Mike Shanahan - BBC Earth
2 tháng 7 2017
Hơn
2.000 năm trước, một nhánh từ thân cây đặc biệt quan trọng đã được chiết ra
theo lệnh của quốc vương Ấn Độ Ashoka Đại đế. Nó nằm ngay dưới tán cây nơi được
cho là Đức Phật Thích Ca Mầu Ni đã đắc đạo.
AUGUST MUENCH/CC BY 2.0
Ashoka ban tặng dấu ấn vương quyền lên cành cây rồi
trồng nó trong một bình làm bằng vàng ròng, rồi đưa cành cây lên núi và rồi đưa
xuôi Sông Hằng xuống Vịnh Bengal.
Tại đó, nàng công chúa con ngài đã rước nó lên tàu
ra khơi, đem tới Sri Lanka cung tiến cho nhà vua nước này. Vua Ashoka yêu mến
cái cây tới mức ngài đã nhỏ lệ khi nhìn cảnh nó được đưa đi.
Câu chuyện này, được trích từ sử thi The Mahavamsa của
Sri Lanka, nói tới cây bồ đề, mà các khoa học gia gọi là Ficus
religiosa. Đúng như tên gọi của nó, cây bồ đề nối về với quá khứ hàng ngàn
năm, trước cả thời vua Ashoka.
Thế nhưng bồ đề không phải là loại cây duy nhất. Nó
chỉ là một trong số hơn 750 loại khác nhau trong chi họ sung. Không loài cây
nào có sức mạnh hơn chi họ sung trong việc tác động tới trí tưởng tượng của con
người.
Loài cây này xuất hiện trong mọi loại tôn giáo lớn,
có ảnh hưởng tới các vị vua, các nữ hoàng, các nhà khoa học, và binh lính.
Chúng đóng vai trò trong sự tiến hóa của loài người và trong thuở bình minh của
văn minh nhân loại.
Tượng Phật tại Chùa Đá, tức chùa Rangiri Dambulla Rajamaha Viharaya tại
Dambulla, Sri Lanka. AFP/GETTY IMAGES
Những cái cây này không chỉ chứng kiến lịch sử mà
chúng còn định hình lịch sử; nếu được nhìn nhận một cách đúng đắn thì có lẽ
chúng thậm chí sẽ còn làm cho tương lai chúng ta trở nên phong phú hơn.
Hầu hết các loài cây có hoa đều nở bung cho thế giới
chiêm ngưỡng, nhưng các loại cây thuộc chi họ sung lại giấu hoa bên trong những
trái quả rỗng ruột. Và trong khi hầu hết các loài cây chôn vùi gốc rễ xuống đất,
thì cây vả sống bám (strangler fig) lại khoe chúng trên phía trên.
Vả sống bám là loài cây thú vị, mọc lên từ những hạt
cây do chim, thú thải ra, mắc lại trên các cây khác. Nhờ việc nảy nở từ tầng
trên của những tán rừng rậm thay vì ở mặt đất tối tăm, hạt cây sống bám có đủ
ánh sáng cần thiết để phát triển mạnh mẽ.
Trong quá trình phát triển, chúng mọc rễ dài từ trên
không xuống dưới, và đám rễ ngày càng trở nên dày dặn, to cứng thêm, bao trùm
và biến cây chủ thành một 'con mồi' sống. Chúng thậm chí còn có thể bóp nghẹt,
làm chết những cây chủ to lớn, và phát triển mạnh mẽ, trở thành những khối cột
cao lớn.
Có hai quốc gia đã dùng hình ảnh cây vả sống bám để
trang trí trên phù hiệu.
Tại Indonesia, cây này biểu tượng cho sự thống nhất
đến từ sự đa dạng, những cái rễ chằng chịt thể hiện cho vô số những hòn đảo tạo
thành nước này.
Còn ở Barbados, nó được lấy cảm hứng từ cảnh nhà
thám hiểm Bồ Đào Nha Pedro a Campos được chào đón khi chiếc thuyền của ông cập
đảo hồi 1536. Ông đã nhìn thấy nhiều cây vả sống bám mọc dọc bờ biển của đảo,
loại cây có tên khoa học Ficus citrifolia. Từng chùm rễ khổng lồ
màu nâu đỏ mạnh mẽ rủ từ những cành cây xuống trông giống như những lọn râu tóc
được bện xoắn. A Campos đã đặt tên cho đảo là Los Barbados - "đảo râu
dài".
