Luật sư Nguyễn Văn Thân
18/12/2015
“Bằng
chứng không thể chối cãi được là tại các quốc gia tân tiến có chính sách và cơ
chế tôn trọng Nhân Quyền như Mỹ, Úc và Châu Âu thì kinh tế và xã hội
phát triển tốt đẹp theo đúng nghĩa dân giàu, nước mạnh. Nơi nào chà đạp nhân
quyền như Bắc Hàn, Việt Nam và Trung Quốc thì kém phát triển hoặc phát triển
không bền vững vì nạn tham nhũng và phá hủy môi trường. Vì vậy, có thể nói Nhân
Quyền là nền tảng của sự phát triển. Nơi nào chính quyền biết tôn trọng Nhân
Quyền thì nơi đó người dân mới có điều kiện phát huy hết tiềm năng,
nâng cao năng suất lao động, phát triển đời sống kinh tế cho bản thân và gia
đình của họ cũng như đóng góp tích cực cho xã hội và đất nước”.
N.V.T.
---------------
Vai
trò của người Việt hải ngoại trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam là
một câu hỏi mà chính mỗi cá nhân người Việt quan tâm đến tình hình và vận mệnh
đất nước phải tự trả lời. Trong bài viết này, cá nhân chúng tôi chỉ
muốn chia sẻ và đề nghị một vài công tác cụ thể mà chúng ta có thể làm được để
góp phần đẩy mạnh phong trào tranh đấu cho nhân quyền trong nước một cách hiệu
quả hơn trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay và trong bối cảnh Việt Nam quyết định
hội nhập vào cộng đồng kinh tế thế giới.
Ngày
2/12 vừa qua, Việt Nam chính thức kết thúc đàm phán Hiệp Định Thương Mại Tự Do
với Liên Minh Châu Ấu. Với Hiệp Định này thì hai bên đồng ý xóa bỏ 99% rào cản
thuế quan trong thời hạn 7 năm. Châu Âu là đối tác thương mại lớn thứ hai của
Việt Nam sau Trung Quốc và là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của
Việt Nam. Xuất khẩu Việt Nam sang Châu Âu đạt 15 tỷ Mỹ kim trong năm 2014. Kim
ngạch thương mại hai chiều giữa Việt nam và Châu Âu chiếm khoảng 37 tỷ Mỹ kim
so với Trung Quốc là 60 tỷ. Nội dung của Hiệp Định này gồm có quy định chung và
cam kết mở cửa thị trường, đầu tư, phòng vệ thương mại, quy tắc cạnh tranh công
bàng và sở hữu trí tuệ. Đặc biệt là hợp tác và xây dựng năng lực và thể chế
pháp lý, bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư. Châu Âu hứa sẽ giúp Việt
Nam cải thiện hệ thống tư pháp cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và hai bên
cũng cam kết hoàn tất tiến trình phê chuẩn trong thời gian sớm nhất để Hiệp Định
có hiệu lực từ đầu năm 2018.
Trong
tháng 10, Việt Nam cũng đã thương lượng thành công Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương tức TPP. Theo dự đoán của một số chuyên gia thì Việt Nam là quốc gia
hưởng lợi nhiều nhất từ TPP với ước lượng là GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm 24 tỷ
Mỹ kim trong năm 2020 và 34 tỷ trong năm 2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm 68 tỷ
trong năm 2025.
Bắt
đầu từ 1/1/2016, Việt nam sẽ trở thành một phần của cộng đồng kinh tế ASEAN khi
các rào cản thuế quan trong các quốc gia thành viên hoàn toàn được tháo dỡ tạo
điều kiện cho sự luân chuyển hàng hóa và dịch vụ tự do trong Khối theo mô hình
của thị trường chung châu Âu. Ngày 5/5/2015, Việt Nam cũng đã ký Hiệp định
Thương mại tự do với Hàn Quốc xóa bỏ hơn 90% các loại thuế quan trong đó các mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam gồm có nông sản, hàng dệt và đồ gỗ sẽ được hưởng lợi.
Ngược lại, Việt Nam cắt giảm thuế đối với những mặt hàng công nghiệp từ Hàn quốc
như nguyên phụ liệu dệt may, linh kiện điện tử, phụ tùng xe hơi và điện gia dụng.
