Thứ Tư, ngày 23 tháng 12 năm 2015
Hồi
mới dọn tới căn nhà tôi đang ở, sáng sớm đầu tiên có người gõ cửa. Mở ra, tôi
thấy một người đàn ông đang cười toe, tự giới thiệu: “Tôi là hàng xóm của ông,
tôi ở nhà bên trái.” Gặp nhau vài lần, tôi biết ông làm nghề thợ điện. Vài
tháng sau, có bữa tôi thấy một chỗ cắm điện trong nhà không có điện. Tôi sang
gõ cửa, ông hàng xóm qua, ngó tìm một hồi rồi chỉ cho tôi một cái nút đỏ, bấm
vào đó là có điện ngay!
Lễ
Giáng Sinh đầu tiên ở nhà mới, bà hàng xóm bên phải mời cả xóm tới dự tiệc
Christmas, cùng các con các cháu bà ở xa về. Ai cũng mang một món ăn hay gói
quà và thiệp chúc mừng ngày lễ. Từ đó, chúng tôi có thói quen tặng quà hàng xóm
trong dịp lễ Giáng Sinh. Và họ cũng tặng quà lại.
Hơn
mười năm sau, có lúc tôi cũng tự hỏi: Một gói kẹo, cái bánh, giá dưới 10 đô la
như vầy có ích lợi gì cho các người hàng xóm hay không? Họ có vui sướng hơn
chút nào không, hay lại chỉ băn khoăn không biết phải đem nó tặng cho một người
khác – giống như mình, không ai muốn ăn quá nhiều kẹo, bánh!
Như
vậy thì có nên chấm dứt thói quen hàng xóm tặng quà cho nhau không?
Thật
tình, giữa những người hàng xóm khác nhau về nghề nghiệp, tuổi tác, lối sống,
không cùng chung một văn hóa, cả năm chỉ có một lần bầy tỏ tình thân vào dịp lễ
lạc, thì tặng nhau một món quà nhỏ, kèm theo tấm thiệp là tập tục không nên bỏ.
Bởi vì đó là cách duy nhất để biểu lộ tình liên đới.
Nhưng
đối với những người thân của mình thì khác. Người ta có thể chọn tặng quà cho
nhau vào những dịp như đám cưới, sinh nhật, tốt nghiệp, thăng thưởng. Tặng quà
trong những dịp này biểu lộ tình ý đặc biệt đối với người nhận quà. Nếu muốn tặng
nhau trong những ngày lễ chung của xã hội, của hàng trăm triệu người, thì cần để
tâm sao cho món quà hợp với sở thích, nhu cầu của người nhận. Nếu không thì chẳng
khác gì tặng quà hàng xóm.
Tặng
quà đúng nhu cầu và sở thích của anh chị em, của vợ hay chồng, con, cháu, hay
bè bạn, đòi hỏi một cố gắng thường xuyên: Phải thực sự chú ý đến người sống
quanh mình. Chỉ khi quan tâm đến một người mình mới theo dõi và biết người đó
đang cần gì hay vẫn ao ước cái gì. Khi sống gần nhau, nhiều người không hề có
thói quen đó.
Tặng
quà đúng với nhu cầu hoặc sở thích của người nhận thì giá trị món quà tăng lên.
Bên trên giá tiền mua món quà, còn có những giá trị tinh thần khác.
Một
nhà kinh tế học là Joel Waldfogel đã viết một bài nghiên cứu nổi tiếng từ năm
1993, “lên án” việc tặng quà như một việc làm phí phạm, phản kinh tế! Thí dụ, một
người mua cái áo giá 30 đồng tặng tôi, nhưng nếu tôi mua lấy thì cái áo đó giá
20 đồng họa may tôi mới mua. Giáo sư Waldfogel kết luận: Mười đồng bạc thả trôi
xuống sông xuống biển! Trong bài nghiên cứu, ông tính tổng số tiền phí phạm,
“The Deadweight Loss of Christmas” vào khoảng 18% giá mua quà. Năm 2013, người
Mỹ chi trung bình hơn 700 đô la mua quà Giáng sinh, mỗi người đã vứt qua cửa sổ
gần 140 đô la! Năm nay kinh tế khá hơn nhiều, số “phí phạm” cũng tăng theo!
Nhưng cũng trong năm 2013 đó, nhân dịp Christmas các cửa hàng bán lẻ đã mướn
thêm gần 800 ngàn người làm việc; sản lượng quốc gia đã tăng lên để bù lại những
phí phạm dễ thương đó!
Khi
nghiên cứu đề tài trên, Waldfogel yêu cầu mọi sinh viên tham dự hãy bỏ qua những
giá trị tinh thần. Ông nhìn việc tặng quà thuần túy là một cuộc “trao đổi hàng
hóa.” Nói cho công bằng, ông cũng nhìn tới những thỏa mãn tinh thần của người
nhận. Nhưng ông lý luận rằng, với cùng số tiền mua quà đó, nếu đưa tiền cho người
đó đi chọn lấy thì chắc giá trị tinh thần sẽ tăng lên!
Nhưng
làm cách nào so sánh giá trị tinh thần với “thiệt hại kinh tế” tính bằng đô la?
Một người nhận được quà có thể cảm thấy sung sướng vô vàn khi thấy người cho biết
mình đang cần cái gì, hoặc vẫn thích cái gì. Mình mua lấy thì “hiệu quả kinh tế”
cao hơn thật, nhưng mình sẽ không có dịp nhìn thấy mối quan tâm của người cho đối
với mình. Mối quan tâm đó đáng giá bao nhiêu? Nói, “Con yêu mẹ” rất dễ. Nhưng bạn
sẽ chứng tỏ tình yêu đó rõ ràng khi quan sát mẹ trong cuộc sống hàng ngày, biết
mẹ đang cần hay đang muốn gì dù mẹ không nói với ai. Nỗ lực thường xuyên đó lớn
gấp bội so với công đứng xếp hàng ở tiệm, mua bằng được một món quà mẹ vẫn thầm
ước ao.
