Tuesday 14 May 2024

NĂM KỊCH BẢN CHO NƯỚC NGA TƯƠNG LAI (Stephen Kotkin   -   Foreign Affairs)

 



Năm kịch bản cho nước Nga tương lai (P1)

Stephen Kotkin   -   Foreign Affairs

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

07/05/2024

https://nghiencuuquocte.org/2024/05/07/nam-kich-ban-cho-nuoc-nga-tuong-lai-p1/

 

Và Mỹ nên chuẩn bị thế nào cho những gì sẽ xảy đến?

 

Một cách tình cờ, Vladimir Putin đã bước sang tuổi 71 vào ngày 7/10 năm ngoái, cũng là ngày mà Hamas tấn công Israel. Tổng thống Nga chắc hẳn đã xem vụ tấn công như quà sinh nhật cho mình – nó đã làm thay đổi bối cảnh xung quanh chiến dịch quân sự của ông ở Ukraine. Có lẽ là nhằm thể hiện thái độ của mình, ông đã yêu cầu Bộ Ngoại giao Nga mời các đại diện cấp cao của Hamas tới Moscow vào cuối tháng 10, theo đó làm nổi bật sự liên kết về lợi ích. Vài tuần sau, Putin tuyên bố ý định tranh cử nhiệm kỳ thứ năm trong một cuộc bầu cử không có lựa chọn vào tháng 3/2024, rồi sau đó tổ chức cuộc họp báo thường niên, trao cho một nhóm nhà báo dễ bảo đặc quyền được nghe ông tự mãn nói về sự mệt mỏi của phương Tây trước cuộc chiến ở Ukraine. “Gần như trên toàn bộ chiến tuyến, các lực lượng vũ trang của chúng ta, nói một cách khiêm tốn, là đang cải thiện vị thế của mình,” Putin khoe trong buổi phát sóng trực tiếp.

 

Ngày 16/02 vừa qua, Nhà tù Liên bang Nga ra thông báo về cái chết đột ngột của nhà hoạt động đối lập Alexei Navalny, 47 tuổi, tại một trại giam phía trên Vòng Bắc Cực, nơi ông đang hướng dẫn hàng triệu người ủng hộ mình cách phản đối cuộc bầu cử của Putin. Một tháng sau, điều tối đa mà người ta có thể nói là Điện Kremlin chí ít cũng đã chịu đợi cho đến khi cuộc bỏ phiếu bầu tổng thống được tổ chức xong mới công bố chiến thắng của Putin.

 

Putin tự xem mình là sa hoàng mới. Nhưng một sa hoàng thực sự sẽ không phải lo lắng về một cuộc khủng hoảng kế vị đang cận kề và những ảnh hưởng của nó lên quyền lực của ông trong hiện tại. Nhưng Putin có lo lắng, và đó là một phần lý do tại sao ông phải can thiệp vào các cuộc bầu cử. Ông sẽ giữ chức vụ của mình cho đến năm 2030, khi ở tuổi 78. Tuổi thọ của nam giới ở Nga thậm chí không đạt tới 67, nhưng những ai sống đến 60 tuổi có thể mong đợi mình sẽ sống đến khoảng 80. Những người sống trên 100 tuổi được xác nhận ở Nga rất ít. Putin đương nhiên có thể sống đến 100 tuổi. Nhưng ngay cả Stalin cũng chết.

 

Người tiền nhiệm của Putin, Boris Yeltsin, hóa ra là vị sa hoàng hiếm hoi chịu chỉ định người kế nhiệm và dọn đường cho người đó lên nắm quyền. Năm 1999, đối mặt với bệnh tật cùng nỗi lo rằng ông và “gia đình” gồm những tay chân tham nhũng có thể phải đối mặt với án tù sau khi ông từ chức, Yeltsin đã quyết định chọn Putin để bảo vệ quyền tự do và di sản của mình. “Hãy chăm lo cho nước Nga,” Yeltsin đưa ra lời khuyên cho Putin trước khi rời nhiệm sở. Năm 2007, ở tuổi 76, ông qua đời như một người tự do. Nhưng người được bảo trợ đã không noi gương người bảo trợ của mình. Năm 2008, Putin tạm thời rời chức tổng thống sau khi thừa nhận giới hạn hai nhiệm kỳ liên tiếp mà Yeltsin phải đối mặt. Sau đó, ông bổ nhiệm một kẻ vô danh chính trị thay thế mình, còn mình thì lui về giữ chức thủ tướng, nhưng đã sớm quay lại với nhiệm kỳ tổng thống thứ ba vào năm 2012 và sau đó là thứ tư. Cuối cùng, ông yêu cầu cơ quan lập pháp bù nhìn sửa đổi hiến pháp để loại bỏ mọi giới hạn nhiệm kỳ tổng thống. Stalin cũng từng cố gắng níu giữ quyền lực, bất chấp tình trạng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Ông từ chối chấp nhận một người kế vị, để rồi cuối cùng ngã gục sau một cơn đột quỵ và qua đời bên vũng nước tiểu của chính mình.

 

Putin không phải là Stalin. Nhà lãnh đạo người gốc Gruzia đã dựng nên một siêu cường trong khi khiến hàng chục triệu người phải chết trong nạn đói, trại lao động cưỡng bức, hầm hành quyết, và một cuộc chiến phòng thủ được quản lý kém. Ngược lại, Putin đã dựng nên một quốc gia bất hảo trong khi đẩy hàng trăm ngàn người đến chỗ chết trong một cuộc chiến phi nghĩa. Tuy nhiên, một so sánh vẫn là hữu ích. Hệ thống của Stalin không thể tồn tại nếu không có ông, ngay cả khi vẫn có một đảng cầm quyền được thể chế hóa. Thế nhưng, giữa đống tro tàn, kể từ khi Liên Xô tan rã kéo dài đến tận năm 1991, Putin đã củng cố một chế độ chuyên chế mới. Sự kết hợp giữa tính dễ bị tổn thương và sự phụ thuộc vào quá khứ này xuất phát từ nhiều yếu tố không thể dễ dàng thay đổi: địa lý, bản sắc đế quốc-dân tộc, văn hóa chiến lược đã ăn sâu vào tâm trí. (Nhà văn người Nga sống ở thế kỷ 19 Mikhail Saltykov-Shchedrin đã châm biếm đất nước của ông, rằng mọi thứ thay đổi chóng mặt cứ sau 5 đến 10 năm, nhưng lại chẳng có gì thay đổi suốt 200 năm.) Nhưng dù Putin có ra đi lúc nào hay bằng cách nào, thì chế độ chuyên chế cá nhân của ông, và rộng hơn là nước Nga, cũng phải đối mặt với những câu hỏi về tương lai.

 

Chế độ của Putin tự xem mình là tàu phá băng, thay mặt nhân loại đập tan trật tự quốc tế do Mỹ lãnh đạo. Washington cùng các đồng minh và đối tác của họ đã nhiều lần cho phép mình bị Putin làm cho bất ngờ – ở Libya, Syria, Ukraine, và Trung Phi. Điều này đã làm dấy lên lo ngại về điều bất ngờ khó chịu tiếp theo. Nhưng về lâu dài thì sao? Xét đến những yếu tố bất khả kháng như việc lãnh đạo qua đời và các yếu tố cấu trúc rộng lớn hơn, nước Nga liệu sẽ phát triển, hoặc không phát triển, như thế nào trong thập niên tới và thậm chí là xa hơn?

 

Những độc giả đang cố gắng hình dung quỹ đạo của nước Nga nên tham khảo thị trường cá cược. Tuy nhiên, điều mà các quan chức phương Tây và những người ra quyết định khác cần làm là xem xét một loạt các kịch bản: ngoại suy từ các xu hướng hiện tại theo cách có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập kế hoạch dự phòng. Các kịch bản được lập ra là để người ta không bị bất ngờ. Rõ ràng, thế giới liên tục đối mặt với bất ngờ và điều không thể đoán trước vẫn có thể xảy ra như thiên nga đen. Giữ thái độ khiêm tốn là điều cần thiết. Tuy nhiên, hiện vẫn có thể dự đoán năm tương lai có thể xảy ra cho nước Nga, và Mỹ cùng các đồng minh nên lưu ý đến chúng.

 

Trải qua nhiều đời tổng thống, Washington đã thấm thía bài học khó khăn rằng họ thiếu đòn bẩy để biến đổi những đất nước như Nga và Trung Quốc, vốn xuất thân từ những đế chế trên lục địa Á-Âu, luôn tự hào là những nền văn minh cổ đại đã có từ rất lâu trước khi Mỹ được thành lập, chứ chưa nói đến sự hình thành của phương Tây. Họ không phải là nhân vật trong vở kịch Pygmalion của George Bernard Shaw, họ không thể được biến đổi từ một cô gái quê mùa thành một quý cô thanh lịch, nghĩa là không thể biến đổi từ chế độ độc tài, đế quốc thành những bên tham gia có trách nhiệm trong hệ thống quốc tế do Mỹ thống trị. Những nỗ lực thay đổi “bản chất” của họ luôn dẫn đến sự chỉ trích và vỡ mộng từ cả hai phía. Các nhà lãnh đạo như Putin và Tập Cận Bình của Trung Quốc đã không đảo ngược một tiến trình đầy hy vọng; nhưng ở một mức độ không hề nhỏ, họ chính là kết quả của tiến trình đó. Vì vậy, Washington và các đối tác không nên tin rằng mình có thể định hình quỹ đạo của Nga. Thay vào đó, họ nên chuẩn bị cho bất cứ chuyện gì sẽ xảy ra.