Tóm
lại, năm 2015 đánh dấu sự kiện Việt Nam mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế
toàn diện về mặt kinh tế. Tuy chỉ mới gia nhập WTO từ 2007 nhưng Việt Nam đã đi
một bước khá xa trong tiến trình hoàn tất các hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương với nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới. Thật ra Việt Nam
không còn sự lựa chọn. Thị trường nội địa không có sức phát triển. Kinh tế Việt
Nam ngày càng bị lệ thuộc vào Trung Quốc quá nhiều. Trào lưu hiện nay là các quốc
gia trong khu vực tìm cách liên kết và giao thương để phát triển kinh tế cũng
như bảo vệ thế đứng an ninh và chiến lược lâu dài của họ. Việt nam cũng không
thoát khỏi hiện tượng toàn cầu hóa này. Ông Nguyễn Đức Kiên Phó Chủ tịch Ủy Ban
Kinh tế Quốc Hội đã phát biểu rằng Việt nam không còn đường nào khác: “cửa
hay là chết”.
Thuận
lợi và thách thức
Lợi
điểm chính của Việt Nam là có nguồn lao động trẻ và rẻ. Trên 65% dân số ở độ tuổi
dưới 35. Có gần 40 triệu sử dụng internet và facebook. Nhưng Việt Nam phải đối
diện với nhiều thách thức. Khó khăn lớn nhất là năng lực cạnh tranh yếu kém so
với đối tác trong các hiệp định thương mại tự do. Năng suất lao động thấp, vốn
liếng lãnh đạo và quản trị kinh doanh yếu kém, công nghiệp lạc hậu, hệ thống tư
pháp và hành chính quan liêu, nạn tham nhũng và bôi trơn hoành hành có nghĩa là
Việt Nam không có khả năng đuổi kịp các đối tác thương mại trong Khối TPP hoặc
Liên minh Châu Âu. Tuy xuất khẩu có thể tăng trưởng nhưng hàng xuất khẩu chủ yếu
mang tính công nghệ thấp như quần áo và dày giép. Doanh nghiệp trong các lãnh vực
này có quy mô nhỏ không thâm nhập được vào hệ thống phân phối nên không bền vững.
Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh từ những quốc gia có năng lực cạnh
tranh cao. Nhiều doanh nghiệp VN có thể phải phá sản nhất là trong lãnh vực
nông nghiệp.
Hội
nhập quốc tế cũng có nghĩa là Việt Nam chấp nhận tham gia vào “cuộc chơi” với
những chuẩn mực quốc tế bao gồm các thể chế, luật lệ, tập quán, nguyên tắc và
tiêu chuẩn chung được cộng đồng quốc tế công nhận. Nhưng kiến thức, kỹ năng, và
hệ thống tư pháp và hành chính của Việt Nam còn quá lạc hậu so với tiêu chuẩn
quốc tế. Trong những ngày tháng sắp tới, đời sống kinh tế của người dân Việt
Nam sẽ đầy rẫy bấp bênh nếu không có những chính sách cải tổ toàn diện và đột
phá đi đôi với quyết định hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế.
Người
Việt hải ngoại
Theo
báo cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến năm 2012 có hơn 4 triệu người Việt cư
ngụ ở nước ngoài và sống rải rác khắp nơi trên 103 quốc gia tại các lục địa gồm
có Phi Châu, Trung Đông và Nam Mỹ. Trong số này, có hơn 80% sinh sống tại các
quốc gia tân tiến chẳng hạn như 2.200.000 tại Mỹ, 300.000 tại Úc và tại Pháp,
250.000 tại Canada, 100.000 tại Tiệp Khác và tại Nga, 60.000 tại Anh và tại Nhật
Bản.
Trong
số này ước lượng có khoảng 400.000 người được xem là trí thức (tức là có trình
độ đại học trở lên) tương đương với 10% dân số. Đa số tập trung tại Mỹ với khoảng
150.000 trí thức, 40.000 tại Pháp, 20.000 tại Canada và 7.000 tại Úc. Úc có dân
số xấp xỉ ngang hàng với Pháp và nhiều hơn Canada nhưng lại thua xa về hạng trí
thức.
