Tôn
giáo thuộc phạm trù đức tin, là dân quyền hiến định, cần được pháp luật bảo vệ
Thiện
Ý
23/03/2023
Tôn
giáo là một trong những dân quyền căn bản của con người. Và vì vậy Hiến pháp
các nước dân chủ (ngay cả độc tài) đều ghi nhận tín ngưỡng, tôn giáo hay vô
thần, là quyền tự do lựa chọn của mọi công dân và được luật pháp bảo vệ.
https://gdb.voanews.com/2C1AAD78-993F-4DB6-BAE4-21F35C4A893C_w1023_r1_s.png
Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo
Quốc Tế Hoa Kỳ.
*
Không phải chỉ mới đây mà đã từ lâu, một nhóm qui tụ
những người Việt vô thần đội lốt tôn giáo cực đoan, đã viết báo, viết sách và
các phương tiện truyền thông khác để phê bình chỉ trích, bài bác, đánh phá các
tín đồ và giáo hội Công giáo nói riêng, Thiên Chúa giáo nói chung, trên hai
bình diện giáo lý tín điều và lịch sử hình thành, phát triển giáo hội Công giáo
tại Việt Nam. Bằng những nhận thức và suy luận chủ quan dựa trên những căn cứ
giả chân lẫn lộn, các tác giả đã ngụy biện, xuyên tạc sự thật, sử dụng những
ngôn từ thiếu văn hóa lăng mạ Thượng Đế và các Thần Thánh mà hàng tỷ con người
có chung niềm tin yêu tôn thờ; xúc phạm thô bạo niềm tin tôn giáo cá nhân cũng
như tập thể. Đồng thời, bằng mọi cách gian trá, họ đã mạ lỵ và phủ nhận công
trạng các nhận vật lịch sử Việt Nam gốc Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Ngô
Đình Diệm… Đồng thời kết tội sai trái, hồ đồ, vơ đũa cả nắm, rằng người Việt
Nam Công giáo đã dẫn Pháp vào xâm lược Việt Nam và là tay sai Pháp thời Pháp
thuộc. Sự thật lịch sử thế nào, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài viết khác.
Bài viết này của chúng tôi không nhằm tham gia một
cuộc tranh luận hay “bút chiến” về tôn giáo với bất cứ ai, hữu thần cũng như vô
thần. Chúng tôi viết bài này chỉ để trình bày nhận thức cá nhân về tôn giáo là
một phạm trù Đức tin và là một dân quyền hiến định phải được mọi người tôn
trọng, luật pháp bảo vệ trước mọi xâm hại thô bạo bất cứ từ đâu tới. Vì vậy
chúng tôi xin lần lượt trình bày:
- Tôn giáo thuộc phạm trù Đức Tin của cá nhân hay tập thể
- Tôn giáo là một trong những dân quyền hiến định cần được pháp luật
bảo vệ
- Nên chăng quốc gia cần có luật bảo vệ niềm tin tôn giáo khi bị xâm
hại, xuyên tạc, lăng mạ
.
I - TÔN
GIÁO LÀ MỘT PHẠM TRÙ ĐỨC TIN CỦA CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂ.
Từ khi con người xuất hiện trên trái đất, qua nhiều
thời đại đến nay, vấn nạn muôn thuở của loài người vẫn chưa được giải đáp thỏa
đáng cho mọi người. Đó là, vũ trụ vạn vật, trong đó có con người, từ đâu đến,
vận hành theo quy luật riêng của mỗi loài cũng như quy luật chung của muôn
loài, qua thời gian năm tháng, hiện hữu, phát triển, suy thoái rồi tiêu vong,
sẽ đi về đâu.
Con người là một sinh vật thượng đẳng, trong muôn
vàn sinh vật hình thù, kích thước lớn nhỏ khác nhau, hữu hình cũng như siêu
hình. Nhưng sự phát sinh sự sống, vận hành, phát triển và tiêu vong đều theo
quy luật chung của loài động vật và quy luật riêng của mỗi loài sinh vật. Con
người được coi là một sinh vật thượng đẳng nhờ bộ não có cấu tạo đặc biệt và
phát triển nhanh hơn các sinh vật khác nên có khả năng nhận biết giới hạn về
chính thân phận mình và ngày càng mở rộng tầm hiểu biết về vũ trụ vạn vật nhờ
những phát minh khoa học kỹ thuật, giúp con người có thể khắc phục thiên nhiên,
làm chủ xã hội, làm chủ bản thân, cải tạo được môi trường sống ngày một thuận
lợi trong việc mưu cầu hạnh phúc riêng (cá nhân) cũng như chung (gia
đình và xã hội) của loài người.