 

 

NGA GIỐNG NHƯ PHÁP

 

Pháp là một quốc gia có truyền thống tập quyền và quân chủ lâu đời – đồng thời cũng có truyền thống cách mạng đầy rắc rối. Các nhà cách mạng Pháp đã bãi bỏ chế độ quân chủ chỉ để chứng kiến nó quay trở lại dưới vỏ bọc của một vị vua và sau đó là hoàng đế, rồi lại biến mất khi các nền cộng hòa đến rồi đi. Pháp đã xây dựng và đánh mất một đế chế thuộc địa rộng lớn. Suốt nhiều thế kỷ, những người cai trị nước Pháp, không ai khác ngoài Napoleon, đã đe dọa các nước láng giềng của mình.

 

Ngày nay, những truyền thống này vẫn tồn tại theo nhiều cách. Như nhà tư tưởng người Pháp Alexis de Tocqueville đã nhận xét một cách sắc sảo trong tác phẩm Chế độ cũ và Cuộc cách mạng (1856), những nỗ lực của các nhà cách mạng nhằm dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ rốt cuộc lại vô tình củng cố các cấu trúc nhà nước tập quyền. Bất chấp việc củng cố hệ thống cộng hòa, chế độ quân chủ Pháp vẫn tồn tại một cách tượng trưng trong các cung điện ở Versailles và nhiều nơi khác, trong các bức tượng các vị vua của triều đại Bourbon có mặt khắp nơi, và trong một hình thức cai trị tập quyền quá mức với quyền lực và của cải phần lớn tập trung ở Paris. Ngay cả khi không còn là một đế chế chính thức, Pháp vẫn là một đất nước đầy kiêu hãnh, được nhiều công dân và người hâm mộ xem là một nền văn minh với ý thức về một sứ mệnh đặc biệt trên thế giới và ở châu Âu, cùng với một ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi vượt ra ngoài biên giới của mình (60% người nói tiếng Pháp ngày nay là công dân của nước khác). Nhưng điều quan trọng nhất là nước Pháp ngày nay được hưởng nền pháp quyền và không còn đe dọa các nước láng giềng nữa.

 

Nước Nga cũng sở hữu một truyền thống nhà nước tập quyền và quân chủ, vốn sẽ tồn tại bất kể bản chất của hệ thống chính trị tương lai, và một truyền thống cách mạng tuy không còn là một cuộc phiêu lưu đang diễn ra, nhưng vẫn tồn tại trong các thể chế và ký ức như một nguồn cảm hứng và cảnh báo. Chắc chắn, chế độ chuyên chế của Romanov thậm chí còn ít bị ràng buộc hơn so với chế độ quân chủ của Bourbon. Cách mạng ở Nga cũng tàn bạo và tàn khốc hơn cách mạng ở Pháp. Đế chế đã mất của Nga nằm ngay liền kề chứ không phải ở nước ngoài, và đã tồn tại lâu hơn – chính xác là gần bằng thời gian tồn tại của nhà nước Nga hiện đại. Ở Nga, sự thống trị của Moscow đối với phần còn lại của đất nước còn vượt xa cả Paris ở Pháp. Phạm vi ảnh hưởng địa lý của Nga cũng lấn át của Pháp, bao trùm toàn bộ đất nước ở châu Âu, cũng như vùng Caucasus, Trung Á, và Đông Á. Rất ít quốc gia có nhiều điểm chung với Nga. Nhưng có lẽ Pháp là nước có nhiều điểm chung nhất.

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/_webp_large_1x/public/images/2024/04/10/2_2022-05-21T000000Z_1484202282_RC2RBU9JHYKJ_RTRMADP_3_RUSSIA-DAILYLIFE.jpg.webp?itok=U6a3x5UH

Một người đàn ông mặc áo in hình Tổng thống Nga Vladimir Putin, Saint Petersburg, tháng 5/2022 © Anton Vaganov / Reuters

 

Nước Pháp đương đại là một đất nước vĩ đại, dù không thể tránh khỏi những lời chỉ trích. Một số người lên án những gì họ cho là sự can thiệp quá nhiều của nhà nước, mức thuế cao cần thiết để chi trả cho các dịch vụ không đồng đều, cũng như tinh thần xã hội chủ nghĩa rộng rãi. Số khác lại nhắm vào những gì họ cho là tham vọng cường quốc và chủ nghĩa sô-vanh văn hóa của Pháp. Và còn những người than thở về chính sách ngặt nghèo của Pháp trong việc hòa nhập người nhập cư. Nhưng chúng ta có thể thất vọng về khía cạnh này hoặc khía cạnh khác của Pháp và vẫn công nhận rằng nước này cung cấp mô hình thực tế gần nhất cho một nước Nga hoà bình, thịnh vượng. Nếu Nga trở nên giống như Pháp – một nền dân chủ với hệ thống pháp quyền, tự hào về quá khứ chuyên chế và cách mạng, nhưng không còn đe dọa các nước láng giềng – thì đó sẽ là một thành tựu rất đáng kể.

 

Nước Pháp đã trải qua một con đường đầy gian nan để trở nên như ngày nay. Hãy nhớ lại thời kỳ khủng bố cách mạng của Robespierre, chủ nghĩa bành trướng thảm khốc của Napoléon, cuộc tự đảo chính của Napoléon III (từ tổng thống dân cử trở thành hoàng đế), sự thâu tóm quyền lực của Công xã Paris, sự thất bại nhanh chóng của Pháp trong Thế chiến II, chế độ thông đồng Vichy, chiến tranh thuộc địa Algeria, và những hành động ngoài vòng pháp luật của Tổng thống Charles de Gaulle sau khi xuất ngũ vào năm 1958. Người ta có thể bị cám dỗ bởi quan điểm cho rằng nước Nga cần de Gaulle của riêng mình để giúp củng cố một trật tự tự do từ trên xuống, dù vẫn chưa có vị cứu tinh nào như vậy xuất hiện trong tương lai gần. Nhưng chỉ có những kẻ viết sách thánh mới tin rằng một người đàn ông duy nhất đã tạo ra nước Pháp ngày nay. Dù có nhiều giai đoạn bất ổn, nhưng trải qua nhiều thế hệ, Pháp đã phát triển các thể chế chuyên nghiệp, công bằng – một cơ quan tư pháp, một nền công vụ, một không gian công cộng tự do và cởi mở – của một quốc gia dân chủ, cộng hòa. Vấn đề không nằm ở việc Yeltsin không phải de Gaulle, mà là nước Nga năm 1991 còn lâu mới đạt được một trật tự hiến pháp ổn định, theo kiểu phương Tây như nước Pháp ba thập niên trước đó.

 

 

NƯỚC NGA THU MÌNH

 

Một số người Nga có thể hoan nghênh việc đất nước họ chuyển đổi thành một quốc gia giống như Pháp, nhưng những người khác lại xem đó là một thảm hoạ. Những gì thế giới ngày nay nhìn nhận là chủ nghĩa Putin đã lần đầu tiên xuất hiện trong các tạp chí tiếng Nga định kỳ và các hiệp hội tình nguyện của những năm 1970: một chủ nghĩa dân tộc chuyên chế, phẫn nộ, thần bí, lấy chủ nghĩa bài phương Tây làm nền tảng, ủng hộ các giá trị được cho là truyền thống, và vay mượn một cách vụng về từ chủ nghĩa Slavơ, chủ nghĩa Á-Âu, và Chính thống giáo Đông phương. Hoàn toàn có thể tưởng tượng một nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc chuyên chế ủng hộ những quan điểm này, và giống như Putin, ông có niềm tin không gì lay chuyển được rằng Mỹ đang cố gắng hủy diệt Nga, nhưng cũng vô cùng lo lắng trước tương lai lâu dài mờ mịt của đất nước và sẵn sàng chấp nhận đổ lỗi cho Putin về điều đó. Nói cách khác, ông là một người thu hút được sự ủng hộ của cử tri trung thành với Putin, nhưng lại đưa ra quan điểm rằng cuộc chiến chống Ukraine đang gây tổn hại cho Nga.

