NGƯỠNG
THẤP CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
Phạm Xuân Nguyên
Sau
50 năm từ khi chiến tranh kết thúc (1975), thống nhất đất nước, và gần 40 năm đổi
mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đang bước vào nhóm các nước có ngưỡng trung
bình cao trên thế giới.
Còn
văn học Việt Nam đang ở ngưỡng nào của thế giới? Câu trả lời của tôi là: Ở ngưỡng
thấp, dưới trung bình.
1.
Trong
nửa thế kỷ qua, tác phẩm văn học Việt Nam được dịch nhiều nhất, được biết đến
nhiều nhất trên thế giới là tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo
Ninh. Sau khi xuất bản năm 1990 và được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam
(HNVVN) năm 1991, “Nỗi buồn chiến tranh” được các dịch giả Phan Thanh Hảo, Võ
Băng Thanh và Katerina A. Peirce dịch sang tiếng Anh và xuất bản đầu tiên năm
1992 tại NXB Martin Secker & Warburg (Anh). Từ bản dịch tiếng Anh đó, nhiều
bản dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang các thứ tiếng khác đã được thực hiện, cho
tới nay theo con số chưa đầy đủ “Nỗi buồn chiến tranh” đã được dịch ở hơn hai
chục ngữ. Nó trở thành tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam trên thế giới.
Năm
2008, tôi có bài tổng quan về sự tiếp nhận tác phẩm này ở Mỹ cho thấy nó được
đánh giá rất cao, có người xếp ngang với cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Phía Tây
không có gì lạ” của nhà văn Đức E.R. Remaque. Bản dịch “Nỗi buồn chiến tranh” gần
đây nhất là bản tiếng Trung của dịch giả Hạ Lộ, Phó giáo sư, tiến sĩ văn học Việt
Nam tại Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Nhà văn hàng đầu của văn học Trung Quốc
hiện nay Diêm Liên Khoa trong bài giới thiệu đã đánh giá “Nỗi buồn chiến tranh”
cực kỳ cao. Ông đặt tên bài viết của mình là “Tầm cao của văn học chiến tranh
Phương Đông”. Ông viết:
“Tôi
với tư cách là một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân đội, đọc xong tiểu
thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ cuối những năm
80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có thể dịch “Nỗi buồn
chiến tranh” sang tiếng Trung thì nhận thức của chúng ta đối với văn học Việt
Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay; văn học quân đội Trung Quốc
cực kỳ cũ kỹ và trì trệ hôm nay cũng nhất định sẽ không bảo thủ, bó chân và tụt
hậu như vậy. Thậm chí có thể nói, nếu như có thể kịp thời dịch và giới thiệu “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, văn học quân đội Trung Quốc ngày ấy và bây giờ
đều rất có thể đã mang một cảnh sắc và sinh khí khác.
Nghiền
ngẫm “Nỗi buồn chiến tranh” với tư cách là một tiểu thuyết chiến tranh phương
Đông trong bối cảnh văn học thế giới và so sánh nó với dòng văn học chiến tranh
mà chúng ta có thể đọc được của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, rõ ràng
“Nỗi buồn chiến tranh” đánh dấu tầm cao của một thứ văn học mới. Một tác phẩm cực
hiếm của một nhà văn châu Á phương Đông, hiếm có trong những miêu tả, nhận thức,
phê phán thẩm mĩ đối với chiến tranh, hiếm có trong những lý giải và tình yêu
đối với con người, những suy tư về nhân tính, hiếm có cả trong biểu đạt nghệ
thuật – một phương diện cá tính nhất, quan trọng nhất đối với một nhà văn”. (Thiên Thai, dịch
từ tiếng Trung).