Trí
thức Việt Nam tại hải ngoại thấm nhuần chuẩn mực quốc tế và là thứ khan hiếm tại
Việt Nam. Cũng theo Bộ Ngoại giao thì hàng năm có hơn 200 trí thức hải ngoại về
Việt Nam đóng góp chuyên môn và tham gia các chương trình hợp tác nghiên cứu và
phát triển về khoa học, công nghệ giáo dục và đào tạo. Đa số là theo thời hạn
công tác ngắn ngày. Họ được đánh là thành phân chuyên gia có trình độ cao, có
kinh nghiệm làm việc nghiên cứu và quản lý trong nhiều lãnh vực. Phần lớn là họ
tự túc và tự trả chi phí. Một số còn bỏ thời gian và tiền bạc riêng làm từ thiện
trong lúc ở Việt Nam. Rõ ràng là con số 200 người này quá ít ỏi so với 400.000
trí thức tại hải ngoại.
Hàng
năm có khoảng 500.000 lượt người Việt Nam về nước. Số lượng kiều hối chuyển về
tăng từ 8 tỷ Mỹ kim trong năm 2010, lên 12 tỷ trong năm 2014 và ước lượng tới
14 tỷ trong năm 2015. Hãy thử làm một bài toán so sánh nhỏ. Trong năm 2014 GDP
của Việt nam là 188 tỷ, chia cho 90 triệu dân tức khoảng $2,000 Mỹ kim mỗi người.
Giả sử như tỷ lệ kiều hối tương đương với 10% lợi tức của người Việt hải ngoại
thì GDP của 4 triệu người Việt hải ngoại là 120 tỷ tức khoảng $30.000 Mỹ kim mỗi
đầu người. Có nghĩa là 4.4% dân số người Việt hải ngoại làm ra 64% GDP của Việt
Nam.
Ngày
19/5 vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN đã ra chỉ thị 45 của Bộ Chính
trị về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị Quyết 36 trong đó có đoạn “Sau hơn 10
năm thực hiện NQ 36, công tác đối với người Việt nam ở nước ngoài có nhiều tiến
bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng… Đến nay, một bộ phận lớn bà con đã có địa vị
pháp lý, ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội…Vai trò của cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài ngày càng nâng cao…là cầu nối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với
các nước sở tại. Tuy nhiên việc thực hiện NQ 36 thời gian qua còn một số hạn chế,
bất cập…Trong quá trình Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cộng đồng
người Việt nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng cả về số lượng và địa bàn cư
trú, có cuộc sống ổn định, có tiềm lực về tri thức và kinh tế, có vị trí ảnh hưởng
trong xã hội nước sở tại. Tình hình quốc tế trong nước và những yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc trong thời gian tới đòi hỏi công tác đối với
người Việt Nam ở nước ngoài cần được tăng cường, hỗ trợ cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài tiếp tục phát triển vững mạnh, nâng cao uy tín, tham gia tích
cực vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa VN và các nước sờ tại,
góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”.
Trong
chiều hướng đó, chỉ thị 45 đặc biệt nhắm tới chính sách thu hút, sử dụng chuyên
gia trí thức người Việt nam ở nước ngoài qua công tác tuyên truyền bằng nhiều
hình thức như các kênh phát thanh, truyền hình, truyền hình mạng IPTV hoặc hệ
thống truyền hình ngay tại các nước sở tại và xây dựng mạng lưới chuyên gia người
Việt nam ở hải ngoại. Trong buổi hội thảo “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập
quốc tế” do Ban Thường trực UBTƯ MTTQVN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh và báo Nhân Dân phối hợp tổ chức ngày 9/11 vừa qua, ông Nguyễn Phú Bình Chủ
tịch Hội Liên lạc người Việt Nam ở nước ngoài đề nghị nghiên cứu để tiến tới việc
cho người Việt ở nước ngoài được thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Cũng trong
khoảng thời gian diễn ra cuộc cuộc hội thảo này, Luật sư Vũ Đức Khanh, hiện sống
và làm việc tại Canada và là Phó Tổng Thư ký của Đảng Dân chủ Việt Nam cho biết
ông nhận được điện thoại từ một lãnh đạo rất cao cấp của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đề nghị cho biết ý kiến về tiến trình dân chủ tại Miến Điện sau khi đảng đối
lập của bà Aung San Suu Kyi thắng lớn trong cuộc bầu cử vừa qua tại Miến Điện.
Luật sư Khanh cho biết thêm là cuối buổi nói chuyện, vị lãnh đạo Việt Nam này
nói rằng ông hy vọng một ngày không xa Luật sư Khanh có thể ra tranh cử tại Việt
Nam. Trả lời báo chí Việt ngữ, Luật sư Khanh phát biểu: “Tôi nghĩ rằng
chính phủ Hà nội cũng đã có những kế hoạch để mở rộng cái khung chính trị ở Việt
Nam, để mà có thể cho một số người Việt ở nước ngoài tham gia vào chính trường
Việt Nam”.