Tuy nhiên, cho đến nay, dù tầm tri thức đã mở rộng,
do khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực, song vẫn hữu hạn, nên con người vẫn chưa
có câu trả lời thỏa đáng cho những vấn nạn muôn thuở của loài ngươi, là vũ trụ,
vạn vật trong đó có con người từ đâu tới và sẽ đi về đâu. Và vì vậy đã có hai
cách trả lời tạm thời của hai loại con người: Hữu thần và vô thần.
Người
vô thần thì cho rằng vũ trụ vạn vật tự nhiên mà có và vận hành theo
quy luật tự nhiên; không có thế giới nào tồn tại ngoài thế giới vật chất. Không
có tinh thần hay thần linh nào tạo ra vũ trụ vạn vật. Con người cũng thế, sự
sống hình thành theo quy luật truyền sinh và cuộc sống muôn màu muôn vẻ, trong
đó hạnh phúc và đau khổ, công, tội, hiền, ác, thưởng, phạt… là các mặt đối lập
của cuộc sống, tất cả chỉ phát sinh, tồn tại, phát triển, tiêu vong theo quy
luật, ngay trong thế giới này, không có gì tồn tại sau cái chết của con người.
Trái
lại, những con người hữu thần, tiêu biểu như
những tín đồ và các giáo hội Thiên Chúa giáo, bằng cặp mắt Đức tin tôn giáo đã
xác tín rằng từ khởi thủy, vũ trụ vạn vật trong đó có con người là do Thiên
Chúa tạo dựng và cho chúng vận hành theo quy luật chung cũng như riêng. Cuộc
sống trong thế giới này với các mặt đối lập: hạnh phúc và đau khổ, tội lỗi và
công phúc, thiện và ác… tất cả chỉ là tạm thời, cuộc sống bất hoàn, là tiền đề
cho con người tạo dựng một cuộc sống viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu, hay đưa con
người đến một cuộc sống cùng khổ đời đời sau cái chết. Tất cả tùy thuộc vào công
phúc hay tội lỗi mà con người đã làm trong suốt cuộc đời trên trần thế.
Các nhận thức khái quát trên, đã dẫn đưa đến những
nhân định sau đây:
1
- Có sự khác biệt giữa hai phạm trù khoa học và phạm trù đức tin tôn giáo.
Khoa học là phạm trù “tri thức” của con
người, là những sự hiểu biết căn cơ, có thể chứng minh bằng luận lý và thực
nghiệm và là một chân lý tuyệt đối, vì được mọi người hữu thần cũng như vô thần
công nhận như 2+2=4. Con người đã và đang nỗ lực mở rộng “tầm tri thức
hữu hạn” để khám phá vô hạn các quy luật vận hành của vũ trụ vạn vật, với
ước mong tìm được “chân lý tuyệt đối”, để có được câu trả lời trọn vẹn
được mọi người công nhận, cho các câu hỏi muôn thuở của loài người: Vũ trụ, vạn
vật trong đó có con người, từ đâu tới và sẽ đi về đâu?
Tôn
giáo là phạm trù “Đức tin” của mỗi con người, tiếp
nối phạm trù “tri thức hữu hạn”, do mỗi con người tùy theo hoàn cảnh
sống, đã được chọn lựa cho ngay khi chào đời do gia đình và tiếp tục giữ Đức
tin sau này khôn lớn; hay khi có đủ ý thức tự nguyện, tự giác lựa chọn một niềm
tin tôn giáo riêng… Tất cả đều để tự giải đáp cho những vấn nạn muôn thuở của
loài người và thể hiện Đức tin trong cuộc sống để đạt cùng đích của cuộc đời.