Một
nhà văn Việt Nam tiêu biểu khác có tiếng vang ra thế giới là Nguyễn Huy Thiệp
(1950-2021). Tác phẩm của ông cũng đã được dịch ra một số thứ tiếng. Riêng ở
Pháp, và chủ yếu ở Pháp, Nguyễn Huy Thiệp được dịch nhiều nhất. Đặc biệt
Éditions de l’Aube, một nhà xuất bản tư nhân nhỏ tại Paris, đã cho dịch gần như
toàn bộ các tác phẩm truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Pháp.
Éditions
de l’Aube thành lập năm 1987, chủ trương dịch và in sách của các tác giả ở các
“nền văn học nhỏ” và các tác giả “có triển vọng”. Trong danh mục sách của Nhà
xuất bản này có sách của các tác giả Iran, Afghanistan, Trung Quốc, Algérie, Việt
Nam (ngoài Nguyễn Huy Thiệp còn có Tô Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Thiều,
Vũ Bão…). Ngoài ra, còn có rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trên thế giới (Václav
Havel, Cao Hành Kiện, Tony Blair…).
Chính
d’Aube trong một tham vọng của mình, được khích lệ bởi thành công trước đó với
Cao Hành Kiện – nhà văn Pháp gốc Trung Quốc từng in những tác phẩm dịch ra tiếng
Pháp đầu tiên ở đây về sau đã được giải Nobel văn chương (2000), chính d’Aube
đã gợi ý Nguyễn Huy Thiệp viết tiểu thuyết (trước 2013 giải Nobel văn chương
trao cho nhà văn là phải có tiểu thuyết). Được sự thúc đẩy ấy, Nguyễn Huy Thiệp
đã viết tiểu thuyết ‘Tuổi hai mươi yêu dấu’ và nhanh chóng khi bản tiếng Việt
chưa in/ chưa được in trong nước thì bản thảo đã có bản dịch tiếng Pháp in tại
Paris. Éditions de l’Aube đã chọn đó là cuốn sách thứ 1.000 kỷ niệm 18 năm hoạt
động của mình.
Dịp
ra mắt sách Tuổi hai mươi yêu dấu Nguyễn Huy Thiệp đã được mời sang Paris giao
lưu và ký sách (tôi khi ấy đang ở Pháp có đến dự). Khi Nguyễn Huy Thiệp mất,
nhà văn Linda Lê (1963/2022) trong bài viết tưởng nhớ có tên “Sự biến mất của kẻ
gây hấn” đã đánh giá:
“Dù
nói về tình yêu đất nước, nỗi thương nhớ đồng quê hay những mưu mô trong cung
đình hoặc thậm chí là về thơ, Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ mình là một người bài
thánh rung lên hồi chuông, một nhà văn có con mắt linh miêu, một nhà mổ xẻ sắc
bén đã thọc mũi dao vào lõi của sự thỏa hiệp, một nghệ sĩ đi rất sát với hiện
thực để cười nhạo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, một người kể chuyện
không là tiền quân cũng không là hậu quân, người không phải là nhà tiên tri ở đất
nước mình. Sự biến mất của Nguyễn Huy Thiệp là sự biến mất của một kẻ nổi loạn
đã biến văn chương của mình thành sự gây hấn”. (Ngân Xuyên, dịch từ tiếng
Pháp)
Trên
đây là hai nhà văn nổi tiếng nhất Việt Nam thời Đổi Mới đã được dịch nhiều nhất
ra thế giới (một người là một cuốn tiểu thuyết, một người là các truyện ngắn).
Từng nghe ồn là cả hai ông đã có được đề cử giải Nobel văn chương. Thực hư thế
nào phải đợi đến năm mươi sau khi thông tin này được Uỷ ban Nobel giải mật thì
mới rõ. Chỉ biết Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp qua các bản dịch đã được độc giả
thế giới biết đến, nhưng là được biết đến trong một cộng đồng văn chương hẹp.
2.