Tóm
lại là trong thời gian sắp tới sẽ có nhiều công tác thâm nhập sâu rộng từ VN
trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp nơi trong đó có Úc Châu. Câu hỏi đặt
ra là chúng ta nên phản ứng thế nào và đóng vai trò gì trước những động thái
như vậy của nhà cầm quyền CSVN từ trong nước.
Nhân
quyền và phát triển
Lịch
sử nhân quyền có thể được xem qua từng giai đoạn. Thứ nhất gồm có quyền chính
trị và dân sự như tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng. Thứ hai là quyền kinh tế
và xã hội gồm có quyền lao động, y tế và giáo dục. Thứ ba là nhân quyền tập thể
như quyền môi sinh và quyền tự quyết (self determination). Trong quá khứ, các
cuộc tranh đấu cho nhân quyền nhất là ở Việt Nam chú trọng vào quyền dân sự và
chính trị ví dụ như qua những vụ blogger hoặc các nhà bất đồng chính kiến bị bắt
rồi trục xuất khỏi VN như Ls Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và gần đây
hơn là Tạ Phong Tần. Nhưng quyền kinh tế và xã hội cũng quan trọng không kém vì
những quyền này không trừu tượng mà thiết thực gắn liền với đời sống hàng ngày
của người dân đặc biệt là những thành phần nghèo khổ nhất trong xã hội. Khái niệm
nhân quyền có tính phổ quát, bất khả xâm phạm, tương quan với nhau và không thể
tách rời.
Bằng
chứng không thể chối cãi được là tại các quốc gia tân tiến có chính sách và cơ
chế tôn trọng nhân quyền như Mỹ, Úc và Châu Âu thì kinh tế và xã hội phát triển
tốt đẹp theo đúng nghĩa dân giàu, nước mạnh. Nơi nào chà đạp nhân quyền như Bắc
Hàn, Việt Nam và Trung Quốc thì kém phát triển hoặc phát triển không bền vững
vì nạn tham nhũng và phá hủy môi trường. Vì vậy, có thể nói nhân quyền là nền tảng
của sự phát triển. Nơi nào chính quyền biết tôn trọng nhân quyền thì nơi đó người
dân mới có điều kiện phát huy hết tiềm năng, nâng cao năng suất lao động, phát
triển đời sống kinh tế cho bản thân và gia đình của họ cũng như đóng góp tích cực
cho xã hội và đất nước.
Nhân
quyền và dân chủ là hai khái niệm tương quan với nhau. Một thể chế tôn trọng
nhân quyền và có tổ chức bầu cử thường xuyên cho phép mọi người dân bỏ phiếu chọn
lực thế lực chính trị lãnh đạo là những yếu tố cần thiết cho một xã hội dân chủ.
Chỉ trong một xã hội dân chủ thì nhân quyền mới được bảo vệ một cách đầy đủ và
đúng nghĩa. Do đó, tranh đấu cho nhân quyền có nghĩa là tranh đấu cho một thể
chế dân chủ đa nguyên mà trong đó mọi thế lực chính trị cạnh tranh lành mạnh và
công bằng để giành quyền bính. Sự tương quan giữa nhân quyền và dân chủ được
ghi nhận trong Điều 21(3) của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là “Ý chí của
người dân là nền tảng quyền lực chính quyền. Ý chí này phải được thể hiện qua
các cuộc tổng tuyển cử thường xuyên và chân thật qua những lá phiếu kín có giá
trị bằng nhau hoặc qua một thủ tục phổ thông đầu phiếu tương tự“.
