Mặc Lâm, phóng sự từ Malaysia
2015-05-02
2015-05-02
Khách hàng ăn tối tại
một tiệm cà phê Việt Nam ở Malaysia.
Nếu người Việt hải ngoại tự hào với con phố Bolsa
nơi có Little Saigon mà họ gọi một cách thân thương là Sài Gòn nhỏ thì khách du
lịch từ Việt Nam sang Singapore có thể ghé quán Little Việt Nam nằm trên đại lộ
Guillemard gần với con lộ Geylang để thưởng thức các món thuần Việt, hay xa
hơn, tại Kuala Lumpur, một quán Little Việt Nam khác nằm trên đường Jalan Alor
sẽ làm người xa nhà ngạc nhiên vì ở thành phố mà món ăn do người Hoa làm chủ
nhưng một quán ăn nhỏ bé Việt Nam lại có thể đông đúc như vậy.
Một
bài toán không lời giải
Singapore và Malaysia không những chỉ có nhà hàng
mang tên Little Việt Nam mà nó còn những thứ Việt Nam khác đang sinh hoạt tại
hai quốc gia này. Sự nhộn nhịp khi đêm xuống của một cộng đồng các cô gái từ
các nước trong đó nhiều nhất là Việt Nam sang bán dâm đang là một bài toán
không lời giải cho các tổ chức quan tâm về vấn đề buôn người trên khắp thế giới.
Singapore cũng giống như Thái Lan, cho phép thành lập
các khu đèn đỏ hoạt động dưới sự kiểm soát trong một chừng mực nào đó của chính
phủ. Khu Keong Saik trước đây và Geylang hay Joo Chiat bây giờ được vận hành bởi
những hội kín của người Hoa. Giống như các hoạt động mãi dâm bất hợp pháp, dù hợp
pháp chăng đi nữa thì nguồn hàng mới vẫn cần tìm kiếm, dụ dỗ có khi lừa bịp để
cung cấp cho khách làng chơi. Việt Nam đã có sẵn đường giây lâu đời của các má
mì người Việt lẫn Hoa hoạt động mà hơn một lần báo chí Việt Nam khui ra là xuất
phát từ Trung Quốc.
Những cô gái Việt sang Singapore phần lớn đi một
mình được sự hướng dẫn bằng điện thoại từ Geylang. Chấp nhận ra đi cô sẽ được ứng
trước một số tiền tương đương 1.000 đô la Mỹ và sau đó mỗi tháng cộng với tiền
lời 20% khiến cô khó mà trả hết số nợ ngày một tăng cao này. Ở Singapore các cô
còn phải cạnh tranh với các cô gái đến từ nhiều nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ,
Thái Lan, Sri Lanka ngay cả với Campuchia nữa nên thu nhập không thể đủ để
thanh toán các khoản chi tiêu trong đó có món nợ của các má mì đàn ông lẫn đàn
bà, đa số là người Tàu nói tiếng Việt.
Khác với Singapore, chỉ cần băng qua biên giới thì
thành phố Johor Bahru của Malaysia sẽ chào đón các cô gái Việt với nhiều cơ hội
thành công hơn.
Johor Bahru có không ít tụ điểm về đêm và mặc dù là
một quốc gia Hồi giáo trên 60% tín đồ, Malaysia tỏ ra khoan dung hơn Indonesia
và các quốc gia hồi giáo khác.
Điểm đặc biệt mà người ta có thể nhận ra không cần
bàn cãi đó là phụ nữ của quốc gia này không bán dâm trong tất cả các khu vực ăn
chơi. Phụ nữ Mã ra phố trong trang phục phương Tây lẫn trong những khăn choàng
của Hồi giáo. Những chiếc hijab choàng đầu sặc sỡ làm cho đất nước này xinh xắn
hơn so với những bộ trang phục màu đen lạnh lùng và khép kín.
Bộ luật Sharia của Hồi giáo Malaysia không bao giờ
tha thứ cho việc mua bán dâm. Đây là tội ác và báng bổ thần thánh có thể bị ném
đá đến chết hay ít nhất cũng phạt roi cho tới tàn tật cả đời.