Tôi
nói một cộng đồng văn chương hẹp là nhìn rộng ra cả thế giới. Văn học châu Á
chưa phải là khu vực nổi bật. Trong châu Á thì văn học Đông Nam Á càng rất thiểu
số. Văn học Việt Nam đi ra thế giới nằm trong thiểu số đó.
Có
hai trở ngại trên con đường văn học Việt Nam xuất ngoại và tạo dấu ấn.
2.1. Thứ nhất là chất lượng
tác phẩm. Nửa thế kỷ qua văn học Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, đã có
những bứt phá so với chính mình về nội dung và nghệ thuật, đã có những tác giả
và tác phẩm tạo được bề nổi. Có thể nói văn học Việt Nam năm mươi năm
(1975-2025) là một thời kỳ phát triển mới, đa dạng phong phú hơn nhiều so với
thời kỳ trước đó. Nhưng nói thực đó vẫn là nền văn học chưa VƯỢT ĐƯỢC NGƯỠNG
MÌNH. Số phận dân tộc Việt Nam thế kỷ XX chứa đựng trong mình những chấn thương
lịch sử ghê gớm, khủng khiếp mà văn chương chỉ mới gãi ngoài da. Nhà văn Việt
Nam cả trong nước và ngoài nước, cả bên này bên kia, đều chưa vượt thoát lên được
tầm dân tộc, chưa nói đến tầm nhân loại, để suy nghĩ về người Việt nước Việt
trong lịch sử tàn khốc xảy ra trên đất nước này thế kỷ vừa qua. Chiến tranh
trong văn học Việt Nam vẫn là chiến tranh được/bị nhìn từ một phía. Lịch sử vì
thế cũng là lịch sử nghiêng về một bên, một phe. Con người trong chiến tranh vẫn
là con người phiến diện. Những tác phẩm thời hậu chiến đã có sự mở rộng đề tài
và khơi sâu nội dung để cái viết về chiến tranh nhiều chiều lớp, nhiều vỉa tầng
hơn, sát thực với hiện thực hơn, tuy nhiên vẫn không chạm được mấy tới những chấn
thương lịch sử của dân tộc. Những cái viết khác ngoài chiến tranh thì thường hời
hợt. Tóm lại, chấn thương của người Việt trong chiến tranh và trong đời sống hiện
đại đều đang nhạt nhoà trong văn chương người Việt. Một hạn chế nữa của văn
chương Việt Nam là cách viết vẫn nặng chủ nghĩa hiện thực, hầu như không có những
thế giới tưởng tượng phi thực trong tác phẩm. Văn chương đó ra thế giới khó gây
được sự chú ý của độc giả nước ngoài là điều dễ hiểu. Nhất là khi đặt cạnh những
tác phẩm của những tác giả châu Á khác tạo được tên tuổi trong bản dịch. Phá bỏ
trở ngại thứ nhất này là điều kiện cần để văn học Việt Nam đủ tầm vươn ra thế
giới.
2.2. Trở ngại thứ hai là
dịch thuật – điều kiện đủ để văn chương vượt biên giới quốc gia. Nghệ thuật
ngôn từ, khác các loại nghệ thuật khác, dùng chất liệu là lời nói, từ ngữ, mà
loài người từ khi bị Chúa phá tháp Babel thì đành phải thông qua dịch mới hiểu
nhau. Nói rằng chúng ta không quan tâm việc dịch văn chương tiếng Việt ra các
ngoại ngữ thì không đúng. Nhưng đó là một sự quan tâm nửa mùa, được chăng hay
chớ, không liên tục, hệ thống, đặc biệt là không có một CHIẾN LƯỢC DỊCH VĂN
CHƯƠNG VIỆT RA NƯỚC NGOÀI TẦM QUỐC GIA. Hội Nhà văn Việt Nam đã bốn lần được
nhà nước rót nhiều tiền để mở hội nghị quảng bá văn học Việt Nam. Hội nghị rùm
beng rình rang kéo từ Hà Nội xuống Quảng Ninh, tiệc lớn tiệc nhỏ, khách ba chủ
nhà bảy, dịch giả nước ngoài thì ít, lại không tinh, cuối cùng tan cuộc là tan
trò, “đầu voi đuôi chuột”. Sau mấy cuộc quảng bá như thế không ai tổng kết xem
đã có bao nhiêu tác phẩm văn chương Việt được dịch ra những thứ tiếng nào, dịch
ra sao, tiếp thị thế nào trên văn đàn thế giới. Điều này tôi đã từng nói ngay
khi những hội nghị đó đang diễn ra.
