Đêm
về khuya. Chỉ còn tiếng toa tàu va vào nhau, tiếng bánh xe nghiến trên đường
ray. Trời tối đen, phải dán mắt trên cửa kính mới nhìn thấy một vài ngôi sao mờ
từ rất xa. Thỉnh thoảng vài ánh đèn đường loáng qua ngoài cửa sổ. Từ lúc rời ga
Vinh, tàu vẫn chưa dừng lại. Tôi đoán là tàu đang ở đâu đó trên địa phận Hà
Tĩnh.
Không
ngủ được, tôi ngồi nhìn ra cửa sổ nghe tiếng đêm trên chuyến tàu khuya. Tôi
nghĩ đến những điều mà lâu nay tôi đã không còn nghĩ đến. Tôi nghĩ đến những điều
mà lâu nay tôi đã thu xếp lại chờ cho thời gian trôi qua thêm nữa. Tôi nghĩ đến
Quảng Trị và những tang thương đổ nát trên mảnh đất này.
Anh
bạn mới quen đã ngủ, nhưng lâu lâu tôi vẫn nghe tiếng anh trở mình. Anh bước
lên khoang tàu của tôi hồi chiều, trước khi tàu rời ga Hàng Cỏ. Tàu chưa chuyển
bánh thì chúng tôi đã nhận ra nhau: Chúng tôi đều đã ra đi từ Quảng Trị. Anh ra
Bắc với bố anh; tôi vào Nam với mẹ tôi. Câu chuyện kéo dài đến quá nửa đêm. Tôi
không nhớ hết là chúng tôi đã nói những chuyện gì. Nhưng tôi nhớ là chúng tôi
đã nói rất nhiều về Quảng Trị, về cuộc chiến tranh đã đi qua lâu rồi mà dường
như chưa bao giờ kết thúc. Bằng sự tinh tế và quý mến nhau, chúng tôi đã khéo
léo để không chạm đến những điều mà hai đứa, từ trong sự nhạy cảm và trải nghiệm
của những người luôn canh cánh bên lòng nỗi đau quê hương, hiểu rằng vẫn còn những
khoảng cách chưa vượt qua được. Và chúng tôi đã nói nhiều đến tương lai.
Quảng
Trị sẽ không có tương lai nào cả cho đến khi những người con của nó biết hòa giải
với nhau - tôi nói, khi đêm đã về khuya. Một thoáng im lặng trôi qua
trong bóng đêm. Tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt. Vài ánh đèn đường loáng
qua ngoài cửa sổ. Tôi có cảm giác là anh cũng đang nghĩ điều tôi nghĩ. Tôi có cảm
giác cả hai chúng tôi đều hiểu rằng câu chuyện phải dừng lại vì nếu không phải
đêm đã khuya thì trước mặt chúng tôi là hố thẳm.
Sáng
sớm hôm sau, anh xuống ga Đông Hà, tôi đi tiếp vào Đà Nẵng. Tôi bắt tay anh thật
chặt, tiễn anh xuống tàu rồi nhìn theo cho đến khi tàu chuyển bánh. Chúng tôi hẹn
sẽ gặp lại nhau lúc nào đó.
Từ
lâu trong tôi, câu chuyện của Quảng Trị được soi rọi qua câu chuyện giữa những
đứa con đã đi xa của nó. Chỉ đo lường cái khoảng cách giữa họ đối với những
chuyện đau thương đã xảy ra với Quảng Trị trong cuộc chiến vừa qua, bạn có thể
thấy sự vô vọng của xứ sở đó. Không nơi nào trên mảnh đất Việt Nam mà lòng người
li tán như ở Quảng Trị. Không nơi nào trên mảnh đất Việt Nam mà nhu cầu hòa giải
quốc gia - điều mà chúng ta đã nói đến hơn ba mươi năm nay, và càng lúc càng
vang vọng trong tâm thức của nhiều người - trở nên bức thiết như ở Quảng Trị.
Nơi đó có một chiều dài lịch sử của chuyện chém giết tàn khốc giữa những người
anh em đã làm nên cái quốc gia mà ngày nay chúng ta gọi là Việt Nam.
Cuộc
chém giết gần đây nhất là trận chiến Quảng Trị năm 1972. Trận chiến đó kéo dài
từ tháng Tư, khi quân miền Bắc tràn qua sông Bến Hải tấn công Quảng Trị, cho đến
tháng Chín, khi quân miền Nam phản công tái chiếm Cổ thành. Trước sau đã có hơn
ba mươi ngàn binh lính miền Bắc và hơn hai mươi ngàn binh lính miền Nam bị giết.
Đó là chưa nói đến hàng ngàn thường dân vô tội chạy loạn bị sát hại bởi pháo của
quân miền Bắc bắn cản quân miền Nam rút lui khỏi Đông Hà.
Nhưng
trận chiến Quảng Trị năm 1972 không phải là cuộc chém giết đầu tiên giữa
những người Việt Nam trên đất Quảng Trị. Cái nơi mà “Minh Thực lục” gọi là đất
Việt Thường trong câu chuyện cống chim trĩ cho vua nhà Chu trong cổ sử Trung
Hoa, địa đầu của đất Champa, đã là chiến địa của quân miền Bắc và quân miền Nam
trong suốt chiều dài lịch sử hình thành quốc gia Việt Nam hiện đại. Hơn sáu
mươi ngàn binh lính và mấy ngàn thường dân bị giết trong trận chiến Quảng Trị
chỉ là những con số trong những con số lớn hơn nhiều, tích lũy trong suốt chiều
dài của lịch sử chiến tranh Bắc-Nam. Con số đó là bao nhiêu, không ai có thể biết.