Tiệm ăn Little
Vietnam ở Malaysia. RFA PHOTO
Công việc mà người phụ nữ Malaysia cho là đáng xấu hổ
này lại là nguồn khai thác cho các cô gái Việt. Nếu so với Singapore thì
Malaysia là chốn thiên đàng cho nghề mãi dâm mặc dù lâu lâu cũng có một vụ càn
quét của cảnh sát Mã. Cách đây ít lâu vào đêm 19 tháng 12 năm 2014 quán The
Zone ở đường Ibrahim Sultan, thành phố Johor Bahru cảnh sát đã bắt giữ một số
gái Việt nhưng các cô lại xuất hiện vài ngày sau đó và ánh đèn của The Zone tiếp
tục nhấp nháy trở lại.
Từ Johor Bahru, 184 cây số về hướng Nam là thành phố
cổ kính Malacca. Nơi đây ban ngày du khách không thấy hình dạng nào của sự ăn
chơi nhưng khi màn đêm buông xuống thì những tụ điểm lên đèn và trong những
quán bar đó toàn những cô gái Việt Nam ngồi rót bia cho khách với một thứ ngôn
ngữ duy nhất là tiếng Hoa.
Khách làng chơi tại Malacca hầu hết du lịch tour từ
nhiều nước của cộng đồng nói tiếng Hoa như Đài Loan, Macau, Hongkong, Singapore
và dĩ nhiên nhiều nhất vẫn là Trung Quốc đại lục. Tất cả những quốc gia nói tiếng
Hoa ấy được các cô gái Việt gọi chung là người Tàu hay tiếng Tàu và khi giao tiếp
với họ chỉ cần học vài tiếng phổ thông là đủ.
Chấp
nhận hoàn cảnh
Giống như hầu hết các quán Bar nổi tiếng khác của
Malaysia, tại Malacca tiếp viên được chia 20 Ringgit (tiền Mã) khi khui được 5
chai bia cho khách với giá bán 25 Ringgit một chai, tương đương với 7 đô la Mỹ.
Mỗi đêm nếu may mắn có nhiều khách tiền khui bia có thể lên tới 50 đô la đó là
chưa kể tiền bo khi ngồi với khách.
Tuy nhiên hiếm khi cô gái nào chịu ngồi với khách mà
không rủ rê họ để bán dâm. Nếu có nhan sắc và giỏi tiếng Tàu thì có thể ngồi với
khách nhưng thiếu hai yếu tố này thì con đường duy nhất kiếm tiền là phải bán
thân. Không ít người trong các cô gái ấy là công nhân xuất khẩu lao động, họ đến
từ khắp nơi trên đất nước Việt Nam chứ không riêng gì gái miền Tây như định kiến
của báo chí trong nước. Do việc làm không đủ họ bỏ trốn ra ngoài làm chui và
con đường mãi dâm đến với họ không phải là khó khăn dưới sự săn đuổi của những
cô gái giống như họ nhưng bây giờ đã trở thành mối lái do tuổi tác hay bệnh tật.
Một cô gái kể lại hoàn cảnh khó khăn khi đi lao động
tại Malaysia, từ Ayer Hiltam cách Malacca 40 cây số cô nói:
“Nói chung là theo hoàn cảnh nào phải chấp nhận. Gia
đình khó khăn thì bên này phải chịu khó làm kiếm tiền giúp gia đình. Chồng cháu
bị tai nạn ở chân không đi làm được cháu phải sang đây làm. Cháu ký hai năm
nhưng hơn năm thì công ty không có việc nên lên đây làm chui. Làm có tiền rời mới
tính sau này nhờ các anh này làm giấy tờ rồi về.”
Không phải ai cũng chịu đựng như cô Lam, một cô gái
khác gốc gác Thanh Hóa cho biết con đường mà cô theo từ khi sang Malaysia 2 năm
về trước:
“Nhà em ngoài Bắc thì làm lúa làm rẫy, trồng mía trồng
trà làm ruộng. Lần đầu tiên thì con bạn hồi đó đi làm công nhân nhưng hồi đó
lương thấp thấy bạn đi về nhiều tiền nên ham. Nó nói cho số điện thoại bên đây
rồi tự ra sân bay, vé thì nó đặt giúm cứ tự ra sân bay tự đi. Cũng sợ lắm nhưng
kệ, đi tới đâu thì điện thoại dẫn tới đấy. Thấy người ta nói chuyện giống như
bên Việt Nam xem phim mà không có phiên dịch, chẳng hiểu gì hết cứ lắc lắc
không thôi.”