Hơn 300 năm sau, nhà sinh vật học người Anh Alfred
Russel Wallace đi khám phá các hòn đảo ở phía bên kia của Trái Đất. Ông nói các
cây vả sống bám mà ông từng nhìn thấy trong hành trình odyssey kéo dài tám năm
của mình trên khắp Quần đảo Malay là "những cái cây vô cùng độc đáo ở
trong rừng". Việc chúng vượt qua được những trở ngại để tồn tại đã tạo cảm
hứng để ông phát triển học thuyết tiến hóa nhờ sự lựa chọn tự nhiên, là thuyết
hoàn toàn độc lập so với thuyết tiến hóa của Charles Darwin.
Nhưng vả sống bám đã bắt rễ được vào tâm trí con người
từ rất lâu trước khi các nhà thám hiểm châu Âu bắt đầu hành trình trên biển.
Ta hãy nhìn vào cây bồ đề của Ashoka Đại đế. Những
người theo Phật giáo, Ấn giáo và Gia-nai giáo (một loại tôn giáo phát xuất từ Ấn
Độ) đã thờ phụng loại cây này trong suốt hơn hai ngàn năm qua.
Cây bồ đề cũng xuất hiện trong khúc chiến ca của giới
Bà-la-môn hồi 3.500 năm trước.
Và trước đó nữa 1.500 năm, cây bồ đề xuất hiện trong
các truyền thuyết, trong nghệ thuật của nền văn minh lưu vực sông Ấn (Indus
Valley Civilisation).
Người dân ở Ấn Độ nắn rễ cây thành những cây cầu sống vững chắc.
ADITIVERMA/CC BY 2.0
Tại các nơi khác ở châu Á - mà có thể nói là trên
toàn các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, các nền văn hóa đã tiếp nhận cây
đa, cây đề như những biểu tượng quyền lực và là nơi để người ta tới làm lễ cầu
nguyện.
Những cây này được xuất hiện trong các câu chuyện kể,
trong văn hóa dân gian, và trong cả các nghi lễ về sinh sản.
Được tôn kính nhất là cây bồ đề Ấn Độ (Ficus
benghalensis), loại cây có thể lớn tới mức từ xa nhìn lại thì trông nó giống
như một khu rừng nhỏ.
Cây bồ đề Ấn Độ có thể phát triển rất to bởi rễ của
chúng thả xuống từ các cành có thể hợp lại với nhau thành các cột trụ to, chắc
như các cây sồi, đỡ cho các cành khổng lồ của cây, cho phép các cành cây mọc ra
dài hơn, rồi lại tiếp tục thả xuống nhiều rễ thêm nữa.
Có một cây bồ đề ở Uttar Pradesh được cho là bất tử.
Một cây khác tại Gujarat được cho là đã lớn lên từ một nhánh con chỉ bé bằng
cái bàn chải đánh răng. Một cái cây khác, cây thứ ba, được cho là đã mọc lên
khi một thiếu phụ lao mình vào dàn hỏa thiêu xác người chồng quá cố để quyên
sinh theo. Cây này, mọc tại Andhra Pradesh, lớn tới mức đủ chỗ trú cho 20 ngàn
người.
Những người châu Âu đầu tiên được hưởng bóng mát của
cây bồ đề là Alexander Đại đế và đội quân chinh chiến của ông, vốn đặt chân tới
Ấn Độ vào năm 326 trước Công nguyên.
Những câu chuyện kể của họ về cây này nhanh chóng đến
tai nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Theophrastus, người đã đặt nền móng cho ngành
thực vật học hiện đại.
Ông đã nghiên cứu loại cây vả cho quả ăn được, vả
tây, có tên khoa học là Ficus carica. Theophrastus nhận thấy có những
con bọ tí xíu chui ra chui vào quả vả. Điều này trở thành một trong những khám
phá thú vị nhất của ngành sinh vật học.
Hơn 2.000 năm trôi qua cho tới khi các khoa học gia
phát hiện ra rằng mỗi giống vả lại có một loại côn trùng thụ phấn riêng cho
mình, và một số giống vả thậm chí còn có hai loài côn trùng 'đặc chủng' như thế.