Thôi
không nói chuyện đã xa, nói chuyện gần đây, bằng vào một trường hợp cụ thể ở một
đất nước Đông Á. Nobel văn chương 2024 đã trao cho nhà văn Hàn Quốc Han Kang
(sinh 1970). Các nhà phê bình văn học nhấn mạnh rằng các chủ đề phổ quát kết hợp
với những chấn thương lịch sử của Hàn Quốc như Cuộc khởi nghĩa dân chủ Gwangju
ngày 18 tháng 5 (1980) và Cuộc khởi nghĩa Jeju ngày 3 tháng 4 và vụ thảm sát
(1948-1949) trong tác phẩm của Han Kang đã thu hút sự chú ý của cộng đồng văn học
nước ngoài. Lời tuyên dương của Uỷ ban Nobel đánh giá Han Kang “bằng một thứ
văn xuôi mang chất thơ mãnh liệt đã đương đầu với những chấn thương lịch sử và
phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người”. Trong phạm vi bài viết này tôi
chỉ muốn nói giải Nobel cho Han Kang là kết quả của cả một chiến lược tiếp thị
văn hoá nghệ thuật Hàn Quốc ra toàn cầu mà chính phủ nước này đã thi hành từ
lâu. Không có chiến lược đó không có sự bùng nổ của văn hoá K-Pop (âm nhạc, điện
ảnh, thời trang, lối sống) như đã và đang thấy hiện nay trên thế giới. Không có
chiến lược đó không có giải Nobel văn chương của Han Kang.
Hàn
Quốc đã làm thế nào trong lĩnh vực văn học?
Han
Kang may mắn có được hai dịch giả tiếng Anh và tiếng Pháp đưa tác phẩm của mình
thành nổi tiếng thế giới. Đó là Deborah Smith, người dịch tiểu thuyết “Người ăn
chay” (2007) từ tiếng Hàn sang tiếng Anh “The Vegetarian” (2015), giành giải
thưởng Booker Quốc tế danh giá của Anh (2016). Và đó là Choi Kyung-ran và
Pierre Bisiou đã dịch tiểu thuyết “Không nói lời từ biệt” từ tiếng Hàn sang tiếng
Pháp “Impossibles adieux” giành giải thưởng Prix Medicis danh giá của Pháp
(2023). Nhưng đằng sau các dịch giả này có sự hỗ trợ to lớn của hai tổ chức lo
việc đưa văn chương Hàn Quốc xuất ngoại.
Đầu
tiên là Viện Dịch thuật Hàn Quốc Quốc (Literature Translation Institute – LTI)
do Chính phủ Hàn Quốc lập ra năm 1996 với mục đích quảng bá văn học và văn hóa
Hàn Quốc ra nước ngoài. LTI Korea thường xuyên tài trợ cho hoạt động dịch thuật
và xuất bản các tác phẩm tiếng Hàn để thúc đẩy hoạt động dịch thuật văn học Hàn
Quốc chất lượng cao và đang thúc đẩy nhiều chương trình trao đổi ở nước ngoài
nhằm tăng cường cơ sở xuất khẩu văn học Hàn Quốc và thiết lập mạng lưới cho các
nhà xuất bản Hàn Quốc và nước ngoài. Viện cũng hoạt động để bồi dưỡng các dịch
giả chuyên nghiệp nhằm nâng cao năng lực dịch thuật văn học Hàn Quốc.