Từ Malacca cách thủ đô Kuala Lumpur 145 cây số là
ngôi tháp đôi nổi tiếng Petronas Twin Tower. Dọc bên hông ngôi tháp đôi này là
đường Jalan P. Ramlee nơi có hai tụ điểm cũng nổi tiếng không kém ngôi tháp
Petronas đó là câu lạc bộ Beach và Thai Club, hai quán bar có chiêu đãi viên
toàn người Việt Nam.
Beach nổi tiếng đến nỗi bất cứ xe taxi nào tại Kuala
Lumpur cũng đều phải biết. Dáng vẻ sang trọng chứa bên trong hàng trăm cô gái
Việt mỗi đêm đã làm cho Beach có tên tuổi so với các nơi ăn chơi về đêm khác của
Kuala Lumpur. 80% khách vào đây là người Tàu còn lại là Tây và hiếm lắm mới có
vài người đàn ông bản xứ. Những cô gái trẻ từ 18 tới 25 lượn lờ trong quán và sẵn
lòng chia sẻ tiếng cười của mình với khách mặc dù trước đó họ có bị chủ nợ đòi
hay một cú phone xin tiền từ nhà gọi sang báo tin người thân trong gia đình
mang trọng bệnh.
Beach Club ở
Malaysia. RFA PHOTO.
Các cô không hẳn là trẻ hết, trong đó cũng có người
mà tuổi tác đã làm cho khách phải kín đáo nhăn mặt. Trang là một cô gái như thế
mặc dù tuổi chưa quá 35 nhưng sự lo âu đã nằm trọn trên đuôi mắt. Nói với chúng
tôi trước chai bia sắp cạn Trang kể:
“Có bà chị kêu em qua nấu ăn cho đào, phụ nấu ăn cho
nhà bả. Qua nấu ăn thời gian thì kinh tế bả khó khăn bả nói thôi giờ nghĩ nấu
ăn đi vì đào nó ăn tự túc hết rồi, vậy thì thôi giờ em đi làm luôn đi. Ba tháng
sau học tiếng, ráng học. Nói chung còn thiếu bả 3.000 giờ ráng làm để trả.”
Sau một hồi chạy quanh đâu đó, Trang trở lại bàn và
kể nhiều hơn về gia đình cô tại Long An, trong đó động cơ thúc đẩy cô sang
Malaysia chính là chồng mình do đã liên tục sách nhiễu tình dục đối với người vợ
đã quá kiệt sức sau những giờ làm việc tất bật, Trang kể:
“Bây giờ nói chung em không biết may giày nhưng mà
cách xếp giày thì em biết hết rồi, giày Nike đó chuyên nghiệp về giày Nike. Cứ
6 giờ là có mặt và ngày nào cũng tăng ca bắt buộc phải tăng ca tới 7 giờ sau 7
giờ ngày em tăng ca thì nhà em gần nhà mấy chị hàng bông, trước khi làm Nike
nhà em bán hàng bông mà, sau giờ đó thì em chở ra chợ em sang rồi 7 giờ tới 8
giờ em về tới nhà. Cơm nước giặt đồ quay qua quay lại tắm rửa con cái ngủ hết
thì em lặt ớt. Lặt ớt tới 11-12 giờ khuya ngủ được một miếng tới 3 giờ em dậy
đi bán rồi.
Nói chung là nó đòi quan hệ. Thật sự thì quá mỏi mệt
luôn ngày nào cũng như ngày nấy làm sao chịu nỗi? Em mới nói một tuần em chỉ
cho quan hệ một lần vợ chồng ai cũng vậy không có ai quan hệ nhiều, phụ nữ mà.”