Hiện
nay, nhà cầm quyền CSVN đứng trước một cuộc khủng hoảng và mâu thuẫn ý thức
hệ trầm trọng. Một mặt là chọn hội nhập và chấp nhận các chuẩn mực quốc tế gồm
có cạnh tranh công bằng và minh bạch để phát triển kinh tế. Mặt khác là tiếp tục
duy trì thể chế độc quyền đảng trị mà thể chế đó chính là đầu mối sinh ra và
dung dưỡng vấn nạn tham nhũng cản trở mọi sự phát triển. Tổng Thư Ký Ban
Ki-moon (Phan Cơ Văn) mà theo một số nguồn tin từ Việt nam là người gốc Việt
thuộc dòng họ Phan Huy giàu truyền thống văn chương và khoa bảng ở Hà Tĩnh
trong tháng 5-2015 đã tới thăm và lưu lại tại nhà thờ dòng
họ Phan Huy trong khoảng 45 phút. Tại đây ông thắp hương, ngồi viết lưu
bút và chụp ảnh lưu niệm. Nhận xét về tham nhũng, ông Ban Ki-moon từng phát biểu
rằng “Tham nhũng dẫn đến sự xâm phạm nhân quyền. Nó xói mòn niềm tin nơi
chính quyền. Thậm chí nó cũng có thể tạo ra án mạng – ví dụ như các viên chức
tham nhũng cho phép dược phẩm bị pha trộn hoặc nhận hối lộ để khủng bố có thể
giết người vô tội”. Tương tự như vậy, bà Navi Pillay Cao ủy Nhân quyền LHP
cũng xác nhận “Tham nhũng giết chết người. Số tiền bị đánh cắp vì tham nhũng
hàng năm có thể nuôi 80 lượt những người đói khổ. Gần 900 triệu người hàng năm
bị đói đa số là trẻ con. Tham nhũng tước đoạt thực phẩm và cuộc sống của họ”.
Do đó, chống tham nhũng, độc quyền cũng là trách nhiệm của những chiến sĩ tranh
đấu và bảo vệ nhân quyền.
Có
lẽ là có nhiều người Việt ở hải ngoại mong được góp phần vào công cuộc phát triển
và dân chủ hóa đất nước. Câu hỏi là bằng cách nào? Tốt nhất và khả thi nhất là
góp phần đẩy mạnh phong trào tranh đấu cho nhân quyền và thực thi quyền con người
trong nước trong đó có nỗ lực chống độc quyền và tham nhũng. Bình đẳng
(equality), minh bạch (transparency) và giải trình (accountability) là 3 nguyên
tắc nhân quyền và chuẩn mực quốc tế khá quen thuộc đối với đại đa số người Việt
hải ngoại. Chúng ta không cần và cũng không thể thống nhất về mặt tổ chức nhưng
có thể thống nhất mục tiêu. Các tổ chức chú trọng vào nỗ lực tranh đấu cho tự
do ngôn luận và bảo vệ các nhà bất đồng chính kiến hoặc tập trung vào tự do tôn
giáo, tự do tín ngưỡng thì cứ tiếp tục như vậy. Những tổ chức khác có thể nhắm
vào các hình thức nhân quyền về kinh tế và xã hội như quyền lao động, quyền lập
hội hoặc công đoàn độc lập hoặc, hoặc bảo vệ môi sinh và sức khoẻ công cộng.
Làm
sao để đẩy mạnh chuẩn mực quốc tế nhân quyền ở Việt Nam? Chúng ta có thể luận
bàn tới 3 phương hướng đó là yểm trợ người dân trong nước có phương tiện tiếp cận
công lý (access to justice), tiếp cận kiến thức (access to knowlegde) và tiếp cận
thông tin (access to information). Trong một năm qua, Tổ chức Yểm trợ Nhân quyền
Úc Châu – Human Rights Relief Foundation (HRRF) đã tiến hành các dự án yểm trợ
người trong nước tiếp cận công lý hoặc ít ra là hệ thống công lý dù cho hệ thống
này còn nhiều bất cập và bất công. Với sự tài trợ của HRRF, một văn phòng luật
sư nhân quyền ở Hà nội gồm có 2 luật sư và một vài sinh viên luật tập sự nhận
ký hợp đồng tư vấn pháp lý miễn phí cho những người bị bắt hoặc có thể bị bắt
dưới các Điều luật Hình sự 79, 88 hoặc 258, hoặc những người dân oan mất đất hoặc
những người biểu tình phản đối hành vi phá hủy môi trường như đốn chặt cây xanh
ở Hà Nội. Ngoài ra, HRRF cũng tài trợ cho nhóm UPR Việt Nam tiến hành một số
khoá huấn luyện về cơ chế nhân quyền LHQ yểm trợ người trong nước tiếp cận những
kiến thức căn bản về nhân quyền. Thật ra thì đây chỉ là bước đầu và còn rất giới
hạn. Những công tác này đòi hỏi rất nhiều nỗ lực liên tục của nhiều người chớ
không phải chỉ một vài người hoặc một vài nhóm.