LTI
có ba chương trình hoạt động chính là tài trợ dịch thuật, tài trợ xuất bản, và
đào tạo dịch giả.
Chương
trình tài trợ dịch thuật:
Mỗi quý, LTI Korea lựa chọn và hỗ trợ cho các dự án dịch các tác phẩm văn học
Hàn Quốc như tiểu thuyết, thơ, kịch, phi hư cấu, sách cho thanh thiếu niên, tiểu
thuyết về giới và tiểu thuyết đồ họa. Mỗi đơn đăng ký được đánh giá dựa trên chất
lượng bản dịch và tác phẩm gốc. Từ năm 2014, LTI Korea không hỗ trợ dịch toàn bộ
tác phẩm gốc. Ban đầu, LTI Korea cung cấp khoản tài trợ cho bản dịch mẫu và khoản
tài trợ cho phần còn lại của tác phẩm sẽ được cung cấp sau khi dịch giả và tác
giả ký hợp đồng xuất bản với một nhà xuất bản quốc tế.
Chương
trình tài trợ xuất bản:
được cung cấp cho các nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản quyền đối với các tác
phẩm được dịch với sự hỗ trợ của LTI Korea. Từ năm 2014, LTI Korea cung cấp cả
khoản tài trợ dịch thuật và xuất bản cho các nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản
quyền xuất bản các tác phẩm văn học Hàn Quốc đã được dịch.
Đào tạo dịch
giả: đến
nay LTI đã tổ chức được nhiều khoá học đào tạo các dịch giả văn học của 44 thứ
tiếng, trong đó có các tiếng chính như Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Trung, Nhật.
Bên cạnh việc đào tạo LTI còn lập ra Giải thưởng dịch thuật văn học Hàn Quốc nhằm
khuyến khích các dịch giả trẻ và đang hành nghề.
Tổ
chức thứ hai là Quỹ Văn hóa Daesan (The Daesan Cultural Foundation – DCF), một
quỹ chuyên về văn học đầu tiên và duy nhất trực thuộc một tổ hợp lớn của Hàn Quốc,
và là một quỹ vì lợi ích công cộng trực thuộc Tập đoàn Bảo hiểm Nhân thọ Kyobo.
Quỹ được thành lập ngày 28/12/1992 (tên gọi ban đầu là Quỹ Daesan) với mục đích
đóng góp vào sự phát triển nền văn hóa dân tộc và sự toàn cầu hóa nền văn học
Hàn Quốc. Giải thưởng Văn học Daesan, Chuỗi Văn học Thế giới Daesan và Cuộc trường
chinh châu Á là những hoạt động nổi tiếng của Quỹ. Một trong những mảng hoạt động
chính của DCF là Toàn cầu hoá văn học Hàn Quốc, trong đó tập trung hỗ trợ cho
việc dịch thuật, nghiên cứu và xuất bản văn học Hàn Quốc trong các thứ tiếng.
Tiêu chí ở đây là: HỖ TRỢ DỊCH VÀ XUẤT BẢN CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐÁNG
ĐƯA RA TOÀN CẦU VÀ CÓ TIỀM NĂNG ĐƯỢC CÁC GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG QUỐC TẾ. Có thể
thấy rõ điều này ở Han Kang. Chỉ riêng các tác phẩm của Han Kang đã được hưởng
lợi từ chín khoản tài trợ dịch thuật của DCF, bao gồm sáu đầu sách của bà bằng
bốn ngôn ngữ. Bản dịch tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Người ăn chay” của Han Kang
đã được DCF hỗ trợ từ năm 2014. Nhờ đó các tác phẩm của Han Kang đã có được những
bản dịch tốt “củng cố vị thế của bà như một nhân vật văn học trên toàn cầu và
làm tăng thêm sự quan tâm đến văn học Hàn Quốc trên toàn thế giới” như nhận xét
của ông Kwak Hyo-hwan, cựu chủ tịch LTI Hàn Quốc. Khi biết tin Han Kang được giải
Nobel văn chương 2024 ông nói: “Mặc dù tôi dự đoán đất nước cuối cùng sẽ có một
người đoạt giải Nobel Văn chương, nhưng tôi thực sự ngạc nhiên khi điều đó xảy
ra sớm hơn dự kiến. Bây giờ là lúc phải thực hiện những sự chuẩn bị cần thiết
trong những năm tới để định hình tương lai của nền văn học Hàn Quốc trên trường
quốc tế”.