 

Nhân khẩu học là một điểm nhức nhối đặc biệt đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc dựa trên huyết thống và lãnh thổ ở Nga, chưa kể đến giới quân nhân và nhiều dân thường. Kể từ năm 1992, dù có lượng nhập cư đáng kể nhưng dân số Nga vẫn liên tục giảm. Dân số trong độ tuổi lao động của nước này đạt đỉnh vào năm 2006 với khoảng 90 triệu người và hiện chỉ còn ở mức dưới 80 triệu người, một xu hướng tai hại. Chi tiêu cho cuộc chiến ở Ukraine đã thúc đẩy cơ sở công nghiệp quốc phòng của Nga, nhưng những hạn chế do lực lượng lao động giảm sút đang ngày càng trở nên rõ ràng hơn ngay cả trong lĩnh vực được ưu tiên này, vốn đang thiếu khoảng năm triệu lao động có trình độ so với nhu cầu. Tỷ lệ người lao động thuộc nhóm tuổi làm việc hiệu quả nhất – từ 20 đến 39 – sẽ tiếp tục giảm trong thập niên tới. Không có điều gì, thậm chí kể cả việc bắt cóc trẻ em từ Ukraine, vụ việc khiến Tòa án Hình sự Quốc tế truy tố Putin, có thể đảo ngược được sự suy giảm dân số ở Nga, vốn đang trở nên trầm trọng hơn do tỷ lệ thương vong cao chót vót trong cuộc chiến Ukraine.

 

Những tiến bộ về năng suất có thể bù đắp cho những xu hướng nhân khẩu học này hiện vẫn chưa xuất hiện. Nga gần như xếp cuối cùng trên thế giới về quy mô và tốc độ tự động hóa trong sản xuất: quá trình robot hóa của nước này thua xa so với mức trung bình của thế giới. Ngay từ trước khi cuộc chiến mở rộng ở Ukraine bắt đầu tiêu tốn ngân sách nhà nước, Nga đã xếp hạng thấp một cách đáng ngạc nhiên trong bảng xếp hạng toàn cầu về chi tiêu giáo dục. Trong hai năm qua, Putin đã chấp nhận đánh mất phần lớn tương lai kinh tế của đất nước khi ông buộc hàng ngàn nhân viên công nghệ trẻ tuổi chạy trốn khỏi chế độ nghĩa vụ quân sự và nạn đàn áp. Đúng, nhóm người này là đối tượng mà những kẻ cuồng tín dân tộc cho là không cần thiết, nhưng trong sâu thẳm, nhiều người hiểu rằng một cường quốc cần đến họ.

 

Nhờ vị trí địa lý trải rộng khắp Á-Âu và quan hệ lâu dài với nhiều nơi trên thế giới, cũng như chủ nghĩa cơ hội, Nga vẫn có thể nhập khẩu nhiều linh kiện không thể thiếu cho nền kinh tế của mình bất chấp lệnh trừng phạt của phương Tây. Bất chấp sự tháo vát này, và bất chấp việc công chúng đã quen với chiến tranh, giới tinh hoa Nga vẫn biết về những số liệu thống kê đáng sợ. Họ ý thức được rằng, là nước xuất khẩu hàng hóa, sự phát triển lâu dài của Nga phụ thuộc vào việc chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Cuộc xâm lược Ukraine của Putin đã khiến việc sử dụng phương Tây làm nguồn cung trở nên khó khăn hơn, và việc ông ủng hộ chủ nghĩa hư vô của Hamas đã làm căng thẳng mối quan hệ của Nga với Israel, nhà cung cấp chính của nhiều hàng hóa và dịch vụ công nghệ cao. Ở mức độ cơ bản hơn, giới tinh hoa Nga đang bị tách biệt về mặt vật chất với các nước phát triển: những nơi ẩn náu ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), dù dễ chịu đến đâu, cũng không thể thay thế các biệt thự và trường nội trú ở châu Âu.

 

Dù chế độ chuyên chế của Nga một lần nữa chứng minh sức bền trong chiến tranh, nhưng việc Putin thiếu đầu tư và đa dạng hóa trong nước, tình trạng khó khăn về nhân khẩu học ngày càng gia tăng, và vai trò của ông trong việc khiến đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu về công nghệ vẫn có thể buộc những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn – trong số đó có nhiều người thuộc tầng lớp tinh hoa – phải thừa nhận rằng Nga đang đi trên con đường tự diệt. Nhiều người đã kết luận một cách riêng tư rằng tổng thống Nga đã gắn liền sự tồn vong của chế độ cá nhân già cỗi của ông ta với sự tồn vong của đất nước trong vai trò một cường quốc. Chí ít về mặt lịch sử, những nhận thức như vậy đã dẫn đến một sự thay đổi, chuyển từ bành trướng ra nước ngoài sang phục hồi trong nước. Mùa hè năm ngoái, khi đội quân của thủ lĩnh lính đánh thuê Yevgeny Prigozhin hành quân đến Moscow, họ đã không được các sĩ quan quân đội ủng hộ, đó là một lý do khiến Prigozhin hủy bỏ cuộc binh biến. Nhưng nó cũng không khuyến khích những người ủng hộ chế độ đứng ra bảo vệ Putin. Tình tiết này vô tình tạo ra một cuộc trưng cầu dân ý bất đắc dĩ về chế độ, tiết lộ sự trống rỗng bên trong vỏ bọc đàn áp.

 

Nước Nga thu mình có thể là kết quả từ việc đẩy nhanh sự ra đi của Putin, hoặc có thể xảy ra sau cái chết tự nhiên của ông. Nó cũng có thể xảy ra mà không cần loại bỏ Putin, thông qua các đe dọa chính trị có ý nghĩa đối với sự cai trị của ông. Dù điều đó có xảy đến cách nào, nó cũng sẽ liên quan đến các động thái chiến thuật được thúc đẩy bởi sự thừa nhận rằng Nga thiếu phương tiện để chống lại phương Tây mãi mãi, họ phải trả giá cắt cổ cho việc cố gắng làm điều đó, và có nguy cơ để mất vĩnh viễn các mối quan hệ quan trọng ở châu Âu để đổi lấy sự phụ thuộc nhục nhã vào Trung Quốc.

 

(còn tiếp 2 phần)

 

Nguồn: Stephen Kotkin, “The Five Futures of Russia,” Foreign Affairs, 18/04/2024

 

                                                     *****

 

Năm kịch bản cho nước Nga tương lai (P2)

Stephen Kotkin   -   Foreign Affairs

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

08/05/2024

 https://nghiencuuquocte.org/2024/05/08/nam-kich-ban-cho-nuoc-nga-tuong-lai-p2/

 

NGA TRỞ THÀNH NƯỚC CHƯ HẦU

 

Giới tinh hoa Nga ủng hộ Putin thường khoe khoang rằng họ đã phát triển được một lựa chọn tốt hơn phương Tây. Quả thật, quan hệ Trung-Nga đã gây ngạc nhiên cho nhiều nhà phân tích biết về lịch sử chông gai giữa Bắc Kinh và Moscow, bao gồm cả sự chia rẽ Trung-Xô nổi tiếng hồi những năm 1960, lên đến đỉnh điểm là một cuộc chiến biên giới. Dù xung đột đã chính thức được giải quyết bằng việc phân định biên giới, Nga vẫn là quốc gia duy nhất đang kiểm soát phần lãnh thổ chiếm được từ Nhà Thanh nhờ những gì Trung Quốc gọi là những hiệp ước bất bình đẳng. Tuy nhiên, điều đó đã không ngăn cản Trung Quốc và Nga tăng cường quan hệ song phương, bao gồm cả việc tiến hành các cuộc tập trận quân sự chung quy mô lớn, vốn đã gia tăng về tần suất và phạm vi địa lý suốt 20 năm qua. Hai nước cũng chia sẻ về những bất bình của Nga liên quan đến việc NATO mở rộng và phương Tây can thiệp vào Ukraine, nơi sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Nga vẫn đóng vai trò quan trọng.

 

Việc Trung Quốc và Nga xích lại gần nhau đã có từ trước khi Putin và Tập lên nắm quyền. Trong những năm 1980, chính Đặng Tiểu Bình là người đã tách Trung Quốc khỏi Moscow, một hành động có tính bước ngoặt hơn cả điều mà Mao Trạch Đông đã thực hiện trong thập niên 1960 và 1970. Đặng đã giúp các nhà sản xuất Trung Quốc giành được quyền tiếp cận thị trường nội địa Mỹ, vốn là thủ thuật đã tạo ra sự biến đổi ở Nhật Bản, sau đó là Hàn Quốc và Đài Loan. Việc Đặng “ly hôn” với Liên Xô cộng sản để bước vào cuộc “hôn nhân kinh tế” trên thực tế với các nhà tư bản Mỹ và châu Âu đã mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng đáng kinh ngạc, khai sinh ra tầng lớp trung lưu Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc và Nga vẫn gắn bó với nhau. Người kế nhiệm được lựa chọn cẩn thận của Đặng, Giang Trạch Dân, vốn từng được đào tạo tại một nhà máy của Liên Xô, đã tìm cách đưa Nga trở lại làm “tình nhân” mà không phá vỡ quan hệ hôn nhân Mỹ-Trung. Giang đã ra lệnh giúp hồi sinh tổ hợp công nghiệp quốc phòng bị bỏ hoang của Nga và hiện đại hóa ngành sản xuất vũ khí và quân sự của chính Trung Quốc. Năm 1996, Giang và Yeltsin tuyên bố “quan hệ đối tác chiến lược.” Dù thương mại song phương còn ở mức khiêm tốn, sự bùng nổ kinh tế trong nước của Trung Quốc đã gián tiếp hồi sinh nền sản xuất dân sự thời Xô-viết bằng cách nâng mức cầu toàn cầu, theo đó nâng giá các đầu vào công nghiệp mà Liên Xô đã sản xuất với chất lượng thấp nhưng số lượng cao, từ thép đến phân bón. Tương tự như cách Mỹ giúp hình thành tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc, Trung Quốc cũng góp phần tạo nên tầng lớp trung lưu ở Nga và sự bùng nổ kinh tế của Putin.

