Olga Dror - The New York Times
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2018/10/23/bai-hoc-tu-tham-sat-hue/
Là
một phần trong Chiến dịch Tết Mậu Thân (Tet offensive), Trận Huế bắt đầu bằng đợt
tấn công của lực lượng cộng sản rạng sáng 30/01/1968. Cố đô khi ấy được bảo vệ
bởi Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH), các đơn vị dân quân địa phương, cùng với
Thủy quân Lục chiến và Không quân Hoa Kỳ. Trong khi đó, lực lượng nòng cốt của
cộng sản ở Huế là quân đội Bắc Việt (Quân đội Nhân dân Việt Nam, QĐNDVN) với sự
hỗ trợ của các đơn vị cộng sản miền Nam – Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam, còn được gọi là Việt Cộng, cũng như những người cảm tình với cộng sản,
nhiều người trong số họ là cựu thành viên của Phong trào Đấu
tranh (Struggle Movement) do các nhà sư và sinh viên Phật giáo tổ chức
tại Huế vào năm 1965, sau trở thành phong trào Phật giáo Nổi dậy (Buddhist
Uprising) mà QLVNCH đàn áp vào năm 1966. Nhiều thành viên của phong trào này đã
chạy trốn đến vùng núi và gia nhập phe cộng sản; đến Chiến dịch Tết Mậu Thân, họ
trở về Huế trong hàng ngũ những người cộng sản.
Kéo
dài đến ngày 24/02, Trận Mậu Thân tại Huế được xem là cuộc giao tranh lớn nhất ở
đô thị trong suốt chiến tranh Việt Nam. Phe cộng sản đã mất khoảng 5.000 lính,
trong khi thiệt hại của QLVNCH là khoảng 400 người và của Mỹ là 216 người. Khoảng
80% cố đô bị phá hủy. Không những thế, trận đánh còn gây ra thương vong cho rất
nhiều dân thường.
Bài
đang hot
Suốt
đợt giao tranh, lực lượng Việt Cộng và QĐNDVN đã tổ chức các khu giải phóng
(liberated zones), tiến hành nhiều buổi tuyên truyền, ra lệnh phân phối khẩu phần
ăn, buộc thanh thiếu niên tham gia lao động và chiến đấu, cũng như chỉ điểm kẻ
thù, và đôi khi chỉ điểm cả thành viên trong gia đình họ nhằm tố cáo và sát hại.
Các cựu thành viên của Phong trào Đấu tranh, những người đã rời Huế vào năm
1966 rồi trở về cùng phe cộng sản vào năm 1968, vốn đã rất quen thuộc với thành
phố và giờ đây có vai trò quan trọng trong việc xác định những kẻ cần thủ tiêu.
Không
chỉ có các viên chức trong chính phủ và quân đội bị tàn sát, mà cả thường dân
vô tội, trong đó có phụ nữ và trẻ em, cũng bị tra tấn, hành quyết hoặc chôn sống.
Sau trận Huế, hàng ngàn người đã mất tích. Chẳng ai biết được thân nhân của
mình đang ở đâu; họ lang thang khắp các nẻo đường, tìm kiếm và đào bới giữa đống
thi thể. Người dân thậm chí còn tìm thấy xác chết ở khu vực Kinh thành Huế và
xung quanh lăng mộ của các vua bên ngoài thành phố.
Chỉ trong
vòng vài tháng, người ta bắt đầu tìm thấy những ngôi mộ tập thể. Số lượng xác
chết tiếp tục tăng lên cùng với việc phát hiện thêm nhiều ngôi mộ vào mùa thu
năm 1969. Tổng số thi thể được khai quật quanh thành phố đã tăng tới khoảng
2.800. Vụ thảm sát thường dân không được vũ trang với quy mô lớn như vậy đã để
lại một vết sẹo rất sâu trong ký ức của những người sống sót.
Nhiều
thập niên trôi qua, Thảm sát Huế đã trở thành “điểm bùng phát” trong các cuộc
tranh luận về chiến tranh, cả ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Mọi chuyện bắt đầu một vài
tháng sau trận chiến, khi Nhã Ca, một nhà văn nổi tiếng của miền Nam Việt Nam,
viết hồi ký Giải
khăn sô cho Huế (tựa tiếng Anh: Mourning Headband for Hue.) Tác phẩm được xuất bản
lần đầu trên một tờ báo và sau đó được in thành sách vào năm 1969. Thời điểm
trước Tết Mậu Thân, Nhã Ca từ Sài Gòn trở về Huế để dự lễ tang cha mình, và bà
đã lưu lại ở đó suốt trận chiến.
