Võ
Văn Quản - Luật Khoa
05/12/2019
Trước khi giới thiệu
với bạn đọc những tranh luận về thuyết phổ quát (universalism) và thuyết tương
đối văn hóa (cultural relativism) về nhân quyền, người viết phải khẳng định rằng
mình đồng ý với quan điểm tác gia Yuval Noah Harari trong quyển Homo
Sapiens đã quá nổi tiếng.
Trong đó, ông khẳng
định rằng quyền con người là một khái niệm nhân tạo hình thành bởi trí tưởng tượng
và khả năng tư duy của con người. Cách nói này của Harari không nên được hiểu
là một công kích dành cho bản thân khái niệm nhân quyền. Ông chỉ đơn giản đang
đưa ra một ví dụ về khả năng trừu tượng hóa vượt trội của chủng loài Homo
Sapiens so với các loài vật khác mà thôi.
Về căn bản, gần như
mọi học thuyết chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luật đều nằm trong thế giới tưởng
tượng của con người mà ra cả, từ “kinh tế” cho đến “thành công” cho đến “xã hội
chủ nghĩa”.
Tranh luận giữa
thuyết phổ quát và thuyết tương đối trong nhân quyền, không phải là về việc nó
có phải là ý niệm nhân tạo hay không, mà là liệu quyền con người nên được áp dụng
tương tự nhau ở mọi nơi? Liệu quyền con người có phải chỉ là một sản phẩm của
các giá trị và học thuyết chính trị phương Tây? Hay rằng chúng ta nên cân nhắc
sự khác biệt văn hóa – chính trị của từng quốc gia để đánh giá thành quả nhân
quyền của từng nơi?
Lịch sử của những tranh cãi
Tranh cãi liên quan
đến tính phổ quát của các văn bản quyền con người vẫn luôn nóng hổi kể từ
khi Tuyên
ngôn Nhân quyền Phổ quát (Universal Declaration on Human Right – UDHR)
được Liên Hợp Quốc thông qua vào năm 1948.
Liên Hiệp Quốc công bố Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ
quát (Universal Declaration of Human Rights) tại Paris, tháng 12/1948. Ảnh:
STF/AFP/Getty Images
Vấn đề đầu
tiên của tính phổ quát nhân quyền nằm chính ở những người soạn thảo ra
nó. Luận điểm này được hai học giả luật nhân quyền quốc tế danh tiếng Jack
Donnelly và Mary Glendon nêu
ra từ năm 1984.
Từ UDHR cho đến
Công ước Liên Hợp Quốc về quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) cũng như quyền Kinh
tế, Xã hội và Văn hóa (CESCR), những người ủng hộ thuyết tương đối luôn cho rằng
các nhà soạn thảo ra chúng đều là những người theo chủ nghĩa thế giới
(cosmopolitans). Họ có kiến thức và trải nghiệm quốc tế, họ tận hưởng những đặc
quyền đặc lợi khác biệt với nhu cầu thực tiễn của người dân tại các cộng đồng
quốc gia khác nhau. Tư duy của họ về nhân quyền, vì vậy, khó có thể cho là tầm
nhìn “phổ quát”.
Luận điểm thứ
hai để phản biện tính phổ quát của nhân quyền là cho rằng các văn bản
nhân quyền hiện đại nhấn mạnh vào sự tự do và quyền cá nhân kiểu triết học
phương Tây quá nhiều. Vì vậy, những giá trị văn hóa, nhân phẩm và cộng đồng của
các dân tộc, quốc gia khác bị bỏ qua. Đặc biệt là những nơi phổ biến quan điểm
cho rằng cá nhân chỉ là một thành tố của những khái niệm quan trọng hơn, như cộng
đồng, văn hóa và xã hội.
Thứ ba, mỗi chính phủ, bao gồm cả phương Tây và phương
Đông, đều có xu hướng mô tả và bảo vệ những quyền họ có thế mạnh và cho rằng những
quyền này mới nên được xem là “phổ quát”. Trong khi đó, những vấn
đề chính trị luôn khiến cho thuật ngữ “nhân quyền” ít khi mang đúng bản
chất của nó.
Ví dụ cụ thể, trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh, hai văn bản nhân quyền quan trọng nhất là ICCPR và
CESCR được hai phe của cuộc chiến nhìn nhận hoàn toàn khác biệt.