Đối diện xéo góc với Beach là Thai Club, có lẽ do một
người Thái làm chủ. Phong cách Thái lộ rõ khi bên hông của quán bar này là một
chiếc miếu thờ Phật bốn mặt mà trước khi vào quán các cô gái Việt ghé vào thắp
nhang thành kính cầu xin cho buôn may bán đắt. Sát với Thái Club là quán bán thức
ăn Việt Nam có tên Tiệm Cà Phê Việt Nam. Ngôi quán nhỏ nhắn có nhân viên người
Việt rất dễ thương trải lòng mọi chuyện xảy ra tại đây để khách thấy được bức
tranh tổng thể cuộc sống của hàng ngàn cô gái Việt đang bơi lội trong chiếc
ao nhỏ bé mang tên Kuala Lumpur để bán thân xứ người.
Từ con đường Jalan P. Ramlee đến một con đường nhỏ
khác có tên Jalan Alor không bao xa các cô gái thường ghé một quán Việt Nam ở
đó để ăn uống, tán gẫu trước và sau khi làm việc tại Beach hay Thai Club. Quán
nhỏ, bán nhiều thức ăn Việt và khách chủ yếu là công nhân xuất khẩu lao động
hay những cánh bướm đêm của Việt Nam. Người ta có thể thưởng thức một tô phở
nóng đặc trưng Hà Nội hay bánh hỏi heo quay đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Chủ quán có vẻ biết khai thác tâm lý người xa quê khi không quên một món
mà không người miền Nam nào lại không biết đó là bánh mì Việt Nam.
Trước cửa quán là chiếc xe bánh mì đầy thịt ba rọi,
xíu mại, thịt nướng cùng rau chua khiến hình ảnh một Sài Gòn trong lòng bùng dậy
ấm áp xoa dịu chút gì đó trăn trở và chen lẫn hối hận của các cô gái tha
phương.
Một Miếu Phật trên
đường phố ở Malaysia. RFA PHOTO
Họ như những cánh bướm đêm, sặc sỡ và lười biếng từ
ăn nói tới đi đứng, chuyện trò. Có lẽ họ quá mỏi mệt khi phải đối phó với nhiều
thứ bên cạnh việc hằng đêm phải làm chuyện mà không người đàn bà nào muốn. Những
khuôn mặt của nhiều vùng quê Việt Nam từ Cà Mau đến Thanh Hóa, Lạng Sơn...tại
đây họ không còn phân biệt vùng miền mà chính yếu sự phân loại ấy nằm ở trong
ruột những cuốn hộ chiếu mang giòng chữ Hộ chiếu Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Các con dấu ở phi trường hay cửa khẩu của Malaysia sẽ nói lên người cầm nó
trong tình trạng nào, hợp pháp hay bất hợp pháp trước pháp luật của Malaysia.
Nghị định khung miễn thị thực Visa trong khối ASEAN
được ký từ năm 2006 cho phép thời gian lưu trú của công dân các nước trong khối
ASEAN không quá 14 ngày đối với Brunei và Myanmar, không quá 21 ngày đối với
Philippines, không quá 30 ngày đối với Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,
Thái Lan Việt Nam và Singapore.
Ba mươi ngày nhập cảnh vào các nước Đông nam á là
khoảng thời gian mà ASEAN tính tới nhằm ngăn chặn tệ nạn lao động chui qua con
đường du lịch. Thời gian ít ỏi không cho phép người nước khác mua vé máy bay trở
về nhà rồi tiếp tục sang làm việc với một lần nhập cảnh mới. Tuy nhiên sự tính
toán này tỏ ra không hiệu quả đối với lao động xuất khẩu của Việt Nam và lại
càng không thể áp dụng với các cô gái hành nghề mãi dâm đang tràn ngập đất nước
Malaysia.
Cầm trên tay cuốn hộ chiếu chưa một lần đóng dấu
không ít các cô gái Việt Nam bây giờ mới biết sự quan trọng của những trang giấy
trắng tinh này. Từ Việt Nam có cô nhờ luôn công ty môi giới làm sẵn hộ chiếu
cho mình, khi lên máy bay cuốn hộ chiếu ấy do người đại diện công ty cầm giữ,
bước xuống phi trường về tới chỗ làm việc họ cũng không có cơ hội nhìn thấy nó
vì chủ nhân giữ lại để tránh việc họ trốn ra ngoài làm chui.