Trong
cuốn sách, nữ nhà văn mô tả tội ác của những người cộng sản, nhưng cũng đưa ra
những ví dụ về tính nhân văn của họ. Bà cũng cho thấy hai mặt, tối và sáng, của
lính Mỹ và QLVNCH. Tất cả tạo nên một bức tranh sống động về định mệnh khủng
khiếp của phận thường dân. Mô tả sự tàn bạo của những người cộng sản, bà than
khóc cho hoàn cảnh của đất nước mình, cho số phận của tất cả những người Việt
Nam nhỏ bé bị mắc kẹt trong trò chơi quyền lực giữa hai phe, cộng sản và chống
cộng. Cuốn sách này đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Anh vào năm 2014 (và
tôi là dịch giả).
Đối
với nhiều người Việt Nam, Giải khăn sô cho Huế vẫn là một
trong những hồi ký quan trọng về vụ thảm sát và về những người thân yêu của họ.
Nhưng không phải ai cũng nhìn nhận cuốn sách theo cách này. Khi viết cuốn sách
vào năm 1969, Nhã Ca kêu gọi độc giả chia sẻ trách nhiệm trước cảnh điêu tàn của
đất nước. Nhưng nhiều người dân miền Nam Việt Nam không đồng tình với lời kêu gọi
đồng bào cùng gánh vác trách nhiệm chung trong cuộc chiến, mà với họ, đấy là kết
quả từ hành động xâm lược của cộng sản miền Bắc.
Trong
khi những ngôi mộ tập thể tiếp tục được tìm thấy ở Huế, sự chú ý của người Mỹ lại
chuyển sang những sự kiện ồn ào trong nước vào năm 1968: Ngày 31/03, Tổng thống
Johnson tuyên bố rằng ông sẽ không tái tranh cử; ngày 04/04, Mục sư Martin
Luther King Jr. bị ám sát, khởi đầu của chuỗi bạo động khắp các thành phố của Mỹ;
ngày 06/06, Robert F. Kennedy bị ám sát; sang tháng 08, xung đột bạo lực giữa cảnh
sát và những người biểu tình đã diễn ra ngay tại Đại hội Toàn quốc của Đảng Dân
chủ ở Chicago; cuối cùng, chiến dịch tranh cử Tổng thống kết thúc với chiến thắng
của Richard Nixon. Số phận các nạn nhân ở Huế đã chẳng thể đánh bật các tin tức
này.
Sau
đó, mặc dù người dân Huế vẫn tiếp tục khai quật được nhiều ngôi mộ của những
người mất tích và số lượng thi thể chưa được phát hiện tăng lên con số hàng
ngàn, tin tức về một thảm kịch khác tiếp tục khiến Huế bị lu mờ. Ngày
16/03/1968, chưa đầy một tháng sau sự kiện ở Huế, lính Mỹ tiến vào làng Mỹ Lai
và giết chết khoảng 300 tới 400 dân thường, kể cả trẻ em, người già và phụ nữ.
Khi vụ việc bị phanh phui vào năm 1969, người dân Mỹ vô cùng kinh hoàng trước
những hành động mà binh lính của họ đã làm ở Việt Nam. Các nạn nhân Mỹ Lai và
các thủ phạm người Mỹ đã đẩy các nạn nhân Huế và các thủ phạm cộng sản ra khỏi
phương tiện truyền thông Mỹ, và xa hơn, ra khỏi sự chú ý của công chúng Mỹ và
thế giới.
Nếu
họ có quan tâm đến Thảm sát Huế, người Mỹ cũng nhìn nhận sự việc qua con mắt đảng
phái, chính trị hóa. Douglas Pike, một nhà báo gia nhập Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ
ở Việt Nam (U.S. Information Agency in Vietnam), sau đó trở thành một viên chức
Bộ Ngoại giao, là một trong những người Mỹ đầu tiên kêu gọi chú ý đến Thảm sát
Huế, và trích dẫn sự kiện này là bằng chứng cho sự nguy hiểm nếu cộng sản tiếp
quản miền Nam Việt Nam. Quan điểm của Pike đã được Tổng thống Nixon và các
thành viên chủ chiến trong Quốc Hội Mỹ chấp nhận để biện minh cho việc sẽ không
rút lui đột ngột khỏi chiến tranh Việt Nam.
