Đế
quốc bành trướng, đế quốc lụn bại – Phần 4: Vài ngộ nhận
01/08/2020
https://baotiengdan.com/2020/08/01/de-quoc-banh-truong-de-quoc-lun-bai-phan-4-vai-ngo-nhan/
Tiếp theo
Phần 1: One China
Phần 2: Bài học Đài Loan
Phần 3: Empire rise and falls
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/NASA.jpg
Tên lửa và du thuyền Sojus của Nga vẫn hoạt động cho
đến hôm nay, sau khi chương trình Space Shuttle của NASA bị chấm dứt năm 2011. Ảnh:
internet
Một số người coi “Đế quốc”
là một từ xấu, vì trước đây báo chí thường lên án “Đế quốc Mỹ”, “Đế quốc Nhật”.
Thật ra từ “Đế quốc” (Empire, Imperium) được gắn cho các cường quốc có tầm ảnh
hưởng khu vực hoặc toàn cầu.
Người Anh, người Áo, người
Mông Cổ từng tự hào được là công dân của các đế chế. Việt Nam cũng từng là đế
quốc, đã tiêu diệt Champa, thôn tính một phần lãnh thổ của Ai-Lao, Chân Lạp.
Sau trận Rạch Gầm, Xoài Mút, người Xiêm sợ người Việt như sợ cọp. Các vua Nguyễn
được gọi là Hoàng Đế (Empereur). Những người theo tư tưởng Đại Việt sẽ rất tự
hào nếu được kêu là bọn “Đế quốc”!
Do vậy những người yêu
Liên Xô chớ tự ái khi thấy ai đó coi Liên Xô là Đế quốc. Các bạn sùng Mỹ cũng vậy.
Một ngộ nhận nữa của người
Việt là cái tên Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Người thì tấm tắc khen nước Mỹ đa chủng
tộc, kẻ thì chê là vì có nhiều chủng tộc chen nhau trên mảnh đất đó. USA là viết
tắt của “United States of America”, lẽ ra phải gọi là “Các nước Mỹ hợp nhất”.
States là số nhiều của state (bang, nước). Chúng hợp nhất (united) với nhau nên
các cụ nhà ta gọi là “Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”, chẳng dính dáng gì đến “Đa chủng
tộc” hay “Thượng đẳng trắng” cả. Rồi thấy người Mỹ đen, trắng, vàng, đỏ, chung
sống với nhau, dân ta tự suy ra “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ” cho hợp lỗ tai. Nếu là
“Hợp chủng quốc” thì phải dịch là “United Races of America”. Khi đó quốc kỳ Mỹ
cóc cần 49 ngôi sao, đại diện cho 49 bang, mà phải là các loại mầu da cùng với
các chữ Black Lives Matter & White Lives Matter mới đúng.
Còn cái tên Hoa Kỳ thì có
người bảo từ Yankee mà ra. Yankee vốn là niềm tự hào của người Bắc Mỹ, nhưng kể
từ cuộc nội chiến 1861-1865, dân các bang miền Nam coi đó là từ miệt thị bọn “Bắc
kỳ”. Sau khi miền Bắc chiến thắng, từ Yankee cũng bị người ngoài nước Mỹ dùng để
miệt thị người Mỹ nói chung (Như dân ta gọi người Hoa là Tàu, là Khựa, gọi người
Mexico là Rệp, hay người Khmer gọi người Việt là bọn Duôn).
Có nguồn khác lại nói cái
tên Hoa Kỳ xuất phát từ tiếng Hán: “花 旗” “Hoa cờ” vì người Hoa lần
đầu biết nước Mỹ qua lá cờ đầy sao.
Chỉ riêng cái cách người
Việt gọi nước Mỹ theo các kiểu tưởng tượng của người Hoa đã cho thấy quan hệ giữa
hai nước trong 150 năm qua, kể từ ngày vua Tự Đức cử Bùi Viện sang đó cầu viện
chống Pháp, luôn bị ảnh hưởng bởi yếu tố Trung Hoa.
Người Việt nên gọi các nước
“United States of America” là “Liên bang Mỹ” mới là cách chính xác nhất, độc lập
nhất.