 

Tuy nhiên, quan hệ xã hội và văn hóa giữa hai dân tộc vẫn rất mong manh. Về mặt văn hoá, người Nga là người châu Âu, và có rất ít người Nga biết nói tiếng Trung (so với tiếng Anh). Dù một số người Trung Quốc lớn tuổi có thể nói tiếng Nga, vốn là di sản từ thời Moscow còn là trung tâm của thế giới cộng sản, nhưng con số đó không lớn, và giai đoạn mà một lượng lớn sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học Nga đã trở thành ký ức xa vời. Người Nga lo ngại về sức mạnh của Trung Quốc, trong khi nhiều người Trung Quốc đã chế nhạo Nga trên mạng. Và những người ủng hộ trung thành của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn không chịu tha thứ cho việc Moscow huỷ hoại chủ nghĩa cộng sản trên khắp lục địa Á-Âu và Đông Âu.

 

Tuy nhiên, quan hệ cá nhân sâu sắc giữa Putin và Tập đã bù đắp cho những nền tảng mong manh này. Hai người đàn ông đã xây dựng tình anh em thân thiết khi gặp nhau tới 42 lần (một con số đáng kinh ngạc) trong thời gian cầm quyền, công khai ca ngợi nhau là “bạn thân nhất của tôi” (Tập nói về Putin) và “bạn thân” (Putin nói về Tập). Tình đoàn kết độc tài giữa hai tâm hồn đồng điệu này được củng cố bởi chủ nghĩa chống phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa chống Mỹ, đã có từ lâu. Khi Trung Quốc chuyển từ đối tác cấp dưới thành đối tác cấp cao, hai nước láng giềng đã nâng cấp quan hệ, công bố “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” vào năm 2013. Về mặt chính thức, thương mại giữa Nga và Trung Quốc đã vượt 230 tỷ USD vào năm 2023, dù con số này chỉ dao động quanh mức 16 tỷ USD ba thập niên trước đó và chỉ ở mức 78 tỷ USD vào giữa những năm 2010 (sau khi điều chỉnh theo lạm phát). Hơn nữa, số liệu của năm 2023 không bao gồm hàng chục tỷ USD thương mại song phương được ngụy trang thông qua các bên thứ ba, như Kyrgyzstan, Thổ Nhĩ Kỳ, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

 

Đến nay, Trung Quốc vẫn mua động cơ máy bay quân sự từ Nga. Nhưng trong các lĩnh vực khác, sự phụ thuộc là theo chiều ngược lại. Các biện pháp trừng phạt của phương Tây đã đẩy nhanh việc ngành công nghiệp xe hơi nội địa của Nga rơi vào tay Trung Quốc. Moscow hiện đang có một lượng dự trữ nhân dân tệ đáng kể, vốn chỉ có thể được sử dụng cho hàng hóa Trung Quốc. Nhưng bất chấp vô số cuộc họp suốt hàng chục năm qua, vẫn chưa có một thỏa thuận cuối cùng về đường ống dẫn khí đốt tự nhiên mới từ Siberia đến Trung Quốc qua Mông Cổ. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã cố gắng hết sức để tránh phải phụ thuộc vào Nga về năng lượng hoặc bất cứ thứ gì khác. Ngược lại, Trung Quốc hiện là nước dẫn đầu thế giới về năng lượng mặt trời và gió, đồng thời đang nỗ lực thay thế Nga để trở thành nước dẫn đầu thế giới về năng lượng hạt nhân.

 

Giới tinh hoa Nga, ngay cả khi họ kịch liệt lên án “quyết tâm” của Mỹ nhằm chinh phục hoặc chia cắt đất nước của họ, nhìn chung vẫn không lên tiếng phản đối việc Putin phục tùng Trung Quốc. Gần đây, các nhà bình luận Nga bắt đầu nhắc lại câu chuyện của Alexander Nevsky, Đại Vương công Novgorod hồi thế kỷ 13, một trong những vùng đất sau này sẽ hợp nhất thành Muscovy, tiền thân của Đế quốc Nga. Khi đối mặt với kẻ thù trên hai mặt trận, Nevsky đã chọn chiến đấu với quân thập tự chinh ở phía tây và đánh bại quân Teuton trong Trận Hồ Chudskoe, nhưng chấp nhận phục tùng quân Mông Cổ xâm lược ở phía đông, vượt Trung Á đến thủ đô của Hãn quốc Kim Trướng thuộc Mông Cổ để được công nhận là đại vương công của Nga. Trong câu chuyện này, những người theo Cơ đốc giáo phương Tây đã quyết tâm làm suy yếu bản sắc Cơ đốc giáo phương Đông của Nga, còn người Mông Cổ chỉ đơn giản muốn Nga tỏ lòng kính trọng. Và hàm ý là sự phục tùng Trung Quốc ngày nay không đòi hỏi Nga phải từ bỏ bản sắc của mình, nhưng nếu Nga thất bại trước phương Tây thì họ chắc chắn sẽ mất đi bản sắc.

 

Thật vớ vẩn. Người Nga đã phải mất hàng thế kỷ mới thoát khỏi cái mà sách giáo khoa ở trường của họ gọi chung là “ách” Mông Cổ, nhưng nước Nga vẫn tồn tại qua nhiều thế kỷ trong quan hệ với phương Tây mà chưa bao giờ trở thành phương Tây. Tuy nhiên, không phải phương Tây không nhất thiết có nghĩa là chống phương Tây – tất nhiên là trừ phi người ta đang cố gắng bảo vệ một chế độ phi tự do trong một trật tự thế giới tự do. Nước Nga đã tồn tại trong biên giới hậu Xô-viết suốt 20 năm trước khi Putin quyết định rằng tình hình là không thể chấp nhận được nữa. Giờ đây, sau khi đã đốt cháy cây cầu nối với phương Tây và đổ lỗi cho phương Tây về hành động đó, ông chẳng còn cách nào khác ngoài việc dựa vào thiện chí của Trung Quốc.

 

Sự mất cân bằng lớn và ngày càng gia tăng trong quan hệ Nga-Trung đã khiến nhiều nhà phân tích gọi Nga là chư hầu của Trung Quốc. Nhưng chỉ có Trung Quốc mới có thể quyết định việc một quốc gia có khác trở thành chư hầu của họ hay không, và theo đó, Bắc Kinh sẽ phải quyết định chính sách, thậm chí cả nhân sự ở Nga, đồng thời gánh vác phần lớn trách nhiệm. Hiện tại, Trung Quốc không có nghĩa vụ hiệp ước ràng buộc nào với Nga. Putin chỉ có lời nói của Tập, một người đã 70 tuổi – và cũng có thể chết. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo vẫn tiếp tục tố cáo nỗ lực bá quyền của Mỹ và hợp tác chặt chẽ với nhau. Một cam kết chung nhằm mang lại trật tự thế giới an toàn hơn cho chế độ chuyên chế của họ và giúp họ thống trị khu vực của mình đang thúc đẩy một chế độ chư hầu trên thực tế, dù cả hai đều không mong muốn điều đó.

 

NGA TRỞ THÀNH TRIỀU TIÊN

 

Khi sâu sắc thêm sự phụ thuộc của Nga vào Trung Quốc, Putin hoặc người kế nhiệm ông có thể lấy cảm hứng (một cách nghịch lý) từ trải nghiệm của Triều Tiên. Và điều đó có thể khiến Tập Cận Bình hoặc người kế nhiệm ông phải suy nghĩ lại. Khi Bắc Kinh can thiệp để giải cứu Bình Nhưỡng trong Chiến tranh Triều Tiên, Mao đã nhắc đến một câu tục ngữ, rằng nếu môi hở (Triều Tiên) thì răng lạnh (Trung Quốc). Phép ẩn dụ này vừa hàm ý về một vùng đệm, vừa hàm ý về một điều kiện phụ thuộc lẫn nhau. Trong những năm qua, một số nhà bình luận Trung Quốc đã nghi ngờ giá trị của việc hỗ trợ Triều Tiên, đặc biệt là sau vụ thử hạt nhân đầy thách thức của nước này vào năm 2006. Đối mặt với các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, mà Trung Quốc cũng tham gia, giới lãnh đạo Triều Tiên đã tích cực thúc đẩy các chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa có thể nhắm đến không chỉ Seoul và Tokyo, mà còn cả Bắc Kinh và Thượng Hải. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc cuối cùng đã tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với Bình Nhưỡng vào năm 2018. Do Triều Tiên phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc về lương thực, nhiên liệu, và nhiều thứ khác, Bắc Kinh dường như đang kẹp Kim Jong Un trong một chiếc kìm sắt.