TPP
và nhân quyền
Chương
19 của Hiệp định TPP quy định quốc gia thành viên phải gia nhập thành viên Tổ chức
Lao động Quốc tế ILO và thực thi các Công ước Lao động Quốc tế. Có nghĩa là các
thành viên phải ban hành luật bảo đảm quyền lao động mà họ ký kết. Tranh chấp về
quyền lao động dưới chương này sẽ được giải quyết theo thủ tục Hòa giải của
Chương 28.
TPP
quy định các quốc gia thành viên ban hành hoặc điều chỉnh luật lao động phù hợp
với Công ước ILO trong đó gồm có bảo đảm quyền tự do thành lập công đoàn,
thương lượng tập thể, ngăn cấm mọi sự kỳ thị nơi làm việc, ấn định mức lương tối
thiểu, ấn định giờ giấc và bảo đảm an toàn nơi làm việc. Nguyên tắc minh bạch sẽ
được áp dụng gồm có quy định các thành viên phải phổ biến rộng rãi luật lao động
và các công tác thực thi. Bất cứ ai cũng có quyền nêu vấn đề về quyền lao động
với thành viên TPP. Thành viên có trách nhiệm trả lời hoặc giải trình trong một
thời hạn hợp lý và phổ biến việc này nếu thích hợp.
Thành
viên TPP đồng ý thành lập một Hội đồng Lao động gồm có đại diện của mỗi quốc
gia. Hội đồng có trách nhiệm xây dựng cơ chế hợp tác, tạo điều kiện để công chúng
tham gia về việc phổ biến và thực thi quyền lao động cũng như theo dõi công tác
thi hành để bảo đảm các điều lệ về quyền lao động dưới Chương 19 được thực thi
một cách có hiệu quả.
Mỗi
thành viên cũng đồng ý thành lập một cơ chế quốc gia có trách nhiệm điều hành
và thực thi quyền lao động. Quốc gia thành viên cũng phải thành lập một tổ chức
tư vấn để công chúng có thể đề đạt ý kiến về quyền lao động.
TPP
cũng có riêng một chương về minh bạch và chống tham nhũng là Chương 26 yêu cầu
các quốc gia thành viên tuân thủ nguyên tắc minh bạch trong tiến trình làm luật
và thực thi luật pháp cùng với chính sách nhà nước. Mọi văn bản luật pháp và
hành chính gồm có các đạo luật, sắc luật, sắc lệnh, điều lệ và thủ tục liên
quan tới TPP phải được phổ biến rộng rãi để mọi người có cơ hội đóng góp ý kiến.
Mọi tiến trình pháp lý hoặc hành chính liên quan tới quyền lợi của cá nhân hoặc
nhóm bị ảnh hưởng thì họ phải được thông báo trước và cho cơ hội phản bác hoặc
trình bày quan điểm. Quốc gia thành viên phải thành lập tòa án và thủ tục pháp
lý cho phép cá nhân hoặc các nhóm liên hệ đệ đơn khiếu nại quyết định ảnh hưởng
tới quyền lợi của họ. Thành viên cũng phải cung cấp thông tin cho các quốc gia
đối tác về mọi quyết định hoặc sự kiện có thể ảnh hưởng tới quyền lợi của các
quốc gia đối tác đó ví dụ như khi có quyết định dẫn đế tình trạng cạnh tranh
không công bằng hoặc cố tình phá giá, gồm có giá lao động.
Ngoài
ra, quốc gia thành viên cam kết gia nhập Công ước Chống Tham nhũng Liên Hiệp Quốc
2003. Quốc gia thành viên phải ban hành và thực thi luật chống tham nhũng với
hình phạt thích đáng và các biện pháp ràng buộc về lưu giữ dữ kiện tài chánh,
phổ biến báo cáo tài chánh theo đúng tiêu chuẩn quốc tế về kế toán và kiểm
toán. Quốc gia thành viên cũng được khuyến khích tạo điều kiện cho các tổ chức
cộng đồng hoặc xã hội dân sự tham gia vào nỗ lực chống tham nhũng ảnh hưởng đến
thương mại và đầu tư. Cơ chế Hòa giải Tranh chấp sẽ áp dụng khi có một quốc gia
thành viên không tuân thủ các điều lệ này.