Thể chế liên bang mà những
người lập quốc xung quanh Thomas Jefferson đưa ra năm 1776 đã tạo ra thế cân bằng
về quyền lực và cơ sở vững chắc cho nền dân chủ tiến bộ nhất lúc bấy giờ. Nền
dân chủ đó đã biến từ mảnh đất của những người Âu thất bại, tù tội, của những
người Phi nô lệ, của những người Á tha hương kiếm ăn, của những thổ dân Anh
Điêng sống sót nạn diệt chủng, thành một quốc gia vĩ đại, thành công nhất trong
lịch sử. Sự thành công đó không chỉ khiến các nhà cách tân châu Âu như Alexis
de Tocqueville phải kính nể [1], mà cả những người Cộng Sản như Hồ Chí Minh ở Á
Châu đã lấy cảm hứng từ tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ để tuyên bố độc lập cho Việt
Nam.
Nước Mỹ tuy không bị chiến
tranh tàn phá trong hai cuộc đại chiến thế giới 1 và 2 (trừ căn cứ quân sự Trân
Châu Cảng ở Thái Bình Dương), nhưng đã đóng góp nhiều xương máu và của cải vào
cả hai cuộc chiến. Riêng trong chiến tranh thế giới 2, hơn 400 ngàn thanh niên
Mỹ hy sinh để giải phóng các dân tộc châu  và châu Á khỏi chủ nghĩa Phát xít.
Trong đó có cả người Mỹ da trắng, da đen và da đỏ.
Ai đã xem bộ phim Windtalker chắc không khỏi xúc động về chuyện
thượng sỹ Joe Enders đã hy sinh thân mình để bảo vệ sinh mạng của anh binh nhì
da đỏ Ben Yahzee trong chiến tranh chống Nhật ở Thái Bình Dương. Người Nhật cho
đến lúc này đang làm chủ chiến trường vì họ có khả năng đọc các mật mã vô tuyến
điện của Mỹ. Tình báo Mỹ phải sử dụng ngôn ngữ của bộ lạc da đỏ Navajo vào việc
truyền tin. Những binh sỹ thông tin người Navajo này được bảo vệ như những bảo
vật. Ngôn ngữ độc đáo này khiến tình báo Nhật bất lực và nó đã góp phần đảo ngược
cục diện chiến tranh ở Thái Bình Dương.
Trong cuôc đại chiến này,
Mỹ cũng đã hào hiệp viện trợ cho Liên Xô 11.3 tỷ USD (180 tỷ hôm nay), bao gồm
400.000 xe jeep, 14.000 máy bay 13.000 xe tank, 4 triệu rưởi tấn lương thực
v.v[2]. Liên Xô, nước tiền tuyến hàng đầu chống Hitler đã mất 27 triệu công dân
trong nỗ lực chung đánh bại Đế quốc Đức cuồng vọng.
Nước Nga từ lâu đã là một
đế quốc khu vực. Nga Hoàng làm chủ một vùng rộng lớn từ trung Âu, xuyên châu Á,
vượt eo biển Behring sang cả Alaska châu Mỹ, trải dài 12 múi giờ [3]. Câu nói
“Mặt trời không bao giờ lặn trên đế chế” cũng đúng cho nước Nga. Nhưng chỉ từ
khi cuộc cách mạng tháng 10.1917 nổ ra và Liên Bang Xô Viết thành lập, Đế chế
toàn cầu nói tiếng Nga mới hình thành. Sau 1945, Liên Xô đã trở thành một siêu
cường không thể chối cãi, cùng Mỹ chia đôi thiên hạ, thay đổi thế giới đến
1990.
Nhưng rồi siêu cường công
nông này cũng mắc phải chu trình mà Paul Kennedy đã vạch ra: Bành trướng – Bị
dàn trải – Kiệt sức – Tàn lụi. Trong những năm 1980, CNXH được xuất khẩu
sang Angola, Ethiopia, Yemen, Lybia nhưng đến Afghanistan thì dây đàn bị đứt.
Lý do chính là nền kinh tế kế hoạch hóa trong một xã hội bó cứng về sáng tạo, về
tư tưởng đã không thể đáp ứng được đòi hỏi của cuộc tranh hùng toàn cầu. Năm
1991 Liên Xô tan rã, để lại cho Mỹ ngôi vị độc tôn “đế quốc số 1”, không có cạnh
tranh.