Liên Xô và các quốc
gia ngoài phương Tây thì cho rằng việc bảo đảm quyền kinh tế, quyền xã hội và
quyền văn hóa là quan trọng nhất, là yếu tố mang bản chất “phổ quát” trong hệ
thống nhân quyền quốc tế (tức nói về CESCR).
Riêng Hoa Kỳ, vốn
không ủng hộ kinh tế thị trường tập trung và sự can thiệp của nhà nước vào các
hoạt động văn hóa, kinh tế, giáo dục… lại khẳng định các quyền dân sự và chính
trị, như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp… mới thật sự là những tiêu
chuẩn phổ quát của quyền con người mà các quốc gia nên áp dụng.
Cho đến nay, những
tranh cãi này vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một thể dạng khác. Cụ thể, các nhà làm
chính sách Đông Á thường xuyên sử dụng lại
lập luận cho rằng quyền và nhu cầu phát triển kinh tế chiếm ưu thế đối với tất
các loại quyền chính trị dân sự, văn hóa xã hội khác.
Theo thứ gọi là
“Asian way” này, cách tốt nhất để khu vực này có thể đạt được những tiêu chuẩn
nhân quyền trong dài hạn là ưu tiêu cho một mục tiêu phát triển kinh tế thống
nhất và không bị cản trở, cho dù chúng có gây thiệt hại, hạn chế trực tiếp lên
những quyền con người khác.
Cuối cùng, những
người phản đối thuyết phổ quát trong nhân quyền cũng chỉ ra rằng nhiều quyền cụ
thể mà UDHR hay các văn bản quyền con người cơ bản khác ghi nhận như tư hữu tài
sản, tư hữu tư liệu sản xuất, công bình giới, công bình hôn nhân và tự do tôn
giáo… là không
tương thích với văn hóa và đạo lý truyền thống của rất nhiều quốc gia
khác.
Họ dẫn chứng, như tại
châu Phi, tài sản – đất công xã là một trong những nền tảng kinh tế cổ điển và
phổ biến nhất của một số tộc người. Bắt họ phải ghi nhận sự tồn tại của quyền
tư hữu tài sản như là một quyền phổ quát đồng nghĩa với việc phá vỡ sự kết nối
của cộng đồng và nền tảng xã hội truyền thống.
Ở nơi khác, như
Saudi Arabia, giới tôn giáo bảo thủ lại cho rằng quyền tự do chuyển đổi tôn
giáo, quyền tự do hôn nhân của phụ nữ, quyền bình đẳng nói chung của phụ nữ là
trái ngược với quy tắc và niềm tin tôn giáo của đại đa số dân chúng, vì vậy
không thể áp dụng. Đấy là chúng ta chưa kể đến những tranh cãi liên quan đến
quyền sống và quyền hôn nhân của người
đồng giới.
Phản biện
Những lý luận nói
trên không phải là không có cơ sở, nhưng cũng không hẳn đã hoàn toàn thuyết phục.
Về luận điểm đầu
tiên, việc cho rằng những người soạn thảo nên UDHR chỉ là những học giả
phương Tây nhận được quá nhiều đặc quyền đặc lợi trong cuộc sống có phần quốc tế
hóa của họ hoàn toàn không đủ cơ sở.
Có thể liệt kê rất
nhiều học giả nhân quyền từ thế giới thứ ba như Peng-chun
Chang người Trung Quốc, Charles Malik là một nhà ngoại giao người
Lebanon, Carlos
P. Romulo là một tác gia, nhà ngoại giao người Philippines… và còn rất
nhiều thành viên khác nữa.
P.C.Chang (trái) và Eleanor Roosevelt tại Liên Hiệp
Quốc năm 1948. Ảnh: UN Photo
Trong đó, Chang có
một câu nói gần gũi khá nổi tiếng “Nhân quyền là dành cho mọi người” (“Human
rights are for everyone”), bất kể người đó là người phương Tây hay không phải
phương Tây, là kẻ thực dân hay người bị thực dân hóa.
Đấy là chưa kể,
trong quá trình xây dựng các văn bản như ICCPR hay CESCR, vai trò của những quốc
gia vừa giành độc lập sau các cuộc chiến chống thực dân là rất lớn, nếu không
muốn nói là áp đảo.