Đức tin tôn giáo không thể chứng minh bằng luận lý và thực nghiệm, vì nó vượt
khỏi “tầm tri thức hữu hạn” con người. Những gì mà ánh sáng khoa
học (phạm trù tri thức) chưa soi rọi tới, thì ánh sáng tôn giáo (phạm
trù Đức tin) sẽ soi rọi tạm thời.
2
- Phạm trù “Đức tin tôn giáo” là không thể và không nên tranh luận.
Chính sự khác biệt giữa hai phạm trù “Tri
thức khoa học” và “Đức tin tôn giáo”, nên không thể và không nên có
các cuộc tranh luận (về giáo lý, tín điều…), dưới bất cứ hình thức
nào (miệng hay bút chiến…) giữa những người khác tôn giáo hay giữa
những người hữu thần với vô thần; chỉ với mục đích tranh thắng hơn thua, phải
trái, chân lý, phi chân lý, khoa học hay phản khoa học liên quan đến giáo lý,
các tín điều.
Vì
rằng cuộc tranh luận này chẳng khác gì câu chuyên ngụ ngôn về 5 người mù cãi
nhau về hình thù con voi sau khi mỗi người chỉ
được cho sờ vào một bộ phận của con voi. Người sờ được vòi voi thì nói hình thù
con voi giống con đỉa, anh sờ tai voi thì nói voi giống cái quạt, kẻ sờ chân
voi thì nói voi giống cột nhà... Hệ quả là không ai chịu ai về hình thù con
voi, ai cũng cho mình là đúng. Tình cảm đoàn kết yêu thương trước đó chắc sẽ
sứt mẻ là điều không tránh khỏi sau cuộc cãi nhau này. Có lẽ họ chỉ ngừng cãi
nhau, tình cảm ấm áp được tái lập nguyên trạng, cho đến khi được chữa cho đôi
mắt của họ sáng ra, để nhìn thấy hình thù thật sự của con voi.
Những
người tranh luận về tôn giáo cũng vậy. Làm sao có
thể đồng ý được với nhau khi mỗi người do hoàn cảnh sinh ra trong các gia đình
có tôn giáo khác nhau, thường theo tôn giáo của cha mẹ. Hậu quả sẽ rất tai hại
trong quan hệ tình cảm cá nhân, gây chia rẽ hận thù giữa con người với con
người, phân hóa dân tộc. Trừ khi hậu quả này là ý đồ thực sự của chính những kẻ
gây ra tranh luận. Điển hình như việc làm các thành viên nhóm đánh phá Công
giáo từ bao lâu nay trên mạng ảo cũng như thực địa.
3
- Đức tin tôn giáo là ý thức chủ quan của mỗi cá nhân.
Đức tin tôn giáo hay vô thần là sự tự do lựa chọn
của mỗi con người, là nhu cầu tinh thần của mỗi cá nhân. Anh tin thì theo,
không tin thì không theo tôn giáo. Nhưng ai cũng phải tôn trọng niềm tin của
người khác, dù niềm tin ấy anh cho là phi lý, là mê tín dị đoan, là phản khoa
học, anh vẫn không có quyền bài bác, nhất là phỉ bang mạ lỵ thậm từ ngay cả
đấng Thần Linh mà họ tôn thờ; xúc phạm thô bạo, nặng nề đến niềm tin tôn giáo,
gây phẫn nộ cho các tín đồ có chung niềm tin, như việc làm có chủ đích bao lâu
nay của nhóm người Việt chống phá tôn giáo.
Vì
là nhu cầu tinh thần cá nhân, nên trong
cuộc sống thực tế nền tảng chung hình thành tình cảm giữa người với người là
nhân bản.
Vì vậy mới có tình yêu, tình bạn thắm thiết giữa
những người khác tôn giáo. Và vì vậy, không thể và không nên tranh luận về giáo
lý, tín điều, về ánh sáng và bóng tối trong lịch sử hình thành các tôn giáo,
giữa những người vô thần hay khác Đức tin. Có chăng là sự trao đổi để hiểu biết
lẫn nhau, trong sự tương kính, tế nhị không phương hại đến tình cảm và cuộc
sống hài hòa vốn có giữa những người khác tôn giáo, có chung thân phận con
người, có chung những vấn nạn mà mỗi tôn giáo đã có câu trả lời theo giáo lý,
tín điều riêng. Đó là những chân lý tuyệt đối về mặt chủ quan đối với tín đồ,
nhưng lại là chân lý tương đối về mặt khách quan với người khác niềm tin.