 

Tuy nhiên, những người trung thành với Bình Nhưỡng đôi khi vẫn cảnh báo rằng răng có thể cắn vào môi. Như giới cầm quyền ở Bắc Kinh đã nhiều lần nhận ra, Kim không phải lúc nào cũng vâng lời những người bảo trợ của mình. Năm 2017, ông ra lệnh sát hại người anh cùng cha khác mẹ là Kim Jong Nam, vốn đang được Trung Quốc bảo vệ ở nước ngoài. Kim dám bất chấp tất cả vì ông biết rằng dù mình có chọc giận Bắc Kinh đến mức nào thì Trung Quốc cũng không muốn chế độ ở Bình Nhưỡng sụp đổ. Nếu nhà nước Triều Tiên tan rã, bán đảo sẽ được thống nhất dưới chế độ Hàn Quốc, một đồng minh hiệp ước của Mỹ. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc cuối cùng đã thua trong Chiến tranh Triều Tiên, vốn đang trong tình trạng đình chiến trong hơn 70 năm qua. Việc mất đi vùng đệm Triều Tiên có thể làm phức tạp thêm các lựa chọn và lịch trình nội bộ của Bắc Kinh liên quan đến việc thống nhất với Đài Loan, vì Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một môi trường thù địch hơn ở ngay gần kề. Trong lịch sử, bất ổn trên Bán đảo Triều Tiên thường có xu hướng lan sang Trung Quốc, và làn sóng người tị nạn có thể gây bất ổn cho vùng đông bắc Trung Quốc và thậm chí xa hơn. Vì vậy, Bắc Kinh dường như đang mắc kẹt trong một dạng phụ thuộc ngược với Bình Nhưỡng. Tập sẽ không muốn rơi vào tình thế tương tự với Moscow.

 

Nga và Triều Tiên khác nhau hoàn toàn. Diện tích lãnh thổ của Nga gấp hơn 142 lần Triều Tiên. Và dù mỗi người kế nhiệm trong gia đình Kim đều được đảng cộng sản phê chuẩn làm lãnh đạo, Triều Tiên thực chất đi theo chế độ cha truyền con nối, thứ mà Nga không có. Triều Tiên cũng là một đồng minh hiệp ước chính thức của Trung Quốc, thực ra là đồng minh duy nhất của Bắc Kinh trên thế giới, cả hai đã ký hiệp ước phòng thủ chung vào năm 1961. (Một số nhà bình luận Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không còn có nghĩa vụ phải bảo vệ Triều Tiên trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công bởi vì Bình Nhưỡng đã phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng hiệp ước phòng thủ vẫn chưa bị bãi bỏ.) Triều Tiên cũng phải đối mặt với một nhà nước đối thủ là Hàn Quốc, do đó họ giống với Đông Đức (không còn tồn tại) hơn là với Nga.

 

Bất chấp những khác biệt này và cả những khác biệt khác, Nga vẫn có thể trở thành một Triều Tiên khổng lồ: đàn áp trong nước, bị cô lập, và vi phạm luật lệ quốc tế, được trang bị vũ khí hạt nhân, phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc nhưng vẫn có thể chống lại Bắc Kinh. Hiện chưa rõ Putin đã tiết lộ bao nhiêu về kế hoạch Ukraine của mình với Bắc Kinh vào tháng 2/2022, khi ông đưa ra tuyên bố chung về “quan hệ đối tác không giới hạn” giữa Trung Quốc và Nga – theo đó khiến Tập trông như đã tán thành hành động xâm lược của Nga. Không lâu sau khi Trung Quốc công bố kế hoạch hòa bình cho Ukraine, Tập đã tới Moscow để dự hội nghị thượng đỉnh, xuất hiện cùng Putin trên chiếc cầu thang được trang trí công phu ở Điện Kremlin mà vào năm 1939, Joachim von Ribbentrop, Ngoại trưởng Đức dưới thời Đức Quốc Xã, từng xuất hiện cùng với Stalin và Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov sau khi củng cố hiệp ước Hitler-Stalin. Nhưng một phát ngôn viên của Điện Kremlin đã bác bỏ khả năng hòa bình, dù chính phủ của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã chấp nhận rằng tài liệu mơ hồ của Trung Quốc là đáng để thảo luận. (Phái đoàn hòa bình cấp thấp của Trung Quốc tới Kyiv đã thất bại.) Sau đó, khi các nhà ngoại giao Trung Quốc khoe khoang với toàn thế giới và đặc biệt là với châu Âu rằng Tập đã buộc Nga cam kết không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine, chế độ của Putin lại tuyên bố họ đang triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Belarus (Trung Quốc đã chỉ trích việc triển khai vũ khí.) Có lẽ không có hành động nào trong số này là nhằm mục đích xúc phạm trực tiếp. Nhưng chúng khiến các nhà quan sát băn khoăn về diễn biến ở Nga theo hướng kịch bản Triều Tiên, vì ngay cả khi không nằm trong chủ đích, các hành động trên đã cho thấy khả năng Moscow có thể khiến Bắc Kinh bối rối mà không phải gánh chịu hậu quả.

 

Kể từ cuộc binh biến của Prigozhin, Tập đã nhiều lần nhấn mạnh điều mà ông gọi là “lợi ích cơ bản của hai nước và nhân dân hai nước,” ngụ ý rằng quan hệ đặc biệt giữa hai nước sẽ tồn tại lâu hơn chế độ lãnh đạo hiện tại ở Điện Kremlin. Trên thực tế, một Trung Quốc chuyên chế sẽ không dám để mất Nga nếu điều đó đồng nghĩa với việc xuất hiện một nước Nga thân Mỹ ở biên giới phía bắc, một kịch bản song song, nhưng lại nguy hiểm hơn nhiều so với một bán đảo Triều Tiên thống nhất thân Mỹ. Trước hết, việc tiếp cận dầu khí của Nga, một trong các biện pháp bảo vệ của Trung Quốc nếu bị phong tỏa trên biển, sẽ gặp rủi ro. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc chỉ thu được rất ít lợi ích vật chất từ Nga, thì việc ngăn chặn Nga quay sang phương Tây vẫn là ưu tiên an ninh quốc gia hàng đầu. Một nước Nga nghiêng về phía Mỹ sẽ cho phép phương Tây tăng cường giám sát Trung Quốc (tương tự như việc Tổng thống Mỹ Richard Nixon nối lại quan hệ với Mao đã cho phép phương Tây giám sát Liên Xô từ Tân Cương). Tệ hơn nữa, Trung Quốc sẽ đột ngột cần phải đưa một lực lượng quân sự đáng kể từ các nơi khác đến bảo vệ biên giới phía bắc rộng lớn của mình. Vì vậy, Trung Quốc cũng phải sẵn sàng chấp nhận hành vi kiểu Triều Tiên từ Moscow.

 

 

NGA RƠI VÀO HỖN LOẠN

 

Chế độ của Putin sử dụng mối đe dọa từ sự hỗn loạn và bất định để ngăn chặn những thách thức và thay đổi nội bộ. Nhưng trong lúc họ gieo rắc hỗn loạn ở nước ngoài, từ Đông Âu đến Trung Phi và Trung Đông, chính Nga cũng có thể trở thành nạn nhân của sự hỗn loạn đó. Chế độ Putin ít nhiều có vẻ ổn định ngay cả dưới áp lực cực độ của chiến tranh quy mô lớn, và những dự đoán về sự sụp đổ do các lệnh trừng phạt sâu rộng của phương Tây đã không trở thành hiện thực. Tuy nhiên, các quốc gia Nga do St. Petersburg và Moscow lần lượt cai quản đều đã tan rã trong hơn 100 năm qua, cả hai lần đều bất ngờ nhưng là tan rã hoàn toàn. Có nhiều nguyên nhân giả định hợp lý cho sự tan rã trong tương lai gần: một cuộc nổi loạn trong nước vượt khỏi tầm kiểm soát, một hoặc nhiều thảm họa tự nhiên vượt quá khả năng quản lý của chính quyền, một tai nạn hoặc cố ý phá hoại các cơ sở hạt nhân, cái chết vô tình hoặc không vô tình của nhà lãnh đạo. Những quốc gia như Nga, với thể chế suy thoái và thiếu hụt tính chính danh, có thể dễ dàng bị tác động bởi những đợt thử thách căng thẳng bất ngờ. Hỗn loạn có thể là cái giá phải trả cho sự thất bại trong việc củng cố đất nước.