Thậm chí, họ còn
dùng những văn bản này như là công cụ để chống lại các quốc gia phương Tây vẫn
còn nắm giữ lãnh thổ thực dân, cụ thể thông qua quyền dân tộc tự quyết và quyền
tự do chính trị của công dân.
Quyền con người phổ
quát được sử dụng triệt để để đòi lại quyền lợi chính trị từ trật tự thế giới
cũ, từ đế chế – thực dân sang một thế giới đa nguyên hơn. Nếu giờ đây lại quay
ngược lại cho rằng những bộ nguyên tắc này là sản phẩm chỉ của phương Tây, do
phương Tây áp đặt thì quả là “tiêu chuẩn kép”.
Ngoài những quyền
cơ bản như quyền sống, quyền không bị tra tấn, quyền tự do – an ninh cá nhân,
các nguyên
tắc nhân quyền quốc tế trong ICCPR còn thừa nhận các quyền mang bản chất
cộng đồng như quyền thực hành tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do hội họp, quyền
tham gia vào các hoạt động chính trị, v.v. Trong CESCR,
vai trò của gia đình, của trẻ em, giáo dục cộng đồng và đời sống văn hóa riêng
biệt cũng được thừa nhận và bảo vệ hơn bao giờ hết.
Mặt khác, nền tảng
triết học phương Tây không có vai trò trọng tâm thái quá như nhiều người tưởng. Triết
lý Anh – Mỹ đúng là nhìn nhận cá nhân như những thực thể đơn độc, tách
rời và luôn ở vị thế phải cạnh tranh với các đồng loại; song nếu cân nhắc châu
Âu lục địa và châu Mỹ Latin thì có thể thấy họ cũng đặt nặng vai trò và sự liên
kết của cá nhân với không gian công cộng và cộng đồng không thua kém với các
khu vực địa lý khác.
Thứ hai, quyền con người được bảo vệ trong pháp luật quốc tế
không hề chỉ tập trung vào việc cá nhân hóa quyền con người.
Ngày nay, từ châu
Á, Trung Đông, đến châu Phi hay Mỹ Latin, ngày càng nhiều người nhận ra rằng, hạn
chế quyền con người của họ dựa trên kiểu lập luận văn hóa – kinh tế chỉ là một
huyền thoại không thể đứng vững trước lý tính của con người hiện đại. Và cũng
khó mà tin rằng các cá nhân, tổ chức trong xã hội chấp nhận việc phải đánh đổi
nhân phẩm và quyền lợi của mình để bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống mơ hồ
nào đó.
Xem những người đồng
tính là tội phạm và bỏ tù họ?
Xem những người đòi
hỏi một cuộc bầu cử minh bạch và công bằng là những kẻ phá rối và phản động?
Khó có thể cho rằng
có truyền thống văn hóa nào lại tin vào những điều như vậy.
Những người biểu tình ở Việt Nam vẫn bị dán nhãn là
bạo động và bị đàn áp nặng nề. Ảnh: Getty Image
Cuối cùng, ngay cả khi sự khác biệt văn hóa mà các nhà ủng hộ
thuyết “tương đối” trong nhân quyền quốc tế là có tồn tại đi chăng nữa, nó có
thể đang được giải thích bằng ngôn ngữ lạm dụng của chính nhà cầm quyền quốc
gia để phục vụ các mục tiêu chính trị khác biệt.
Nói như học giả
nhân quyền Bertie G. Ramcharan, sự khác biệt phương Tây – phương Đông đơn thuần
chỉ là tấm khiên để
giới độc tài những xứ sở này biện hộ cho sự lạm quyền và sai phạm từ phía chính
quyền.
Ngày nay, tại những
ngôi làng tại châu Á và châu Phi, người dân ngày càng phản đối kiểu quản lý và
xây dựng nhà nước hời hợt “trên hét dưới dạ vâng”. Không chỉ vậy, họ còn hợp lực
lại với nhau, sử dụng ngôn ngữ nhân quyền phổ quát để chống lại những quan chức
tham ô, những doanh nghiệp thân hữu; từ đó bảo vệ nguồn sống và môi trường của
cộng đồng mình.
Sau cùng, sự “tương
đối” của quyền con người có lẽ chỉ là ngôn ngữ của những người mong muốn bảo vệ
tư lợi cho mình mà thôi.
No comments:
Post a Comment