Bao nhiêu người đã chết cho ý chí thống nhất của các thế lực chính trị
người Việt Nam? Chúng ta chưa bao giờ trả lời câu hỏi này.
Chỉ
bốn tháng rưỡi sau trận Gettysburg, và phải hai năm sau cuộc nội chiến mới kết
thúc, Tổng thống Abraham Lincoln của nước Mỹ, thủ lĩnh của quân miền Bắc, đã
nói những điều như thế này để vinh danh hơn bảy ngàn người lính của cả hai phía
Bắc-Nam đã ngã xuống trong trận chiến này:
“Chúng
ta tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại nhằm thử thách sức chịu đựng bền bỉ của
đất nước này... Chúng ta gặp nhau ở đây, trên bãi chiến trường này. Chúng ta đến
đây để cung hiến một phần của mảnh đất, nơi yên nghỉ cuối cùng của những người
đã hiến dâng mạng sống mình để đất nước tồn vinh”.
Hơn
bốn mươi năm sau trận chiến Quảng Trị, và bốn mươi năm sau khi cuộc nội chiến
đã kết thúc, số binh lính và thường dân đã chết của một phía chiến tuyến vẫn bị
lãng quên. Số phận của họ vẫn bị quyền lực giẫm lên, vẫn bị quyền lực thóa mạ để
bảo vệ mục đích chính trị của nó. Ngày nay về Quảng Trị bạn chỉ thấy tượng đài
tôn vinh và nghĩa trang liệt sĩ của bên thắng cuộc. Hàng chục ngàn sinh mạng
ngã xuống cho cùng một mục đích, ở trên cùng một mảnh đất đó, của phía bên kia
đã bị gạt ra bên lề lịch sử. Trước sự thô lỗ và hung bạo của quyền lực chính trị
hiện nay, chúng ta không có hy vọng nào cho sự bắt đầu của một tiến trình hòa
giải với những tội ác và bất công chồng chất mà nó đã gây ra. Chúng ta không có
lựa chọn nào hơn là chờ đợi.
Nhưng
chúng ta có thể bắt đầu tiến trình hòa giải với nhau. Tiến trình hòa giải quốc
gia luôn bao gồm hai phần như hai mặt của một đồng tiền: 1. Hòa giải những tội
ác và bất công mà quyền lực chính trị đã gây ra trong tiến trình hình thành và
thống nhất quốc gia, và 2. hòa giải và xây dựng ý thức quốc gia. Phần đầu thuộc
về trách nhiệm của quyền lực chính trị, và như đã nói, chúng ta phải đợi. Phần
thứ hai thuộc về ý thức quốc gia ở chính chúng ta. Sự thiếu vắng ý thức quốc
gia ở chúng ta có lý do lịch sử. Nó là hậu quả của tiến trình hình thành và
phát triển không bình thường của quốc gia Việt Nam. Việc nhận thức lại lịch sử
hình thành và phát triển quốc gia sẽ giúp thay đổi thái độ bất dung, tự mãn,
hay mặc cảm, và sự thiếu vắng ý thức quốc gia ở chúng ta. Kết quả của tiến
trình này là sự bao dung các quan điểm khác biệt, kể cả các quan điểm về nguồn
gốc dân tộc, về lịch sử, về chiến tranh và ý thức hệ. Nhận diện quốc gia Việt
Nam là sự kết hợp, phần lớn qua chiến tranh, của nhiều cộng đồng văn hóa-lịch sử
khác nhau - mà trong đó không có cộng đồng nào, dù đông đến đâu, không có phe
phái nào, dù quyền lực chính trị mạnh đến đâu có quyền nhân danh quốc gia để áp
đặt bất công hay để loại trừ các cộng đồng văn hóa-lịch sử khác - là bước đầu
tiên trong tiến trình hòa giải.
Sự
thô bạo của quyền lực đối với lịch sử là nhằm mục đích bảo vệ quyền lực.
Nhưng không lý do gì mà chúng ta, những đứa con của Quảng Trị, không thể hòa giải
với nhau để trả lại công lý cho hàng chục ngàn người đã bị giết trong trận chiến
Quảng Trị.
Trên
chuyến tàu đêm về sáng đó, tôi đã mơ đến điều này: những đứa con của Quảng Trị
ra đi từ hai phía hãy ngồi lại với nhau, hãy nói cho nhau nghe chúng ta đang
nghĩ gì về cuộc chiến tranh vừa qua, về trận chiến Quảng Trị. Chúng ta nghĩ gì
về hình ảnh người cha ôm con xác con mình, về ánh mắt của những em bé lạc trong
khi chạy loạn, về những xác chết chồng chất trên Đại lộ Kinh hoàng trong những
tấm hình của Bettman. Có thể bốn mươi năm vẫn chưa đủ và chúng ta cần năm tháng
trôi qua nhiều thêm nữa để câu chuyện về lịch sử đau thương của Quảng Trị có ý
nghĩa. Nhưng hãy ngồi lại với nhau. Câu chuyện giữa chúng ta là thước đo cho sự
sẵn sàng hay không của một tiến trình hòa giải ở bình diện quốc gia.
Nếu
chúng ta chưa hòa giải được để bao dung với những người đã chết, để trả lại cho
họ sự công bằng lịch sử mà họ đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình,
thì tiến trình hòa giải quốc gia ở Việt Nam là vô vọng. Và cùng với sự vô vọng
đó là sự vô vọng về một tương lai.
Trận
chiến Quảng Trị năm 1972 là trận chiến tàn khốc nhất, dã man nhất trong suốt
chiều dài 1000 năm lịch sử chiến tranh giữa những người Việt Nam. Chúng ta tin
rằng đó là trận chiến cuối cùng. Nhưng trận chiến đó vẫn chưa kết thúc…
No comments:
Post a Comment