 

Tuy nhiên, bất chấp tình trạng hỗn loạn, Nga sẽ không tan rã theo kiểu Liên Xô. Như nhà phân tích chính cuối cùng của KGB từng than thở, Liên bang Xô-viết giống như một thanh chocolate: 15 nước cộng hòa liên bang đã được phân định rõ ràng như những mẩu nhỏ trên thanh chocolate, sẵn sàng bị bẻ gãy. Ngược lại, Liên bang Nga hiện bao gồm các đơn vị lãnh thổ không dựa trên sắc tộc và không có tư cách bán quốc gia (quasi-state). Các chủ thể tương đương cấp quốc gia hầu hết đều không có đa số chính thức và thường nằm sâu trong lục địa, chẳng hạn như Tatarstan, Bashkorto­stan, Mari El, và Yakutia. Nhưng Liên bang Nga có thể tan rã một phần ở các khu vực biên giới đầy biến động như Bắc Caucasus.

 

Kaliningrad – một tỉnh nhỏ của Nga bị cô lập về mặt địa lý với phần còn lại của liên bang và nằm giữa Lít-va và Ba Lan, cách đất Nga hơn 400 dặm – cũng có thể dễ bị tổn thương.

Nếu sự hỗn loạn nhấn chìm Moscow, Trung Quốc có thể tái chiếm những vùng đất rộng lớn thuộc lưu vực sông Amur mà dòng họ Romanov đã chiếm đoạt từ Nhà Thanh. Trong khi đó, Nhật Bản có thể cưỡng bức thực thi các yêu sách của mình đối với Lãnh thổ phía Bắc, mà người Nga gọi là Quần đảo Kuril và Đảo Sakhalin, cả hai nơi đều từng do người Nhật cai trị, và là một phần của lục địa Viễn Đông Nga mà Nhật chiếm đóng trong cuộc nội chiến ở Nga. Đến lượt mình, Phần Lan có thể tìm cách giành lại vùng Karelia mà họ từng cai trị. Những hành động như vậy có thể khiến liên bang sụp đổ hoàn toàn, nhưng cũng có thể phản tác dụng bằng cách kích động một cuộc phản kháng quần chúng ở Nga.

 

Trong bối cảnh hỗn loạn, ngay cả khi không bị mất lãnh thổ lớn, thì các băng nhóm tội phạm truyền thống và tội phạm mạng vẫn có thể hoạt động mà không bị trừng phạt. Vũ khí hạt nhân và vũ khí sinh học, cũng như các nhà khoa học phát triển chúng, có thể bị phân tán. Về cơ bản, người ta đã tránh được cơn ác mộng theo sau sự sụp đổ của Liên Xô, một phần vì nhiều nhà khoa học Liên Xô tin rằng một nước Nga tốt đẹp hơn có thể xuất hiện. Nhưng nếu nước Nga tan rã, thì chẳng thể đoán trước được người Nga sẽ cân nhắc giữa hy vọng và giận dữ như thế nào. Sự hỗn loạn không nhất thiết dẫn đến kịch bản ngày tận thế. Nhưng nó có thể xảy ra. Và ngày tận thế có thể chỉ bị trì hoãn, thay vì được ngăn chặn hoàn toàn.

 

(còn tiếp 1 phần)

 

                                                      *****

 

Năm kịch bản cho nước Nga tương lai (P3)

Stephen Kotkin  -  Foreign Affairs

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

09/05/2024  

https://nghiencuuquocte.org/2024/05/09/nam-kich-ban-cho-nuoc-nga-tuong-lai-p3/   

 

NGÕ CỤT CỦA LỤC ĐỊA GIÀ

 

Tương lai còn thiếu vắng ở đây chính là kịch bản tương lai phổ biến trong số những người phát ngôn của chế độ Putin, cũng như những nhà phê bình cực hữu của chế độ này: Moscow trở thành một cực riêng trong phiên bản của nước này về một thế giới đa cực, thống trị khắp Á-Âu và hoạt động như một trọng tài chính trong các vấn đề thế giới. “Chúng ta cần tìm lại chính mình và hiểu được mình là ai,” một nhân vật trung thành với Điện Kremlin, Sergei Karaganov đã chia sẻ vào năm ngoái. “Chúng ta là một cường quốc Á-Âu, Bắc Á-Âu, người giải phóng các dân tộc, người bảo vệ hòa bình, và là hạt nhân chính trị-quân sự của Đa số Thế giới. Đây là định mệnh hiển nhiên của chúng ta.” Cái gọi là phương Nam toàn cầu – hay như lời Karaganov là “Đa số Thế giới” – còn không tồn tại như một thực thể thống nhất, chứ chưa nói đến một thực thể với Nga là hạt nhân. Dự án biến nước Nga trở thành một siêu lục địa tự lực, trải dài khắp châu Âu và châu Á, đã thất bại. Mọi nỗ lực của Liên Xô để xây dựng một đế chế bên trong ở Biển Baltic và Biển Đen cùng một đế chế các nước vệ tinh bên ngoài cuối cùng đều vô ích.

 

Thế giới của Nga đang bị thu hẹp dù nước này đã chiếm gần 20% diện tích Ukraine. Về mặt lãnh thổ, giờ đây, nước Nga (ngoại trừ Kaliningrad) nằm cách xa trung tâm châu Âu hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ cuộc chinh phục của Peter Đại đế và Catherine Đại đế. Hơn ba thế kỷ sau khi xuất hiện bên bờ Thái Bình Dương, Nga chưa từng thành công trong việc trở thành cường quốc châu Á. Điều đó vẫn đúng ngay cả khi Thế chiến II mang đến cho nước này cơ hội trả thù Nhật Bản vì thất bại mà Nga phải gánh chịu vào năm 1905, sau đó tái lập vị thế của Sa hoàng ở Mãn Châu Trung Quốc, và mở rộng quyền kiểm soát của Nga tới tận Bán đảo Triều Tiên. Về mặt văn hóa, Nga sẽ không bao giờ xem quê hương của mình là châu Á, và khối dân nhỏ bé sinh sống ở phía đông Hồ Baikal đã ngày càng giảm sút kể từ khi Liên Xô sụp đổ.

 

Ảnh hưởng của Nga ở khu vực lân cận cũng đang giảm dần. Phần lớn những người không phải là người Nga ở các vùng biên giới thuộc Liên Xô ngày càng không muốn dính dáng đến chính quốc cũ của họ và chắc chắn không muốn bị sáp nhập trở lại. Người Armenia cay đắng, người Kazakhstan cảnh giác, còn người Belarus bị mắc kẹt và không hài lòng về điều đó. Chủ nghĩa Á-Âu và chủ nghĩa thân Slavơ giờ đây chỉ là những dòng chữ đã chết: đại đa số người Slavơ không phải người Nga trên thế giới đã gia nhập hoặc đang kêu gọi gia nhập Liên minh Châu Âu và NATO. Nếu Nga không đe dọa các nước láng giềng châu Âu, thì lý do tồn tại của NATO sẽ trở nên mơ hồ. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể xảy ra khi Nga phá vỡ liên minh NATO bằng cách trở thành một quốc gia pháp quyền tồn tại dài lâu – nhưng đó chính xác là điều mà Putin hết lòng phản đối.

 

Hiện không có cơ sở nào để Nga có thể đóng vai trò là đầu mối toàn cầu, lôi kéo các nước khác đứng về phía họ. Mô hình kinh tế của Nga không thể truyền cảm hứng, cũng không đủ khả năng để đóng vai trò là nhà viện trợ chính. Khả năng Nga chịu bán vũ khí còn thấp hơn – họ cần vũ khí và thậm chí còn cố gắng mua lại các hệ thống mà họ đã bán – và trong một số trường hợp, đành chịu trao đổi vũ khí với các quốc gia bị bài xích khác. Nga đã mất đi vị thế của người bảo trợ cho các vệ tinh. Giờ đây, họ thuộc về câu lạc bộ bị bài xích, bên cạnh Iran và Triều Tiên – cả ba trao đổi vũ khí với nhau, xem thường luật pháp quốc tế, và hứa hẹn gây thêm nhiều rắc rối. Tuy nhiên, không khó để tưởng tượng các thành viên của câu lạc bộ này sẽ phản bội nhau nếu có cơ hội tốt hơn, miễn là họ không bị vạch trần trước. Trong khi đó, phương Tây bền bỉ hơn những “quan hệ đối tác” của những nước chống phương Tây. Ngay cả những đối tác cũ của Liên Xô từng từ chối lên án Nga về vấn đề Ukraine, trong đó có Ấn Độ và Nam Phi, cũng không xem Moscow là đối tác phát triển, mà chỉ là giàn giáo để thúc đẩy chủ quyền của chính họ. Chính sách đối ngoại của Nga chỉ mang lại lợi ích chiến thuật, chứ không phải lợi ích chiến lược: không tăng cường nguồn nhân lực, không đảm bảo tiếp cận công nghệ tiên tiến, không củng cố đầu tư vào trong nước và xây dựng cơ sở hạ tầng mới, không cải thiện quản trị, và không có đồng minh hiệp ước tự nguyện có nghĩa vụ chung – đây vốn là những chìa khóa để xây dựng và duy trì sức mạnh thời hiện đại. Ngoài nguyên liệu thô và chính trị côn đồ, thứ duy nhất Nga xuất khẩu là nhân tài.

