Gửi
tới BBC từ Manila
6
tháng 5 2015
Vài
tuần trước, tôi tình cờ đọc một bài báo khẳng định rằng vào dịp kỷ niệm lần thứ
40 sự thất trận của Sài Gòn dưới tay các lực lượng Cộng sản miền Bắc Việt Nam,
quốc gia bây giờ được gọi đơn giản là Việt Nam đã vượt qua được quá khứ, với một
thế hệ trẻ thích mua sắm đang chạy theo lối sống Âu Mỹ và hưởng thụ những thành
quả kinh tế.
Tác
giả là một Việt Kiều (“Người Việt Hải Ngoại’, một thuật ngữ ám chỉ những người
lớn lên ở phương Tây) cũng giống như tôi. Cô tỏ vẻ kinh ngạc vì chỉ bốn thập
niên sau khi thoát khỏi chiến tranh, nhiều cựu "thuyền nhân" đã biết
cách xoay sở để tìm vận may làm giàu ở một nước mà cha mẹ họ đã bỏ chạy trong
hoảng loạn và nước mắt.
Tuy
nhiên cô nhìn nhận, không phải Việt Kiều nào cũng vượt qua được chuyện đau buồn.
"Một số người vẫn bị ám ảnh bởi chiến tranh và áp bức,” cô viết.
Lúc
ấy, tôi cảm thấy bài viết gần như quá ngu ngơ và ấu trĩ. Và bất ổn hơn thế nữa
khi người viết có sức thuyết phục, trích dẫn nhiều Việt Kiều, kể cả Henry Nguyễn,
một cựu chuyên gia của tập đoàn Goldman Sachs, từng tốt nghiệp đại học Harvard,
người mà năm ngoái đã thành công mang McDonald’s vào Việt Nam.
Ngẫu
nhiên, Henry Nguyễn không ai khác hơn là con rể duy nhất của Thủ tướng Việt Nam
Nguyễn Tấn Dũng.
Nếu
một người có lý lịch như tác giả mà vẫn không nhận thức được lý do đích thực vì
sao nhiều người Việt ở hải ngoại vẫn chọn không trở về quê hương mình sau 40
năm, thì chúng ta còn mong được gì từ cả thế giới ngoài kia?
Thật
quá đơn giản để cho rằng quá khứ đắng cay đã cản đường về của họ. Trên thực tế,
đối với nhiều người, điều đó không phải là sự thật. Họ không quay trở lại đơn
giản là vì những vi phạm nhân quyền trắng trợn vẫn đang tiếp tục được gây ra bởi
cùng một chế độ đã từng bức hại họ. Hãy tưởng tượng chế độ Phát xít Đức Quốc xã
vẫn đang nắm giữ quyền lực tại nước Đức hiện nay. Xin hỏi có ai dám giả định y
như thế?
Cộng
sản Việt Nam dĩ nhiên không phải là Đức Quốc Xã. Chế độ này không thiết lập những
cánh đồng chết như Pol Pot đã làm ở Cambodia, cũng như họ chưa bao giờ sử dụng
các buồng hơi ngạt để bóp nghẹt và tiêu diệt các nhóm thiểu số. Nhưng những gì
chế độ Việt Nam đang thi hành là bóp nghẹt và làm bặt tiếng những người bất đồng
chính kiến bằng cách đàn áp những ai dám thách thức quyền lực tuyệt đối của họ.
Trần
Huỳnh Duy Thức, một nhà đấu tranh, đã bị kết án 16 năm tù vì đã cùng chắp bút một
tuyên ngôn chính trị mang tên "Con đường Việt Nam". Một nhóm tự lập
khác dựa trên đức tin, phát xuất từ miền Trung Việt Nam và được biết qua danh
xưng ‘Bia Sơn’ đã bị giải tán cách đây hai năm với tất cả 22 nhà lãnh đạo trong
nhóm bị bố ráp và bỏ tù giam, từ 10 năm đến chung thân.