Trong
kinh tế học, người ta bàn về vấn đề này trong “Lý thuyết Tín hiệu” (signaling
theory) mà một cha đẻ là Michael Spence, giải Nobel kinh tế học năm 2001.
Spence thường nêu thí dụ: Sinh viên tốt nghiệp một đại học nổi tiếng khó khăn
chưa chắc đã học được điều gì hữu ích cho công việc cô ta sẽ làm khi ra trường;
nhưng cái tên trường là một tín hiệu chứng tỏ cô dám đương đầu với những thử
thách trong môi trường khó khăn đó.
Giáo
sư Janet Currie, Đại học Princeton coi giá trị tín hiệu của quà tặng quan trọng
hơn cả giá trị món quà. Tặng quà đúng nhu cầu và sở thích người nhận, giá trị lớn
gấp nhiều lần số tiền mua. Nó đòi hỏi công phu, cố gắng, thường xuyên chú ý đến
người thân bên mình. Ngay cả những món quà tặng hàng xóm kể trên đầu bài này,
cũng chứa một tín hiệu: Chúng tôi muốn làm những người bạn xóm tốt, sớm lửa tối
đèn có nhau. Tín hiệu đó không tính thành số đô la được.
Hai
giáo sư môn tiếp thị, marketing, cho biết ngay giữa những người thân cận
ở bên mình, chúng ta cũng thường đoán nhầm sở thích của nhau khi tặng quà. Davy
Lerouge và Luk Warlop làm trắc nghiệm với nhiều cặp vợ chồng đã sống lâu với
nhau, thấy rằng trong việc mua bàn ghế giường tủ trong nhà, rất nhiều người
nghĩ sai khi đoán về sở thích của người bạn đời. Những người đoán trúng thường
vì hai vợ chồng vốn chung một sở thích với nhau. Lần sau nếu quý ông muốn mua tặng
quý bà một cái bàn trang điểm, hãy mời quý bà đi chọn. Sẽ mất cái thú nhìn đôi
mắt ngạc nhiên người bạn đời khi mở món quà ra, nhưng còn hơn là chính mình
khám phá ra người nhận quà không thích mầu hay kiểu bàn, ghế mình tặng! Có những
ông chồng mua tặng vợ cái khăn quàng mầu tím, rồi ngạc nhiên hỏi: Anh thấy Cưng
vẫn thích mầu tím mà? “Cưng” phải mất công giải thích: Đó là hồi mình mới quen
nhau kìa! Thế suốt 30 năm rồi ông đi “cải tạo” những nhà tù nào? Trong nhà đã
có 800 cái khăn quàng tím rồi!
Câu
chuyện cặp vợ chồng kể chỉ để đùa cợt thôi, còn theo các cuộc nghiên cứu thì “tặng
quà sai” nặng nhất không phải là các người phối ngẫu. Những món quà “vô duyên”
thường là do những cô, dì, chú, bác. Họ không có mấy dịp gặp gỡ, cho nên cũng
không thể quan sát cuộc sống, nhu cầu và sở thích của các cháu! Nhưng ngay
trong trường hợp đó, người ta vẫn nhận được một tín hiệu: Chú, bác, cô, dì vẫn
nghĩ đến mình!
Cuộc
nghiên cứu của hai giáo sư kinh tế học Sara Solnick và David Hemenway cho thấy
giá trị tinh thần của món quà lên rất cao nếu đó là những món quà tặng bất ngờ.
Một người không nghĩ sẽ được bạn tặng quà, hay không ngờ sẽ được bạn tặng món
quà đó, thì họ sẽ rất sung sướng khi được tặng. Họ cảm thấy người tặng quan tâm
đến mình nhiều hơn mình vẫn tưởng.
Vậy
người Mỹ nghĩ thế nào về luận đề của Giáo sư Waldfogel? Năm 2013, Đại học
Chicago mời một số người có tiếng đến, hỏi có đồng ý với mệnh đề sau đây hay
không: “Tặng quà trong dịp lễ lạc là thiếu hiệu quả kinh tế, vì người nhận có
thể thỏa mãn hơn nếu được cho tiền tự mua.” Đa số không đồng ý. Quà tặng đáp ứng
nhiều mục đích trong tương quan giữa người với người, trao đổi của cải không phải
chỉ là mục tiêu chính.
Giáo
sư Waldfogel đã phân bua rằng: “Nhiều người nghĩ rằng tôi chủ trương không nên
cho quà, chỉ nên tặng tiền mặt thôi! Không phải như vậy!” Ông nói: “Quý vị cứ
tiếp tục tặng quà nhau đi, nhưng nên nhớ rằng mình không biết rõ người được tặng
như mình tưởng đâu. Điều quan trọng nhất là phải suy nghĩ tỉnh thức khi tặng
quà.”
Cuối
cùng, nói theo kinh tế học, khi tặng quà, chúng ta cần giảm thiểu đến cùng
(minimising) những phí phạm kinh tế, như Waldfogel cảnh cáo; đồng thời nên nâng
giá trị tinh thần lên tối đa (maximising). Khi không biết rõ người nhận muốn
gì, cần gì, thì chọn một món quà không đắt để minimising phí tổn kinh tế, và
maximising giá trị tinh thần bằng những cử chỉ, những lời nói, hay những cuộc gặp
gỡ trong tình thân yêu, nhân dịp lễ Giáng Sinh này. Muốn tặng thêm tiền bạc, có
thể làm vào dịp khác.
No comments:
Post a Comment