Ngược
lại, các chính trị gia chống chiến tranh lại sử dụng công trình của Gareth
Porter, một nhà khoa học chính trị kiêm nhà báo, người cho rằng Thảm sát Huế diễn
ra trên quy mô nhỏ hơn so với báo cáo, và đơn giản chỉ là hành động trả thù của
một toán quân trên đường rút lui. Dựa trên nghiên cứu của Porter, Thượng nghị
sĩ George McGovern cáo buộc chính quyền Nixon sử dụng sự kiện ở Huế như một lý
do để người Mỹ tiếp tục hiện diện nơi đây. Ông thậm chí còn coi nhẹ khi gọi những
vụ giết người ở Huế là “thứ gọi là Thảm sát Huế” (the so-called Hue massacre).
Việc
sự kiện Huế ít được quan tâm vẫn tiếp tục ở thời hậu chiến. Khác với Thảm sát Mỹ
Lai – được đề cập trong hầu hết các sách về chiến tranh Việt Nam và được phân
tích trong hàng tá sách chuyên ngành xuất bản từ những năm 1970 đến nay – Thảm
sát Huế chưa hề được nghiên cứu một cách nghiêm túc, và gần như, nếu không muốn
nói là hoàn toàn, phai nhạt khỏi ký ức của người dân và giới học giả Mỹ.
Chính
trị hóa Thảm sát Huế đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam và Hoa Kỳ. Vụ việc
hoàn toàn không hề được đề cập trên báo chí hoặc trong bất kỳ diễn đàn công cộng
nào khác ở Liên Xô, vào năm 1968 hoặc trong những năm sau đó. Tiếng nói bày tỏ
quan ngại duy nhất từ Liên Xô là Aleksandr Solzhenitsyn, một người bất đồng
chính kiến Liên Xô. Và tình hình cũng chẳng thay đổi ở nước Nga thừa kế Liên
Xô.
Năm
2012, trong khi trình bày về Thảm sát Huế và câu chuyện của Nhã Ca tại một hội
nghị khoa học ở Moskva, tôi được nhắc nhở phải tập trung vào những hành vi tàn
bạo của người Mỹ và “con rối” của họ – quân đội Việt Nam Cộng hòa. Tôi đồng ý rằng
chúng ta phải và sẽ thảo luận về tội ác của Mỹ, nhưng cũng không nên bỏ qua những
gì mà bên còn lại đã làm. Nhưng “Không,” người ta bảo tôi rằng những người cộng
sản đã chiến đấu vì lý do chính đáng và chúng ta phải tập trung vào các tội ác
của người Mỹ. Phần trao đổi thảo luận đã được ghi lại trong kỷ yếu hội nghị.
Trong số 50 người ở khán phòng hôm ấy, không một ai lên tiếng ủng hộ quan điểm
của tôi; mãi sau đó, tôi mới nhận ra rằng họ không cần “tính khách quan kiểu
phương Tây” của tôi.
Là
một nhà sử học, tôi nhận ra một điểm chung kỳ lạ giữa quan điểm của giới học
thuật Mỹ và Liên Xô/Nga về vụ thảm sát, và một “liên minh” Liên Xô/Nga -Mỹ, nếu
không muốn nói là có chủ ý, trong việc chấp nhận phiên bản lịch sử chiến tranh
của Hà Nội. Các học giả Mỹ đã tập trung chủ yếu hoặc vào khía cạnh chiến tranh
của người Mỹ, hoặc vào quan điểm của Bắc Việt; và dù là cách nào thì cựu đồng
minh của Mỹ cũng hầu như bị bỏ qua. Việt Nam Cộng hòa, nơi có nhiều công dân phải
rời quê hương và định cư ở Mỹ, đã bị đẩy sang bên lề, nếu không muốn nói là
hoàn toàn biến mất khỏi các trang giấy, khỏi những câu chuyện thời hậu chiến,
trong khi đối thủ cũ của họ lại được lãng mạn hóa.
Việc
xem Mỹ là thủ phạm duy nhất của chiến tranh đã phủ nhận vai trò của phía miền
Nam Việt Nam, những người không muốn sống dưới chế độ cộng sản và đã chiến đấu
vì lý do này; đồng thời, nó cũng che giấu thực tế rằng việc đánh đuổi người Mỹ
chỉ là bước đầu tiên để đưa miền Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng của miền Bắc. Hà Nội
luôn nhấn mạnh rằng nước Việt Nam thống nhất sẽ là một quốc gia xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, ngay cả trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, đó vẫn có thể được coi
là một cuộc nội chiến giữa hai miền để định đoạt tương lai của họ.