Bởi
thế, nó không chỉ là một điều quá ngu ngơ mà còn là một sai trái khi bạn sử dụng
một cụm từ nhàm chán để giải thích sự căng thẳng sâu sắc giữa cộng đồng người
Việt ở hải ngoại có 4 triệu người và nhóm quyền lực thống trị ở Việt Nam. Sự
chia rẽ ấy không chỉ đơn thuần là một bi hài kịch. Mà nó nói về một cộng đồng
lưu vong, sau 40 năm di tản tìm tự do, không muốn gì khác hơn là mang chính những
quyền tự do đó về lại quê hương của họ.
Có
lẽ tôi không nên chê trách người viết Việt Kiều này, người mà rất có thể đã
không lớn lên dưới chế độ cộng sản như tôi. Bởi chuyện làm tôi luôn cảm thấy ngạc
nhiên là sự thiếu vắng tranh luận một cách trầm trọng về đất nước Việt Nam cũng
như những gì đã và đang xảy ra ở đó. Lập luận phổ biến thường chỉ nhắc về một
cuộc chiến do Mỹ chủ trương và mang tiếng bại trận hoặc đó là một con hổ đang
lên hiện đang thu hút được cả hai: các nhà đầu tư và khách tây ba lô.
Sau
40 năm
Chỉ
mới tuần trước, nhà báo Anh kỳ cựu Nick
Davies đã viết một bài báo dài mang tựa đề "Việt Nam 40 năm sau: Làm thế nào một chiến thắng của cộng sản đã
nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản lũng đoạn”. Phần lớn những điều tra trong
bài viết này liên quan đến nguyên nhân và sự tàn phá của chiến tranh đã mang đến
cho những người dân Việt Nam, khi ông Davies ghi nhận: "Mỹ đã bỏ lại một
Việt Nam trong tình trạng bị hủy hoại’.
Lạ
lùng thay, thực trạng của hàng trăm ngàn quân nhân cán chính miền Nam bị gửi đi
các "trại cải tạo" bởi bên thắng cuộc lại không hề được đả động đến
trong bài viết của ông Davies. Cũng như dữ kiện hơn một triệu thuyền nhân Việt
Nam đã phải bỏ nước ra đi, không phải trong chiến tranh mà khi hoà bình đã đến.
Đối
với nhiều người, trên thực tế, hòa bình chưa bao giờ ngự trị trên quê hương họ
và nhất định không thể là từ ngày định mệnh ấy của năm 1975. Vì như một người tị
nạn nổi tiếng, nhà bác học
Albert Einstein, từng nhận xét: "Hòa bình không chỉ đơn thuần là không
có chiến tranh, mà là sự có mặt của công lý."
Tuy
vậy, hình như đang có một sự nhận thức, chậm nhưng hiện đang xảy ra, nhất là đối
với phong trào phản chiến có chủ ý tốt trong thập niên 60 của Mỹ. Đó là một thực
tế ở Việt Nam, là cuối cùng đất nước này đã gặt hái được sự tồi tệ nhất của cả
hai thể chế: một nhà nước xã hội chủ
nghĩa độc đoán đi đôi với sự thái quá không kềm chế của chủ nghĩa tư bản. Vì
vậy cả một dân tộc đã bị cướp đi quyền làm người lẫn một cuộc sống sung túc,
trong lúc giới cầm quyền chóp bu bỏ ”đầy tiền vào túi tham và núp đằng sau những
ngôn từ rỗng tuếch của một cuộc cách mạng." Điều đó, ông Davies kết luận,
là sự dối trá vĩ đại nhất.
Ước
chi ông và thế giới đã đi đến cùng một kết luận như thế, 40 năm về trước.
*
Bài
thể hiện quan điểm riêng của ông Trịnh Hội, một luật sư Úc gốc Việt đang làm
cho VOICE, một tổ chức NGO giúp phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam. Bản tiếng
Anh của bài đã đăng trên trang USToday ở đường
dẫn này. Bản tiếng Việt do Thái Anh từ Hoa Kỳ chuyển ngữ.
Tin
liên quan
·
·
·
·
·
No comments:
Post a Comment