 

Nga cũng chưa bao giờ duy trì được vị thế cường quốc nếu không có quan hệ chặt chẽ với châu Âu. Và đối với Putin hoặc người kế nhiệm ông, quay lại châu Âu là một chặng đường dài. Putin đã chấm dứt hơn hai thế kỷ trung lập ở Thụy Điển và ba phần tư thế kỷ “Phần Lan hóa” (trong đó Helsinki chấp nhận chiều theo Moscow trong những cân nhắc chính sách đối ngoại quan trọng), khiến cả hai nước này gia nhập NATO. Kết cục phần lớn phụ thuộc vào diễn biến ở nước Đức: thử tưởng tượng số phận của châu Âu, và rộng hơn là trật tự thế giới, sẽ ra sao nếu sau Thế chiến II, thay vì trải qua sự chuyển đổi đáng chú ý, nước Đức lại phát triển tương tự như nước Nga ngày nay. Đức đóng vai trò là cầu nối với Nga, giúp đảm bảo sự thống nhất trong hòa bình theo các điều khoản của Nga và các mối quan hệ đối tác kinh doanh sinh lợi. Nhưng với tình hình hiện tại, Moscow không còn có thể đạt được các thỏa thuận với Berlin nhằm khôi phục quan hệ với châu Âu mà không thay đổi căn bản hành vi chính trị của mình, và có thể là cả hệ thống chính trị của mình. Hơn nữa, ngay cả khi Nga thực sự thay đổi một cách có hệ thống, với tư cách là thành viên thường trực của liên minh phương Tây và EU, Ba Lan và các nước vùng Baltic vẫn đang kiên quyết cản trở sự hòa giải của Nga với châu Âu.

 

Tương lai của Nga hiện có hai ngã rẽ: ngã rẽ thứ nhất là liều lĩnh dấn thân vào vòng tay của Trung Quốc, ngã rẽ còn lại là quay trở lại con đường trắc trở để về với châu Âu. Việc hưởng lợi từ cả hai – tồn tại như một cường quốc với sự năng động kinh tế được phục hồi, tránh nhượng bộ sâu rộng đối với phương Tây hoặc phụ thuộc lâu dài vào Trung Quốc, thống trị Á-Âu và thiết lập một trật tự thế giới an toàn cho chủ nghĩa độc tài hung hăng – sẽ đòi hỏi những đảo ngược vượt quá khả năng của Nga.

 

 

LIỆU CÒN CON ĐƯỜNG NÀO TỐT HƠN?

 

Đại chiến lược cơ bản của Nga trông có vẻ đơn giản: ồ ạt đầu tư vào quân đội, khả năng đánh lừa, lực lượng cảnh sát mật, và các kế hoạch lật đổ phương Tây. Cho dù vị thế chiến lược của họ có tồi tệ đến đâu, và thường là rất tệ, thì Nga vẫn có thể vượt qua, miễn là phương Tây cũng suy yếu. Ngoài sự tan rã của phương Tây, một số người Nga còn âm thầm mơ về một cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc. Tây và Đông sẽ tấn công lẫn nhau, và Nga sẽ cải thiện đáng kể vị thế tương đối của mình mà không phải đổ một giọt mồ hôi nào. Hàm ý quá rõ ràng: Washington và các đồng minh phải cùng nhau vững mạnh, còn Bắc Kinh phải bị răn đe mà không gây ra chiến tranh. Tuy nhiên, các lựa chọn thông thường chứa đựng những giới hạn nghiêm trọng. Lựa chọn đầu tiên là thỏa hiệp, điều mà các nhà cai trị Nga đôi khi cần, nhưng hiếm khi theo đuổi – và ngay cả khi làm vậy, họ sẽ gây khó khăn cho phương Tây. Lựa chọn thứ hai là đối đầu, điều mà các chế độ Nga mong muốn nhưng không đủ khả năng đáp ứng, và chi phí cơ hội của lựa chọn này quá cao đối với phương Tây. Con đường dẫn đến lựa chọn tốt hơn bắt đầu bằng việc thừa nhận thất bại một cách thẳng thắn, nhưng không phải là đi theo lối mòn cũ kỹ.

 

Những lời kêu gọi công nhận lợi ích “chính đáng” của Nga thường xuất hiện trong các bài phê bình chính sách của Mỹ, nhưng sự ổn định của một cường quốc đạt được bằng cách chấp nhận các khu vực ảnh hưởng cưỡng chế luôn chỉ là tạm thời, ngay cả khi chấp nhận trả giá bằng nỗi khổ của các quốc gia nhỏ hơn và nỗi nhục khi phải thoả hiệp các giá trị của Mỹ. Sau hành động của Tổng thống Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger, Trung Quốc và Nga giờ đây đang xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Kiểm soát vũ khí thực sự đã chết. Hoà hoãn (détente) cũng chết trước khi nhiều người kịp hiểu ý nghĩa của từ này, nhưng thiệt hại ở Đông Dương, Mỹ Latinh, Nam Á, và những nơi khác vẫn còn hiện rõ cho đến tận bây giờ. Kissinger có thể lập luận rằng những kết quả đáng thất vọng này là lỗi của kẻ khác, vì họ đã không tuân thủ nguyên tắc cân bằng trong các vấn đề quốc tế của ông. Nhưng trạng thái cân bằng chỉ phụ thuộc vào sự khéo léo của một bên thì không phải là trạng thái cân bằng.

Nhiều người ủng hộ và thực hiện chính sách can dự với Trung Quốc khẳng định rằng chính sách của Mỹ – vốn kéo dài hàng thập niên – khôn ngoan hơn vẻ ngoài của nó, và rằng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ luôn nghi ngờ về việc tăng trưởng kinh tế sẽ đưa Trung Quốc tới một hệ thống chính trị cởi mở, nhưng dù sao đây cũng là việc đáng để thử. Một số người cũng cho rằng Mỹ đã phòng bị trước thất bại. Tuy nhiên, công cuộc đánh bóng hình ảnh này của Mỹ đã thất bại bởi sự bất an rõ ràng trong chuỗi cung ứng toàn cầu (được bộc lộ bởi đại dịch COVID-19) và tình trạng tồi tệ của cơ sở công nghiệp quốc phòng Mỹ (được bộc lộ bởi cuộc chiến ở Ukraine). Trong trường hợp của Nga, Washington đúng là có phòng bị, bằng cách mở rộng NATO để bao gồm hầu hết các nước Đông Âu và các nước vùng Baltic. Nhưng điều đó không liên quan nhiều đến một đánh giá tỉnh táo về quỹ đạo khả thi của Nga, mà liên quan đến nỗi nhục Yalta, khi Washington bất lực trong việc thực hiện lời hứa về các cuộc bầu cử tự do và công bằng sau Thế chiến II, cũng như bất lực trước những lời kêu gọi gia nhập NATO sau năm 1989 của các ứng viên tiềm năng. Về phần mình, những người chỉ trích việc mở rộng NATO đổ lỗi cho chủ nghĩa phục thù lãnh thổ của Nga, như thể việc một chế độ độc tài xâm lược các nước láng giềng dưới danh nghĩa an ninh là điều gì đó rất bất thường trong lịch sử Nga và nó sẽ không xảy ra nếu liên minh không mở rộng – theo đó khiến nhiều quốc gia dễ bị tổn thương hơn.

 

Hòa bình đạt được là nhờ sức mạnh, kết hợp với tài ngoại giao khéo léo. Mỹ phải duy trì áp lực phối hợp lên Nga, đồng thời đưa ra các khuyến khích để Moscow chịu khuất phục. Điều đó có nghĩa là phải tạo ra đòn bẩy thông qua các công cụ quân sự thế hệ tiếp theo, nhưng đồng thời phải theo đuổi các cuộc đàm phán trong sự hợp tác chặt chẽ với các đồng minh và đối tác của Mỹ và được hỗ trợ bởi cái gọi là ngoại giao Kênh II giữa các nhân vật có ảnh hưởng nhưng phi chính phủ. Cùng lúc đó, Washington nên chuẩn bị và liên tục thúc đẩy khả năng tái điều chỉnh chủ nghĩa dân tộc ở Nga. Trong trường hợp Nga không sớm trở thành Pháp, thì con đường khả thi nhất để nước này tìm được vị trí ổn định trong trật tự quốc tế là sự trỗi dậy của một nhà dân tộc chủ nghĩa, người thừa nhận cái giá lâu dài của chủ nghĩa chống phương Tây cực đoan. Trong ngắn hạn, một bước đi theo hướng đó cũng có thể giúp chấm dứt cuộc chiến ở Ukraine theo những điều kiện có lợi cho Kyiv: cụ thể là một hiệp định đình chiến không công nhận tính hợp pháp của các đợt sáp nhập lãnh thổ, và cũng không ngăn cản Ukraine gia nhập NATO, EU, hoặc bất kỳ tổ chức quốc tế nào khác. Putin có thể đạt được mục tiêu chiến tranh của mình trước khi một sĩ quan quân đội hoặc viên chức chính phủ theo chủ nghĩa dân tộc Nga có cơ hội chấp nhận những điều khoản kể trên, nhưng người Nga vẫn sẽ phải trả giá đắt, vì xung đột có thể chuyển từ chiến tranh tiêu hao sang một cuộc nổi dậy của người Ukraine.