Con đường của một cuốn hộ chiếu theo chân công dân
Việt còn lắm gian nan nữa nếu chủ nhân của nó có ý định trốn lại Malaysia để
làm việc bất kể tình trạng di dân bất hợp pháp của mình.
Sự liều lĩnh ấy dù sao tồn tại được cũng nhờ vào các
mánh khóe cộng với sự tiếp tay của các nhân viên chính phủ của hai nước cấp và
chấp nhận hộ chiếu Việt Nam. Các cô gái hành nghề mãi dâm trên toàn đất nước
Malaysia có cùng một cách để ở lại cho dù tấm hộ chiếu của họ thuộc loại nào.
Có ba loại hộ chiếu cùng xuất hiện tại đây: Hộ chiếu chết, hộ chiếu chốt và hộ
chiếu trắng.
Hộ chiếu chết là hộ chiếu đã hết hạn từ lâu nhưng chủ
nhân của nó không buồn ngó ngàng gì tới cho đến khi có ý định trở về Việt Nam
thì tính sau. Hộ chiếu “chốt” là khi hết hạn người cầm nó quay về Thái Lan, sau
đó nhập cảnh lại vào Malaysia để có con dấu thị thực mới. Hộ hiếu trắng là người
cầm nó quay hẳn về Việt Nam làm một cuốn hộ chiếu mới để quay lại Mã.
Cô gái đến từ Thanh Hóa tên Thuần cho biết cách mà một
người muốn vào lại Malaysia qua việc đi chốt, tức là đi đóng dấu tại cửa khẩu
Malaysia và Thái Lan:
“Đi chốt (hay chốp) là cứ một tháng đi một lần. Thí
dụ như mùng bốn tháng trước mùng bốn tháng này là một tháng nhưng phải đi trước
khoảng 27-28 chứ không để tới mùng bốn. Hai bảy hai tám ra bến xe mua vé đi
Thái. Từ Malacca sang tới Thái Lan sáng hôm sau qua khỏi cửa khẩu của Mã xong rồi
vô Thái nhập cảnh trong Thái đi chốt là qua Thái xong nhập cảnh vô Mã Lai lại
thì tốn ít tiền chứ vể Việt Nam qua lại rất khó. Ba tháng mới về nhà về Việt
Nam một lần. Bên này đi chốt sang Thái thì ba lần phải về Việt Nam xong quay
sang bằng hộ chiếu mới. Về Việt Nam đổi passport mới xong lại quay sang đi chốt
tiếp.”
Nếu hộ chiếu quá cũ thì đi chốt sẽ bị từ chối và có
thể vào tù. Có hai cách để tránh tình trạng đi chốt liên tục mỗi tháng. Cách thứ
nhất đóng dấu nhập cảnh giả, cách thứ hai quay về việt Nam làm hộ chiếu mới hay
hộ chiếu trắng.
Cách thứ nhất có rất nhiều người theo vì ít tốn kém
hơn nữa cảnh sát Mã có hỏi thì cũng không biết được con dấu giả hay thật ngoại
trừ nhân viên của sở di trú dưới tên tắt là ZELA.
Theo cô Thuận thì cô chọn cách thứ hai vì chỉ với một
số tiền vừa phải là có thể an tâm quay lại Malaysia mà không sợ pháp luật gõ cửa:
“Mình không muốn bản cũ nên đổi cái mới. Ra Hà Nội đổi
thì có hai trăm ngàn nhưng mà lâu và lằng nhằng lắm. Môi giới thì nhanh cho tiền
chúng nó là xong. Làm đổi mới chỉ trong ngày lấy thì một triệu ba. Nếu ba ngày
lấy thì 600 ngàn còn nửa tháng mới lấy thì 200 ngàn.”
Không có tiền như các cô gái sống về đêm, công nhân
xuất khẩu lao động mỗi khi muốn trở về Việt Nam thì cách duy nhất là nhờ môi giới
với đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia, một công nhân người Phú Thọ cho biết:
“Thì chúng cháu phải nhờ môi giới ở đây để đưa lên Đại
sứ quán người ta làm thù tục giấy tờ cho bọn cháu về. Có nghĩa là trả tiền người
ta lo cho mình về chắc cũng tầm 2 nghìn hay 2 nghìn mốt gì đó. Hai nghìn đó thì
bọn cháu phải làm việc trong 3 tháng.”