II - TÔN
GIÁO LÀ MỘT TRONG NHỮNG DÂN QUYỀN HIẾN ĐỊNH CẦN ĐƯỢC LUẬT PHÁP BẢO VỆ.
Tôn giáo là một trong những dân quyền căn bản của
con người. Và vì vậy Hiến pháp các nước dân chủ (ngay cả độc tài) đều ghi nhận
tín ngưỡng, tôn giáo hay vô thần, là quyền tự do lựa chọn của mọi công dân và
được luật pháp bảo vệ. Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của tu chính án đầu tiên đã
ghi “Quốc hội không được làm luật thiết lập một tôn giáo (như một quốc
giáo) và ngăn cản quyền tự do hành đạo”. Ngay cả chế độ độc tài toàn
trị cộng sản hiện nay tại Viêt Nam cũng ghi nơi Điều 70 “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật…”
Thế nhưng dù tôn giáo được các hiến pháp ghi nhân
như một trong những dân quyền cơ bản, trên thực tế đã không có luật lệ riêng
nào bảo vệ tôn giáo khi bị xâm hai, xúc phạm, lăng mạ thô bạo như luật bảo vệ
lợi ích và danh dự cá nhân công dân trong quốc gia khi bị xâm hại.
Một cách cụ thể là tại sao đời tư một cá nhân khi bị
kẻ khác xuyên tạc, vu cáo, nhục mạ bằng lời nói hay hành động làm mất danh dự,
gây thiệt hại tinh thần hay vật chất cho mình, đều có thể khởi kiện trước tòa
đòi bồi thường danh dự và những thiệt hại tinh thần cũng như vật chất do sự
xuyên tạc, vu cáo, mạ lỵ gây ra. Trong khi, những kẻ như nhóm người Việt chống
phá tôn giáo đã dùng sách báo và phương tiện truyền thông xuyên tạc giáo lý,
tín điều, lịch sử các giáo hội Thiên Chúa Giáo, nhục mạ thậm từ Thiên Chúa và
các thánh thần được hàng tỷ tín đồ thờ kính, xúc phạm thô bạo niềm tín tôn giáo
của các tín đồ, xâm phạm đời tư cá nhân các tín đồ, nội bộ các giáo hội, gây
thiệt hại nghiêm trong về tinh thần cũng như vật chất của thể nhân (Tín đồ)
và pháp nhân (Các giáo hội)… thì tại sao các tín đồ và các giáo hội lại không
thể đứng dân sự nguyên cáo để đưa các bị cáo ra trước pháp luật? Phải chăng vì
chưa có luật bảo vệ tôn giáo chống lại sự xâm hại, nên những kẻ thù của tôn
giáo nói chung, của Thiên Chúa Giáo nói riêng đã ngang nhiên xuyên tạc, vu
khống, mạ lỵ tôn giáo; như nhóm chống phá tôn giáo vẫn ngang nhiên hành động
bấy lâu nay, bất chấp sự phẫn nộ của những tín đồ?
Và do đó….
III - NÊN
CHĂNG QUỐC GIA CẦN CÓ LUẬT BẢO VỆ NIỀM TIN TÔN GIÁO KHI BỊ XÂM HẠI, LĂNG MẠ
THẬM TỪ?
Vì sao? Thật đơn giản, tự do tôn giáo đã là dân
quyền hiến định, thì mọi công dân có quyền tự do lựa chọn tôn giáo theo niềm
tin cá nhân, hành đạo và truyền đạo, quyền tham gia các sinh hoạt của giáo hội.
Bất cứ sự vi phạm nào của bất cứ ai, chính quyền cũng như cá nhân, tập thể nào
đều là vi hiến, phải bị pháp luật trừng phạt.