CNXH là một hình thái xã
hội của loài người, không phải chỉ có Marx hay Lenin mới nghĩ ra. Người Do Thái
từ thế kỷ 19 đã bắt đầu xây dựng CNXH trong các Kibbutz ở Palestine. Cho đến
nay vẫn còn khoảng 270 công xã như vậy hoạt động có hiệu quả ở Israel, với khoảng
150.000 thành viên. Ở Kibbutz mọi người đều tự nguyện đến sống và làm việc hết
mình, có ý thức cộng đồng cao, không cần các biện pháp cưỡng bức của nhà nước cảnh
sát. Đó là sự khác biệt với các mô hình nhà nước XHCN xô viết và chính vì thế
mà nó sẽ còn tồn tại lâu dài.
Tuy nhiên sẽ là một ngộ
nhận lớn, nếu nói CNXH xô viết đã ra đi mà không để lại dấu ấn gì. Bên cạnh
công lao lớn nhất trong chiến tranh chống chủ nghĩa quốc xã, Liên Xô đã có công
lớn trong công cuộc chinh phục vũ trụ, đã nhiều lần đi trước Mỹ trong cuộc đua
này. Những tên tuổi như Sholokhov, Schostakowitsch, David Oistrach,
Chachaturiam đã đi vào lịch sử văn hóa nhân loại. Chính cuộc chạy đua công nghệ
và kinh tế giữa hai siêu cường Xô-Mỹ đã tạo động lực cho cuộc cách mạng KHKT lần
thứ 3 của loài người. Chính những thách thức xã hội của Liên Xô và Đông Âu đã
góp phần làm nổ ra cuộc cách mạng cánh tả 1968 ở tây Âu, mở đầu cho các nhà nước
tư bản phúc lợi cao. Luật nhân quyền được Tổng thống Mỹ Johnson ký năm 1964, việc
cho phép phụ nữ đi bầu ở Thụy sỹ 1971, Bồ Đào Nha 1974 đều chịu tác động của
chiến tranh lạnh ý thức hệ với phe XHCN.
Một đặc điểm cơ bản của
CNXH Đông Âu là không khuyến khích lối sống tiêu thụ. Nền kinh tế kế hoạch
không bao giờ quảng cáo hàng cạnh tranh giá, chỉ quảng cáo lối sống ăn chắc mặc
bền.
Khi đó, nền sản xuất hàng
hóa phương Tây cũng phải theo trào lưu này. Hàng hóa ”Made in The USA” hay
“Made in Germany” tốt vô kể. Các nền kinh tế Mỹ, Tây Âu phát triển bền vững, với
một lực lượng lao động trình độ cao, xã hội ổn định. Sức sáng tạo không hạn chế
của con người tự do đã tạo ra năng suất lao động cao hơn. Thắng thua đã được định
đoạt.
Nói một cách khó nghe là:
CNTB đã trở nên nhân bản hơn, tự do hơn bởi nó luôn phải chứng minh tính ưu việt
so với khối XHCN.
Sau khi Liên Xô và Đông
Âu tan rã, động lực đó không còn nữa. Kẻ thù xưa ngã ngựa, trở thành lực lượng
lao động rẻ tiền. Cuộc cạnh tranh về tính ưu việt chuyển thành cuộc chạy đua về
lợi nhuận. Cái gọi là “hội nhập” của các nền kinh tế XHCN trước đây thực chất
đã khiến thế giới chỉ còn lại một hệ thống kinh tế: TBCN.
Kỷ nguyên thịnh vượng của
CNTB sau đó chỉ kéo dài 18 năm. Khi cuộc khủng hoảng tài chính Lehman-Brothers
xảy ra ở Mỹ 2008, cuộc đại khủng hoảng bắt đầu.
(Còn tiếp)
_____
[1] Ông viết “Về Nền Dân
Chủ Ở Mỹ” (De la démocratie en Amérique) năm 1840, sau khi đi thăm Mỹ về.
[2] https://ru.usembassy.gov/world-war-ii-allies-u-s-lend-lease-to-the-soviet-union-1941-1945/
[3] 1867 Nga Hoàng bán
cho Mỹ với giá 4,74 USD/km², tính ra là 7,2 triệu USD (130 triệu giá hôm nay).
No comments:
Post a Comment