Vài ngày trước, hôm thứ ba ngày 21 tháng 4 năm 2015
một cuộc hội thảo mang tên Xây dựng chương trình hành động phòng chống mua bán
người giai đoạn 2016-2020 do Ban chỉ đạo Phòng chống tội phạm của Chính phủ tổ
chức tại TP.HCM cho biết mỗi năm có 5.000 phụ nữ sang Singapore và Malaysia
hành nghể mãi dâm. Con số này thật ra đã bớt xuống nếu so với thống kê của Cơ quan di trú
Malaysia cho biết có ít nhất 18 ngàn người hành nghề mãi dâm trong đó gái Việt
Nam là hơn 8 ngàn người.
Đầu năm nay một quán bar tại vùng Sitiawan bị cơ
quan ZELA ập vào bắt giữ hơn 40 cô gái Việt nhưng chỉ sáng hôm sau hầu hết các
cô đều được chủ nhân chuộc ra và diễn tiến này lập lại sau đó hai tháng đối với
hai câu lạc bộ Beach và Thai Club tại Kuala Lumpur.
Luật Malaysia quy định nếu bị phát hiện nhập cảnh và
ở quá thời hạn người cầm hộ chiếu sẽ bị giam giữ hai tháng sau đó trục xuất về
nơi xuất phát. Tuy nhiên ít có người bị giam hay trục xuất vì đa số đã được lót
tay để cho qua và tiếp tục ở lại hành nghề.
Chính phủ cũng không thể truy tố chủ nhân các quán
bar về tội buôn người cho dù chỉ cần bằng chứng họ cho mượn tiền và buộc phải
làm việc cho họ là đủ cấu thành tội phạm. Lý do là không một cô gái Việt nào
dám nói ra sự thật vì sợ trả thù và cũng sợ hết đường làm ăn. Hơn nữa đối với
các nạn nhân thì việc má mì cho mượn tiền xuất phát từ lòng tốt và truyền thống
người Việt không nên lấy oán trả ơn.
Những ký sinh sống bám vào mồ hôi của các cô gái Việt
dưới nhiều hình thức: cho thuê nhà, cho vay lấy lãi, môi giới hộ chiếu, môi giới
bán dâm...tất cả đều là dạng buôn người nhưng nếu tìm người chứng thì không ai dám
đứng ra vì hệ thống dày dặc của bang hội người Hoa.
Đã từng có vụ giết người được cảnh sát cho là bịt miệng
nhân chứng xảy ra và hình ảnh cô gái Việt Nam nằm chết sóng xoài trong một quán
bar đã khiến hầu hết các cô gái Việt chết khiếp.
Mạng lưới mafia hay đường dây buôn người tại Mã chưa
bao giờ bị phát hiện mặc dù liên tục bị cảnh sát theo dõi. Giống như hầu hết
các tổ chức buôn người trên thế giới, những đồng tiền hối lộ luôn là đồng tiền
khôn và sự thật hiển nhiên không một quốc gia Đông nam á nào lại từ chối việc
được hối lộ.
Nhưng có lẽ sức mạnh đồng tiền mới chính là lý do
khiến các cô im lặng. Thu nhập một đêm tại Beach hay Thai Club có thể từ 1 tới
2 trăm đô la Mỹ đã vây hãm thân thể họ trong vòng tròn son phấn. Cho tới khi
son phấn phai nhạt thì con đường trở thành má mì dẫn dắt các cô gái khác lại tiếp
tục làm cho vòng tròn sinh sản của những cánh bướm đêm sang một chu kỳ khác.
Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Văn Cao sáng tác bài
Mùa Xuân đầu tiên, người Việt những tưởng cái mùa xuân đáng ao ước ấy sẽ vĩnh
viễn trở về trên đất nước Việt Nam. Có đâu 40 năm đã qua mà mùa xuân chỉ xuất
hiện về đêm, qua những cánh bướm tả tơi nơi thành phố xa lạ và không hề được
thông cảm cho nhịp đập của những đôi cánh ấy.
No comments:
Post a Comment