Những
công tác cụ thể
Thách
thức lớn nhất cho người Việt hải ngoại là làm sao bảo đảm những gì nhà cầm quyền
CSVN cam kết về TPP sẽ được thực thi đúng đắn và đầy đủ trên thực tế. Trong quá
khứ họ đã ký kết nhiều Công ứớc Nhân quyền và Lao động với Tổ chức Lao động Quốc
tế ILO nhưng chưa bao giờ thật sự thi hành những cam kết đó.
Trong
thời gia sắp tới, TPP sẽ được Ủy ban Quốc hội Úc và Hoa Kỳ duyệt xét trước khi
phê chuẩn. Mỹ, Úc và Canada là 3 quốc gia thành viên TPP có đông người Việt cư
ngụ với dân số tổng cộng gần 3 triệu người. Cộng đồng mỗi nơi nên nghĩ tới việc
thành lập ngay các ủy ban đặc nhiệm phụ trách TPP cũng như vận động và tài trợ
một ủy ban TPP ngay trong nước. Ủy ban làm việc tại mỗi quốc gia nhưng cũng
liên kết với nhau chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm vận động chính trường với mục
tiêu là bảo đảm Việt Nam thật sự thực thi cam kết TPP về quyền lao động và
nguyên tắc minh bạch. Đây sẽ là một lãnh vực mà người Việt hải ngoại và trong
nước có thể hợp tác làm việc chung với nhau trên tầm vóc quốc tế.
Thứ
hai là yểm trợ hoặc tài trợ pháp lý tương tự như mô hình văn phòng luật sư nhân
quyền yểm trợ tù nhân lương tâm hoặc dân oan. Chúng ta có thể tài trợ cho những
dự án hoặc văn phòng luật sư giúp đỡ các tổ chức công đoàn độc lập cũng như tập
thể công nhân bị bóc lột, bạc đãi đặc biệt là bởi các công ty ngoại quốc như
Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc. Hiện nay trong nước có một nhóm nhỏ làm việc
cho lao động Việt như ông Trương Minh Đức và cô Đỗ Thị Minh Hạnh. Cuối tháng
trước, ông Đức và cô Hạnh đã bị công an bắt và đánh đập chỉ vì họ mời luật sư gặp
và tư vấn pháp lý cho 2000 công nhân Việt nam bị công ty Yopoong của Hàn Quốc
sa thải mà không được bồi thường thích đáng. Hệ thống luật pháp Việt nam chưa
hoàn thiện và chưa có thủ tục class action nhưng một văn phòng luật sư có thể đại
diện cho tập thể công nhân tiến hành kiện công ty đồi bồi thường cho công nhân
nếu công ty đó vi phạm hợp đồng lao động.
Thứ
ba là yểm trợ hoặc tài trợ phương tiện kiến thức. Hiện nay, các tổ chức xã hội
dân sự cũng như nghiệp đoàn độc lập trong tương lai cần được giúp đỡ về việc
thành lập, quản trị và điều hành một tổ chức phi chính phủ một cách hữu hiệu.
Chúng ta có thể tài trợ cho các khoá huấn luyện quản trị và lãnh đạo
(management và leadership courses) giúp các tổ chức điều hành và liên kết hiệu
quả hơn. Các hình thức sinh hoạt của một đoàn thể, tổ chức công ty như họp định
kỳ hàng tháng, nghị trịnh, biên bản, báo cáo tài chánh, kế hoạch gây quỹ và thu
hút thành viên có thể quen thuộc đối với chúng ta nhưng chưa phổ biến và thông
dụng trong nước. Chúng ta có thể mời một số người có khả năng và kinh nghiệm thực
hiện các khoá huấn luyện này qua internet hoặc skype hoặc tài trợ cho một nhóm
người trong nước thực hiện các khoá huấn luyện này. Chúng ta có thể vận động với
Tổng Công đoàn Úc ACTU để đưa những người có khả năng lãnh đạo nghiệp đoàn sang
Úc làm internship học hỏi kinh nghiệm ví dụ như hiện nay có anh Nguyễn Anh Tuấn
là một thành viên của VOICE đang làm internship với Dân biểu Chris Hayes. Công
việc của anh gồm có theo ông Hayes ra vào Quốc hội Liên bang và làm quen với hệ
thống quyền lực và hành lang lập pháp của Úc. Trong tương lai, hy vọng là anh sẽ
có cơ hội chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm quý báu này với nhiều người
trong nước về tiến trình thực thi dân chủ mà trong đó mọi người dân bình thường
hiểu được phương cách vận hành của các cơ chế quyền lực.