Việc
Mỹ tham chiến tại Việt Nam đã được diễn giải thành các phân tích và trình bày về
những tội ác và nhiều hành vi sai trái khác. Nhưng nếu ta không thảo luận về những
sai lầm của tất cả các bên tham chiến thì sự hòa giải chân thành hoặc nghiên cứu
sự thật lịch sử sẽ không thể tồn tại. Công bằng mà nói, tình hình tại Mỹ đã bắt
đầu thay đổi, dù còn rất chậm, khi một thế hệ học giả mới được đào tạo tiếng Việt
và thực sự quan tâm đến tất cả các bên của cuộc xung đột đang giúp phát triển
các nghiên cứu ra ngoài trọng tâm nước Mỹ.
Đây
cũng là một thay đổi rất cần thiết cho phía Việt Nam. Khi hai nước theo đuổi mục
tiêu hòa giải của mình, các học giả Mỹ cần phải hiểu sâu hơn những trải nghiệm
của miền Nam Việt Nam trong chiến tranh. Nhưng hòa giải cũng không thể đến từ hội
chứng kẻ chiến thắng (victor’s syndrome) như cách mà nhà nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang thực hiện – nói một cách đơn giản là, chúng ta
đã thắng, vậy nên hãy ăn mừng chiến thắng và quên đi những kẻ thua cuộc. Hòa giải
chỉ có thể đạt được thông qua một cuộc đối thoại và thảo luận về tội ác của cả
hai bên.
Nhiều
người Việt Nam ở Việt Nam và khắp nơi trên thế giới vẫn mong muốn và thực sự cần
phải khóc thương cho những người thân yêu đã mất trong Thảm sát Huế. Họ không
thể làm điều đó ở Việt Nam. Trong chiến tranh, Bắc Việt và lực lượng cộng sản ở
miền Nam đã không công nhận vụ thảm sát và không trừng phạt bất kỳ thủ phạm
nào. Nước Việt Nam hậu chiến cũng không công nhận vụ thảm sát, họ muốn bỏ qua
nó, hoặc xem nó là một sự kiện ngụy tạo. Trong các sự kiện kỷ niệm chiến dịch Tết
Mậu Thân ở Việt Nam, Thảm sát Huế chẳng bao giờ xuất hiện.
Việc
biến người Mỹ thành “kẻ ác duy nhất” cũng đã góp phần xóa bỏ những hành vi sai
trái của những người cộng sản. Nhận thức về lịch sử là một yếu tố quan trọng
trong việc định hình một quốc gia và duy trì bản sắc của một con người, nhưng
nhiều học sinh sinh viên ở Việt Nam lại không thích tìm hiểu về lịch sử của họ,
một phần vì họ hiểu mình bị giới hạn trong việc tiếp cận tài liệu và các nguồn
lực khác, cũng như việc họ bị hạn chế ra sao trong việc giải thích lịch sử. Điều
này khuyến khích sự ngờ vực chính phủ, một điều vốn sẽ dần gia tăng khi ngày
càng có nhiều tài liệu thách thức phiên bản lịch sử của đảng xuất hiện. Lớn lên
ở Liên Xô, tôi đã từng trải nghiệm và hiểu được sẽ tai hại đến mức nào nếu cứ
duy trì một “bức màn chân lý” mà chính bản thân chúng tôi không thể tin tưởng.
Với những tiến bộ khoa học công nghệ hiện nay, Việt Nam phải đối mặt với một
nhiệm vụ khó khăn hơn Liên Xô rất nhiều trong việc định hình nhận thức của người
dân.
Sự
hòa giải và các câu chuyện lịch sử đa diện cũng cần thiết cho người Mỹ. Nhiều
người Việt Nam mất người thân ở Huế, và sau đó mất luôn đất nước của họ, giờ
đây đang là một phần không thể tách rời của xã hội Mỹ. Khóc thương những gì đã
xảy ra ở Huế nhắc nhở người Mỹ chúng ta về thái độ quá tập trung vào chính mình
trong cách chúng ta nghĩ về vai trò chiến tranh của mình, cũng như sự không sẵn
lòng tìm hiểu thêm về “những người khác,” vốn là điều đang ám ảnh chính sách hiện
tại của Mỹ đối với các nước khác.
------------------------
Olga
Dror
là Phó Giáo sư tại Đại học Texas A&M. Bà đã xuất bản các nghiên cứu và bản
dịch cuốn “Giải khăn sô cho Huế” của Nhã Ca; đồng thời là tác giả của chuyên khảo
sắp xuất bản “Making Two Vietnams: War and Youth Identity, 1965-1975.”
No comments:
Post a Comment