Hai
tổ chức này, LTI của Chính phủ và DCF của tư nhân, đã thành bệ đỡ cho các tác
phẩm Hàn Quốc đi ra thế giới. Hơn 200 tác phẩm Hàn Quốc hiện được dịch hàng năm
và kể từ năm 2010, các nhà văn Hàn Quốc đã giành được hai đến ba giải thưởng
văn học quốc tế lớn mỗi năm, với một số năm đạt tới sáu hoặc bảy giải thưởng.
Ngay sau thắng lợi của Han Kang, Bộ Văn hoá Hàn Quốc đã thông báo họ đã đảm bảo
được một ngân sách cao hơn để hỗ trợ sách tiếng Hàn được dịch sau chiến thắng
giải Nobel của Han Kang vào tuần trước. Bộ này dự kiến sẽ chi 48,5 tỷ won (35,4
triệu đô la) để quảng bá văn học vào năm 2025, tăng 7,4 phần trăm so với năm
nay.
Đặc
biệt, Bộ Văn hóa đã phân bổ 7,66 tỷ won cho Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc
(LTI). Trong số tiền này, 3,12 tỷ won sẽ hỗ trợ việc xuất bản sách dịch và 4,54
tỷ won sẽ dành cho việc quảng bá chúng. Ngân sách xuất bản tăng 800 triệu won
trong khi ngân sách quảng bá tăng 450 triệu won. “Chính phủ luôn ủng hộ tác giả
Han Kang về các tác phẩm dịch của bà, và khi trường hợp của bà thành công,
chính phủ sẽ mở rộng hỗ trợ cho các tác giả địa phương và xây dựng một hệ thống
dẫn đến thành công toàn cầu của họ”, Shin Eun-hyang, một viên chức chính sách
nghệ thuật tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết. “Chúng tôi cũng sẽ xây
dựng một mạng lưới an toàn cho các nghệ sĩ và nhà văn để đảm bảo rằng họ có thể
tiếp tục với các tác phẩm sáng tạo của mình bất chấp những điều kiện khó khăn”.
Trông
người lại ngẫm đến ta. Tôi xin nhắc lại một lần nữa: chúng ta không có một chiến
lược khả thi đưa văn chương Việt Nam ra thế giới. Trước nay và gần đây vẫn có
những nỗ lực của các cá nhân nhà văn, nhà thơ và những hội nhóm văn chương dịch
văn Việt ra nước ngoài, nhưng đó là những hoạt động nhỏ lẻ, manh mún, ít tạo được
tiếng vang. Cần một chiến lược quy mô quốc gia. Hãy nhìn vào Hàn Quốc và học tập
họ.
1)
Nhà nước cần phải lập ra một Viện dịch thuật văn chương Việt Nam như kiểu LTI.
Phải đầu tư vào đó có bài bản, chương trình. Phải theo đuổi cho những tác giả
được chọn có những bản dịch xứng đáng, khả dĩ có thể vào được các thị trường
văn chương lớn. Tôi thấy hiện nay một nhà văn như Nguyễn Bình Phương là rất
đáng để đầu tư dịch thuật và giới thiệu có hệ thống, bài bản.