Thứ
tư là yểm trợ tiếp cận thông tin. Chúng ta có thể yểm trợ hoặc tài trợ cho các
trung tâm nghiên cứu hoặc viện nhân quyền gồm có quyền lao động dưới TPP. Có thể
tài trợ cho các ủy ban TPP tại Uc, Mỹ, Canada và Việt Nam thành lập một trang mạng
song ngữ chuyên biệt về TPP và quyền lao động. Mọi tin tức liên quan tới quyền
lao động được cập nhật kịp thời. Chúng ta có thể tài trợ cho việc in ấn một cuốn
cẩm nang nhỏ về quyền lao động và phân phát cho mọi giới công nhân ở Việt Nam.
Cũng nên nghĩ tới việc khuyến khích doanh nhân Việt hải ngoại trong các nước
TPP đầu tư vào thị trường truyền thông tư nhân ví dụ như báo điện tử tư không nằm
dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền. Việt Nam có thể đặt rào cản không cho phép
báo chí tư nhân đối với những người trong nước nhưng không thể ngăn cản
chúng ta làm việc đó. TPP cũng có chương 14 thúc đẩy doanh nghiệp điện tử
(Electronic Commerce). Điều 14.4 của TPP quy định là các quốc gia thành viên
không được đối xử bất lợi với các loại sản phẩm điện số (digital products) mà
tác giả là công dân của các quốc gia thành viên TPP. Các tờ báo ở hải ngoại có
thể mướn ký giả trong nước gửi tin qua mạng. Ít nhất là nên nghĩ tới việc thành
lập một tờ báo kinh tế song ngữ Anh Việt (tương tự như tờ The Economist) giúp
chuyển thông tin hai chiều giữa Việt Nam và các quốc gia TPP.
Tóm
lại, nhân quyền và quyền lao động là một mục tiêu cụ thể có thể nối kết người
Việt hải ngoại ở khắp mọi nơi. Những nguyên tắc của nhân quyền như bình đẳng,
minh bạch và giải trình đều là những chuẩn mực mà mọi người gồm có thế hệ trẻ
Việt nam tại hải ngoại có thể chia sẻ và cảm nhận được dễ dàng. Nhân quyền có
thể giúp chúng ta liên kết không phân biệt chính kiến, tôn giáo, địa lý hoặc tuổi
tác. Riêng tại Úc, Đạo luật Từ thiện ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Dưới
Đạo luật này, tranh đấu và yểm trợ cho nhân quyền được luật pháp công nhận có
tính từ thiện. Mới đây, Tổ chức Yểm trợ Nhân quyền HRRF đã được hưởng quy chế từ
thiện DGR có hiệu lực từ ngày 2/7/2015. Tức là những mạnh thường quân đóng góp
tài chánh cho HRRF sau ngày 2/7/2015 có thể lấy biên nhận khấu trừ khi đi khai
thuế. Có nghĩa là tranh đấu cho nhân quyền có sự yểm trợ của Sở Thuế Úc, chính
phủ Úc và người dân Úc.
Mục
tiêu nhân quyền đặt vai trò trọng tâm của người dân trong nước. Một khi có một
số đông người dân bình thường vượt qua sợ hãi đứng lên đòi lại quyền làm người
thì ngày đó chế độ độc quyền đảng trị phải lui vào bóng tối vì độc quyền không
thể tồn tại cùng với nhân quyền. Trong buổi sinh hoạt ngày 30/10 vừa qua của Tổ
chức Yểm trợ Nhân quyền, chí sĩ Võ Đại Tôn có phát biểu rằng “hoàn cảnh đất
nước đòi hỏi mọi người chúng ta hy sinh cho Tổ Quốc. Không làm được thợ chính
thì làm thợ phụ”. Có lẽ là tất cả chúng ta đều làm thợ phụ. Người dân
trong nước mới đóng vai chính. Mỗi người chúng ta nên đóng góp tùy theo hoàn cảnh,
khả năng và điều kiện của mình. Người Việt hải ngoại đều diễn viên phụ
nhưng phải diễn hết mình, vì đó chính là điều mà tổ quốc Việt Nam đang cần ở
chúng ta trong thời khắc này.
N.V.T.
Sydney
12/12/2015
Nhân
Ngày Quốc Tế Nhân Quyền lần thứ 67
Tác
giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment