Nhưng sự kết thúc chiến tranh lại làm gia tăng quyền lực cho các đế quốc chiến
thắng và phá tan các đế quốc bại trận; sự tái định hình này đã gây ra bất ổn
trong nội tại cựu Đế quốc Áo và cựu Đế quốc Ottoman. Chính trong bối cảnh đó đã
nảy ra một đế quốc mới – Quốc xã (nazi). Với quan điểm phân biệt chủng tộc, nó
bắt đầu gây chiến chống lại các đế quốc khác, là Pháp, Anh, Xô Viết và Mĩ - những
thực thể, rốt cuộc, đã chiến thắng vì biết thu nhận các dân tộc thay vì tiêu diệt
họ.
Le
Monde: Một phương
diện khác của đế quốc, đó là khái niệm chủ nghĩa đế quốc do John Hobson, nhà nghiên cứu Anh, đề xuất,
sau đó được Lê Nin dùng lại. Chủ nghĩa đế quốc về kinh tế vận hành như thế nào?
Frederick
Cooper : Khái niệm chủ nghĩa đế quốc thị trường – là nhan đề
của một bài báo, The Imperialism of Free Trade (chủ nghĩa đế
quốc của tự do thương mại) – đã được hai sử gia, John Gallagher và Ronald
Robinson, sử dụng cách đây hơn nửa thế kỉ. Đối với họ, thời điểm quan trọng là
đầu thế kỉ XX, khi Đại Anh quốc trở thành một siêu cường kinh tế sau khi
Napoléon thất thế và Đế quốc Tây Ban Nha bị tan rã ở Nam Mĩ. Anh là nước duy nhất
có năng lực hàng hải khống chế các đại dương. Ý tưởng của các chiến lược gia
Anh là thực hiện một loại soft power (quyền lực mềm) bằng cách
đầu tư ra khắp thế giới. Nhưng trong cấu trúc bất đối xứng này, chủ
nghĩa đế quốc tự do thương mại có thể rất nhanh chóng biến thành một dạng
thuộc địa hóa kinh điển. Trong một chừng mực, đó chính là những điều đã xảy ra
vào cuối thế kỉ XIX. Đầu tiên là sự thôn tính và chia chác châu Phi, tiếp theo
là Thế chiến thứ nhất. Chúng ta cần phải xem xét kĩ lưỡng hơn những thay đổi
trong các tương quan giữa kinh tế và quyền lực do chủ nghĩa đế quốc kinh tế, xuất
hiện vào cuối thế kỉ XIX, đã tạo ra.
Sau Thế chiến hai, sau thất bại của Đức và Nhật,
cùng với sự bất lực của Pháp và Liên hiệp Vương quốc Anh trong việc duy trì sức
mạnh quân sự và kinh tế và, cuối cùng, với sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa,
người ta đã có thể nghĩ đến một nguyên tắc dựa trên sự bình đẳng giữa các Nhà
nước có chủ quyền được điều chỉnh thông qua các mối quan hệ thị trường xuyên quốc
gia. Đó là một viễn tưởng không tương thích với hiện thực. Hiện thực là chúng
ta đang sống trong một thế giới bất bình đẳng. Chúng ta đang sống trong một thế
giới trong đó có những thực thể mạnh nhất vẫn khát khao mạnh hơn. Đó là những
gì Hợp Chúng Quốc đang thực hiện bằng các phương tiện kinh tế, văn hóa và quân
sự. Đó là những gì đang diễn ra từ Trung Hoa, quốc gia đã thành một quyền lực
kinh tế và cũng là nước có năng lực đế quốc thông qua kinh nghiệm đế quốc của
riêng nó trong hai nghìn năm với các kỹ năng hành chính. Hiện nay còn có mối hi
vọng phục dựng một thực thể chính trị Hồi giáo, do người theo đạo Hồi ý thức được
việc họ đã mất quá nhiều, nhất là sau khi Đế quốc Ottoman sụp đổ. Đó là nơi xuất
phát của ý tưởng về một caliphat mới hoặc một Tân Ottoman bên bờ Đông Địa Trung
Hải. Tại châu Âu, người ta cũng đang hi vọng về một sức mạnh mới. Không phải
Tân Đế quốc La Mã, mà là một cấu trúc liên bang bao gồm sự hiện tồn của tất cả
mọi Nhà nước thành viên của Liên hiệp châu Âu với một chính sách mới vượt hẳn
trên các Nhà nước. Đó là một giải pháp phi đế quốc, phi quốc gia.
Le
Monde: Các ông muốn
nói rằng các đế quốc không bao giờ chết?
Jane
Burbank : Thật sự không có câu trả lời cho vấn đề cáo chung
của đế quốc. Người ta có thể đã nhiều lần cho rằng đế quốc đã chết trong lịch sử
Trung Hoa nhưng rồi ngày hôm nay nó đang quay lại một cách ấn tượng sau một thời
kỳ suy yếu. Lịch sử quan tâm đến khoảng thời gian dài. Có thể là ý tưởng Nhà nước-dân
tộc sẽ bị thay thế bằng những thực thể chính trị khác phức tạp hơn, lấy tên hoặc
không lấy tên đế quốc. Chúng ta cũng nên nhớ rằng từ này trong nửa
đầu thế kỉ XX mang một nghĩa tích cực. Chúng tôi đang sống ở tiểu Bang New York
và cái tên gốc của nó là Nhà nước (tiểu bang) Đế quốc (Empire State), tên này
có từ thế kỉ XVIII. Tòa nhà chọc trời Empire State Building được xây dựng vào
khoảng năm 1931, là thời kỳ từ đế quốc vẫn còn dùng để biểu tỏ tầm quan trọng
và sức mạnh của New York. Nhớ tiếc đế quốc không ích gì nhưng cần phải chú ý tới
sự phức tạp trong những biến hóa của chính trị, những điều đã tạo nên hiện thực
hôm nay. Sự phân chia quyền lực trên thế giới rất bất bình đẳng và sự bất bình
đẳng trong nội tại mỗi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau vẫn còn rất lớn. ⃝
Nguồn: Pour durer, les empires doivent transformer leur
politique, Le Monde bản giấy, số đặc biệt, tháng 10-12/2015.
(Các chú thích là của người dịch)
[i] Bản đang nói là bản dịch tiếng Pháp. Nguyên bản Anh ngữ: Jane
Burbank, Frederick Cooper, Empires in World
History: Power and the Politics of Difference. Princeton:
Princeton University Press, 2010. (Jane Burbank là Giáo sư về lịch sử Nga tại Đại
học New York, các nghiên cứu mới nhất tập trung vào pháp luật và chủ quyền;
Frederick Cooper là Giáo sư lịch sử tại Đại học New York, chuyên nghành sử châu
Phi thế kỷ XX, quan tâm nhiều về các vấn đề lao động, thực dân luận, quá trình
giải thực dân và tư cách công dân.)
[ii] Biệt danh nổi tiếng của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius Severus
Antoninus Augustus (188 –217), trị vì trongthời gian 198-217.
[iii] Chủ quyền của nhân dân (populaire souveraineté), không chỉ
vua-hoàng đế mới có uy lực, tiếng nói về quốc gia-đế quốc.
[iv] Đế quốc Hồi giáo của người Ả Rập do Abu al-Abbas Abd Allah sáng lập,
tồn tại trong khoảng 750-1258 với trung tâm quyền lực nằm tại khu vực thuộc
Iraq hiện nay.
[v] Đế quốc Hồi giáo của người Ả Rập, có trung tâm nằm tại Damas (thủ
đô hiện nay của Syrie) từ năm 661-750.
[vii] Chế độ chính trị của La Mã sau khi thể chế cộng hòa bị
Julius Caesar xóa bỏ. Chế độ này tồn tại trong hai thế kỷ đầu tiên của Đế quốc
La Mã, đặc trưng bằng sự cầm quyền của các hoàng tử, được gọi là người
công dân thứ nhất, với các thiết chế cộng hòa được khôi phục về mặt hình thức.
[viii] Đế quốc do người Thổ sáng lập, kéo dài hơn 600 năm, từ thế kỷ XV
cho tới năm 1922. Thời kỳ cực thịnh trong thế kỷ XV, XVI, Đế quốc Ottoman có
lãnh thổ bao trải trên ba châu lục, Âu, Á, Phi.
[ix] (1500-1558), một trong những người có quyền lực nhất tại châu Âu
trong thế kỷ XVI, cai trị Hà Lan, trị vì Đế quốc Tây Ban Nha và Đế quốc La Mã
Thần thánh.
[xi] Một dòng họ hoàng gia tại châu Âu nổi tiếng vì có rất nhiều người
làm hoàng đế hoặc vua ở nhiều vùng châu Âu suốt từ thế kỷ XV – XVIII.
[xii] Manifest Destiny là thuật ngữ chỉ quan điểm có tính ý
thức hệ (ideology) xuất hiện tại Hoa Kì vào giữa thế kỷ XIX, cho rằng người dân
Hoa Kì có sứ mệnh và bổn phận truyền bá dân chủ và văn minh sang khắp lục địa Bắc
Mĩ bằng việc xâm lấn, mở rộng lãnh thổ thêm sang phía Tây.
[xiii] Là một ngôn ngữ của một tộc người Do thái sống ở vùng Trung và Đông
Âu, có sự pha trộn giữa các phương ngữ Đức trung cổ và một số tiếng châu Âu, Do
Thái cổ khác.
Được đăng bởi Pham Hong Son vào lúc 00:09
No comments:
Post a Comment