2)
Phải lựa chọn và ưu đãi những dịch giả cả trong nước và ngoài nước có khả năng
cho ra những bản dịch văn chương chất lượng, có thể vươn tới những giải thưởng
danh giá trên thế giới. Dịch giả An Lý là một người như vậy. Chị thuộc thế hệ
8x, đã có kinh nghiệm 15 năm dịch văn chương Anh-Việt với nhiều bản dịch các
tác phẩm của các tác giả đương đại nổi tiếng thế giới. Tác phẩm dịch Việt-Anh đầu
tay của chị là tiểu thuyết “Chinatown” của Thuận đã được nhận PEN Translates
Award, một quỹ hỗ trợ các bản dịch chưa xuất bản của English PEN; vào chung khảo
của các giải Republic of Consciousness Prize for Small Presses và giải National
Translation Award, vào sơ khảo giải Warwick Prize for Women in Translation.
Ngày 12/11/2023 An Lý đã trở thành dịch giả Việt Nam đầu tiên được trao giải
thưởng uy tín National Translation Award của Hiệp hội Dịch giả văn học Mỹ
(ALTA).
3)
Lại cũng cần có sự chung tay của tư nhân, doanh nghiệp, lập ra những Quỹ văn
chương như Quỹ Daesan. Cần kêu gọi các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào xuất khẩu
văn chương Việt.
Đừng
chạy theo những hội hè đình đám nữa, mà hãy đi vào thực chất. Hàn Quốc đã làm
được thế mà họ còn coi giải Nobel của Han Kang như một sự khởi đầu. Tôi lại xin
dẫn lời Kwak Hyo-hwan, cựu chủ tịch LTI Hàn Quốc: “Việc dịch thuật mất thời
gian nhưng tôi thường nhấn mạnh đến sức mạnh của văn học. Văn học giống như một
bản đồ địa hình phản ánh một thời đại hoặc một xã hội cụ thể. Một khi đã được dịch,
nó không chỉ mang theo văn bản mà còn mang theo cả tinh thần của thời đại đó.
Theo nghĩa đó, tác động mà nó sẽ có khi đến được với những đối tượng mới sẽ rất
lớn. Giải Nobel đã đưa văn học Hàn Quốc lên vị thế trên sân khấu văn học toàn cầu,
làm nổi bật ý nghĩa lịch sử và tinh thần sâu sắc, rộng lớn và phong phú của nó.
Chúng ta không nên chỉ hài lòng với thành tựu này; chúng ta phải nỗ lực mở rộng
và làm giàu nền tảng này. Các chính sách văn hóa cũng nên tập trung nhiều hơn
vào khía cạnh này để các nhà văn mới có thể phát triển.”
Văn
học Việt Nam cứ là nằm ở ngưỡng thấp, còn lâu mới lên được ngưỡng trung bình thế
giới, nếu không dốc sức phá bỏ hai trở ngại nói trên. Các nhà văn hãy vượt qua
chính mình và vượt qua những rào cản xã hội để sáng tạo ra những tác phẩm văn
chương tiếng Việt chất lượng cao. Nhà nước hãy tạo điều kiện tốt nhất cho những
tác phẩm đó có được hoá thân chất lượng cao trong các thứ tiếng khác. Còn
không, kinh tế Việt Nam có thể vượt qua ngưỡng trung bình thu nhập, nhưng văn học
Việt Nam vẫn nằm dưới ngưỡng trung bình sự chú ý của thế giới.
Hà
Nội, 26/11/2024
pxn
____
– Ghi
chú của tác giả: Bài viết cho Hội nghị “50 năm văn học Việt Nam từ 1975:
Thành tựu và Xu thế” nhưng không kịp gửi, cũng không đến dự, nên cũng không đọc
hay phát biểu. Đưa lên để mọi người đọc.
HÌNH
: https://www.facebook.com/photo/?fbid=8966913320031990&set=a.379297302127011
.
No comments:
Post a Comment