 

Nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng để tạo ra những động cơ phù hợp để buộc nước Nga khuất phục, Washington và các đối tác của mình cần có một chính sách thân Nga: nghĩa là, thay vì đẩy người Nga sâu hơn vào vòng tay của Putin, xác nhận những khẳng định của ông ta về một phương Tây tập thể chống Nga, các nhà hoạch định chính sách phương Tây và các tổ chức xã hội dân sự nên chào đón và tưởng thưởng – bằng thị thực, cơ hội việc làm, cơ hội đầu tư, trao đổi văn hóa – những người Nga muốn cắt đứt quan hệ giữa Putin và Nga, nhưng không nhất thiết buộc nhóm này theo đuổi các lý tưởng tự do của Jefferson. Sẽ là sai lầm nếu chỉ chờ đợi và thưởng cho một chính phủ Nga thân phương Tây.

 

Phương Tây cũng nên chuẩn bị cho một nước Nga có thể phá hoại nhiều hơn trên quy mô toàn cầu – nhưng đừng ép nước này làm như vậy. Một số nhà phân tích đã thúc giục Tổng thống Mỹ Joe Biden (hoặc một tổng thống tương lai) thực hiện một thoả thuận Nixon-Kissinger đảo ngược, nghĩa là tiến hành một nỗ lực ngoại giao tiếp cận Moscow để chống lại Bắc Kinh. Trong quá khứ, Trung Quốc và Liên Xô đã chia rẽ sâu sắc từ trước khi người Mỹ đi nước cờ của mình. Nhưng việc tách Nga khỏi Trung Quốc ngày nay sẽ là một nhiệm vụ khó khăn. Ngay cả khi nhiệm vụ đó thành công, Mỹ vẫn sẽ phải làm ngơ khi Moscow tái áp đặt phạm vi ảnh hưởng đối với các vùng lãnh thổ thuộc Liên Xô cũ, bao gồm cả Ukraine. Trong khi đó, quan hệ chặt chẽ giữa Trung Quốc và Nga đã làm mất uy tín của cả hai bên và đã ràng buộc các đồng minh của Washington ở châu Á và châu Âu chặt chẽ hơn với Mỹ. Thay vì đảo ngược, Washington có thể nhận thấy mình đang ở thời điểm cần một cập nhật của thoả thuận Nixon-Kissinger: hãy yêu cầu Trung Quốc giúp kiềm chế Nga.

 

 

CƠ HỘI TRONG NƯỚC VÀ Ở NƯỚC NGOÀI

 

Điều trớ trêu nhất trong đại chiến lược của Mỹ suốt 70 năm qua là nó đã phát huy tác dụng, thúc đẩy một thế giới hội nhập với sự thịnh vượng chung đầy ấn tượng, nhưng giờ đây nó lại bị bỏ rơi. Mỹ từng mở cửa thị trường kinh doanh cho các đối thủ của mình mà không cần họ đáp lại. Nhưng ngày nay, cái gọi là chính sách công nghiệp và chủ nghĩa bảo hộ đang phần nào đóng cửa nước Mỹ không chỉ với các đối thủ, mà còn với các đồng minh, đối tác, bạn bè, và những người bạn tiềm năng của Mỹ. Chính sách của Mỹ đã trở nên giống với chính sách của Trung Quốc – dù chính sách đó đã khiến Trung Quốc gặp bế tắc.

 

Chắc chắn, các biện pháp kiểm soát xuất khẩu công nghệ cần giữ một vị trí trong bộ công cụ chính sách, dù là với Trung Quốc hay với Nga. Nhưng người ta vẫn chưa thấy Mỹ đưa ra phần thưởng nào theo nghĩa tích cực. Một chính sách thương mại chiến lược – được phản ánh qua các sáng kiến như Hiệp định Thương mại Đối tác Xuyên Thái Bình Dương mà Washington đã xây dựng, nhưng sau đó lại từ bỏ – có lẽ sẽ không được ủng hộ trong bối cảnh chính trị nội bộ nước Mỹ hiện nay. Tuy nhiên, một chính quyền linh hoạt có thể dán nhãn mới cho cách tiếp cận này, biến nó thành một nhiệm vụ đầy tham vọng nhằm bảo vệ chuỗi cung ứng toàn cầu.

 

Trật tự thế giới đòi hỏi tính chính danh, một tấm gương đáng noi theo, một hệ thống mở cho những người nỗ lực phấn đấu. Nước Mỹ đã từng đồng nghĩa với cơ hội kinh tế cho các đồng minh và đối tác của họ, cũng như cho những quốc gia khác mong muốn đạt được sự thịnh vượng và hòa bình mà trật tự kinh tế mở do Mỹ lãnh đạo đã hứa hẹn – và phần lớn đã thực hiện được bằng cách giảm bất bình đẳng trên quy mô lịch sử toàn cầu, đưa hàng tỷ người thoát khỏi cảnh nghèo đói, và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của tầng lớp trung lưu. Nhưng theo thời gian, Mỹ đã nhường lại vai trò đó, cho phép Trung Quốc trở thành đồng nghĩa với cơ hội kinh tế (với tư cách là đối tác thương mại hàng đầu của hầu hết các quốc gia) và năng lực chế tạo (với tư cách là một trung tâm kỹ thuật, năng lực hậu cần, và công nhân trình độ cao). Để lấy lại vị thế đã mất và khởi động lại động lực di chuyển xã hội trong nước, Mỹ, nơi chỉ có 1,5 triệu giáo viên toán và đã phải “nhập khẩu” kiến thức về môn học này từ Đông Á và Nam Á, cần khởi động một chương trình để tạo ra thêm một triệu giáo viên toán mới trong vòng 10 năm nữa. Sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi chấp nhận cho sinh viên vào đại học dù thiếu hụt nền tảng toán học, vốn là ngôn ngữ phổ thông của khoa học, kỹ thuật, máy tính, và kinh tế, dẫn đến việc họ chỉ bị giới hạn trong các chuyên ngành về bản thân và những bức xúc của họ.

 

Chính phủ và các nhà từ thiện nên chuyển hướng nguồn tài trợ giáo dục đại học sang các trường cao đẳng cộng đồng đáp ứng hoặc vượt quá các tiêu chí đánh giá hiệu suất. Các tiểu bang nên khởi động một chương trình đầy tham vọng nhằm triển khai các trường dạy nghề và đào tạo, cho dù là tái khởi động chúng trong các trường trung học hiện có, hay mở các trường độc lập mới thông qua hợp tác với các nhà tuyển dụng ở cấp cơ sở. Ngoài nguồn nhân lực, Mỹ cần kích thích sự bùng nổ trong thị trường nhà ở bằng cách cắt giảm các quy định về môi trường và loại bỏ trợ cấp cho các nhà xây dựng, để cho thị trường tự vận hành. Nước này cũng cần tổ chức dịch vụ quốc gia cho thanh niên, có thể với sự tham gia của nhiều thế hệ, nhằm khơi dậy ý thức công dân và cảm giác mọi người cùng chung tay hành động.

 

Đầu tư vào con người, nhà ở, và tái khám phá tinh thần công dân ở quy mô tương đương với những lệnh động viên thời Chiến tranh Lạnh xoay quanh các dự án khoa học và quốc gia là không đủ để đảm bảo cơ hội bình đẳng ở nước Mỹ. Nhưng những chính sách như vậy vẫn là một khởi đầu quan trọng, một sự quay trở lại với công thức đã được kiểm chứng từng giúp xây dựng sức mạnh quốc gia của Mỹ kết hợp với vai trò lãnh đạo quốc tế của Mỹ. Một lần nữa, Mỹ sẽ có thể đồng nghĩa với cơ hội ở nước ngoài và ở trong nước, có thêm bạn bè, và ngày càng có khả năng ứng phó với bất kỳ tương lai nào của Nga. Tấm gương và thực tiễn kinh tế của Mỹ đã từng bẻ cong quỹ đạo của Nga trước đây và vẫn có thể làm như vậy một lần nữa, nhưng là với ít sự ảo tưởng hơn.

 

----------------------

Stephen Kotkin là nghiên cứu viên cấp cao tại Viện Hoover thuộc Đại học Stanford. Ông là tác giả của cuốn sách sắp xuất bản “Stalin: Totalitarian Superpower, 1941–1990s,” tập cuối cùng trong ba tập tiểu sử của ông.

 

 

Nguồn: Stephen Kotkin, “The Five Futures of Russia,” Foreign Affairs, 18/04/2024

 

 

 

 



No comments:

Post a Comment

View My Stats