Vậy thì, nếu có những hành vi xuyên tạc, vu khống,
nhục mạ thô bạo tôn giáo, gây hậu quả nghiệm trọng của cá nhân hay pháp nhân
thì các tín đồ (thể nhân) hay Giáo hội (Pháp nhân) có quyền cầu
viện đến công lý hay không?
Cho đến nay, dường như chưa có một án lệ nào về tố
quyền này được khởi động, ngay cả ở nước dân chủ bậc nhất như Hoa Kỳ. Phải
chăng vì không có một luật riêng bảo vệ tôn giáo khi bị xâm hại như thế; mà chỉ
được bảo vệ bằng luật pháp phổ quát áp dụng cho mọi công dân về hình cũng như
về dân luật? Hay vì chưa có tín đồ nào, giáo hội nào, căn cứ trên luật lệ hình
hộ hiện hành của quốc gia áp dụng cho mọi công dân và pháp nhân, để khởi kiện
khi bị xuyên tạc, mạ lỵ, xúc phạm nặng nề niềm tin tôn giáo, gây thiệt hại thực
sự về tinh thần cũng như vật chất cho tín đồ và giáo hội?
Vì
vậy, để chấm dứt những kẻ lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm quyền tự do
tôn giáo của người khác, bằng những lời nói, sách
báo, truyền thông và hành động xúc phạm thô bạo niềm tin tôn giáo các tín đồ và
các giáo hội, chúng tôi đề nghị hai phương cách:
1
- Căn cứ trên luật lệ hiện hành về hình sự, dân sự của quốc gia nơi bị cáo cư ngụ, với tư cách cá nhân hay tập thể tín
đồ, hay Giáo hội, sẽ thử đứng đơn khởi kiện trước tòa án thẩm quyền để đòi kẻ
xuyên tạc, vu khống, mạ lỵ xúc phạm niềm tin tôn giáo, gây tổn hại tinh thần và
vật chất cho cá nhân hay tập thể (Các tín đồ) hay cho pháp nhân (Các
giáo hội) phải trả lời trước pháp luật
2
- Vận động, thúc đẩy các nghị sĩ dân biểu có tôn giáo các nước sở tại, soạn
thảo một đạo luật riêng nhằm bảo vệ niềm tin tôn giáo, đệ trình Quốc hội thông qua, ban hành thành luật cưỡng hành, nhằm chống
lại mọi hành vi tấn công, xuyên tạc, vu khống, mạ lỵ tôn giáo thô bạo; tương tự
như việc làm của nhóm người Việt bao lâu nay đối với các tín đồ và giáo hội
Thiên Chúa Giáo.
Sở dĩ quốc gia cần có biện pháp pháp lý rõ ràng,
riêng biệt cho tôn giáo, là để ngăn chặn các hành vi tấn công tôn giáo. Vì với
ý đồ gì đi nữa, đều có hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt, không chỉ về tôn giáo,
mà cả về xã hội. Vì một khi tấn công và xúc phạm nặng nề đến niềm tin bất cứ
tôn giáo nào, là đụng chạm đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của một tập thể
công dân đông đảo trong xã hội, sẽ dẫn đến sự phẫn nộ có thể gây xáo trộn an
ninh trật tự xã hội, chia rẽ tôn giáo, phân hóa dân tộc, phá đổ quan hệ xã hội
nhân bản tốt đẹp, hài hòa, đoàn kết yêu thương gắn bó giữa người với người dù
khác tôn giáo, khác niềm tin có nhu cầu sống chung.
Đó
là chưa kể những hậu quả nghiêm trọng hơn từng xảy ra trong lịch sử các cuộc
chiến tranh tôn giáo, mà nguyên nhân chính là do những kẻ lợi dụng tôn
giáo gây kích động căm thù giữa các tôn giáo với hậu ý chính trị. Tương tự như
hành động bao lâu nay của nhóm người Việt chống phá tôn giáo, không có động
lực, ý đồ nào khác hơn, nhằm phá nát sự đoàn kết tôn giáo tại hải ngoại cũng
như trong nước. Ai chủ mưu và việc làm này lợi hại cho ai, không cần nói ra,
người Việt Nam trong và ngoài nước, có tín ngưỡng hay tôn giáo đều có thể đoán
được.
No comments:
Post a Comment