Tương tự, mỗi loại bọ vả chỉ có thể đẻ trứng vào hoa của những loài vả nhất định
mà thôi.
Mối quan hệ này đã bắt đầu từ hơn 80 triệu năm trước,
và nó đã định hình thế giới kể từ đó tới nay. Các giống thuộc chi họ sung Ficus phải
đảm bảo ra quả trong cả năm để đảm bảo sự sinh tồn cho các giống bọ thụ phấn
cho nó. Đây là điều tuyệt vời cho các loài động vật ăn trái cây vốn rất khó tìm
được thức ăn trong phần lớn thời gian trong năm. Thực sự, các trái sung, vả
giúp nuôi, duy trì sự tồn tại của nhiều loài động vật trong đời sống tự nhiên
hơn bất kỳ loài trái cây nào khác.
Có hơn 1.200 giống loài động vật khác nhau ăn quả vả,
trong đó có một phần mười toàn bộ các loài chim trên thế giới, gần như toàn bộ
các loài dơi ăn hoa quả đã được con người biết đến, và hàng chục loài linh trưởng.
Đổi lại, các loài động vật này cũng giúp phát tán hạt cây đi các nơi. Bởi vậy,
các nhà sinh thái học đã gọi quả vả là "những nguồn tài nguyên chủ yếu".
Và cũng giống như hòn đá trụ của một cây cầu, nếu như cây vả biến mất thì mọi
thứ khác cũng bị phá hủy theo.
Cây vả không chỉ giúp nuôi dưỡng động vật. Việc quả
vả chín quanh năm có lẽ cũng giúp cho sự tồn tại bền vững của tổ tiên loài người
trong giai đoạn sơ khai.
Những quả vả chứa nhiều năng lượng có thể đã giúp
cho tổ tiên chúng ta phát triển não bộ to hơn. Có giả thuyết cho rằng bàn tay
chúng ta tiến hóa để trở thành công cụ hữu hiệu nhằm đánh giá xem quả vả đã mềm
chưa, tức là đã đủ ngọt, đủ dinh dưỡng, năng lượng để ăn hay chưa. Các loại quả
vả nằm trong số những cây quả đầu tiên mà con người thuần hóa từ hàng ngàn năm
trước.
Nữ thần Ai Cập Hathor hiện lên từ cây vả để chào đón linh hồn các vị vua
pharaoh vào thế giới bên kia, theo tính ngưỡng của người A Cập cổ đại. OTHER
Người Ai Cập cổ đại đã thuần hóa được một loài sung
có tên gọi Ficus sycomorus (sung dại khô), là loài cây mà côn
trùng thụ phấn cho nó hoặc đã tuyệt chủng, hoặc chưa từng có mặt tại vùng đất
đó. Lẽ ra thì loài sung này sẽ không thể cho ra được nổi một quả sung chín. Thế
nhưng những người nông dân đã tìm được cách 'đánh lừa' cây bằng cách dùng lưỡi
dao vạch lên thân cây.
Trước đó rất lâu, quả sung đã là một nguồn thu chính
của nông nghiệp Ai Cập. Các nhà nông thậm chí còn luyện cho khỉ biết trèo cây
hái quả nữa.
Cây sung ở Ai Cập vừa là thực phẩm, vừa nuôi dưỡng
những niềm tin tôn giáo. Các vị vua Ai Cập, Pharaoh, đem các quả sung khô vào hầm
mộ của mình nhằm giúp linh hồn vua trên hành trình đi sang cõi bên kia thế giới.
Các vị vua tin rằng nữ thần Hathor sẽ hiện lên từ một cây sung thần bí để đón họ
vào thiên đường.
Từ phía bắc sang phía đông, loài họ hàng ngọt ngào
hơn của sung dại khô Ai Cập là vả tây (F. carica) đã trở thành một loại
thực phẩm quan trọng của một số nền văn minh cổ đại khác.
Vua Urukagina của nền văn minh lưu vực sông Ấn đã viết
về loại quả này từ gần 5.000 năm trước. Vua Nebuchadnezzar II cho trồng chúng
trong các khu vườn treo Babylon. Vua Solomon của Israel ca ngợi chúng trong một
bài hát. Người Hy Lạp cổ đại và người La Mã nói quả vả là thứ hoa trái đến từ
thiên đường.
Sức hấp dẫn của loài quả này có lẽ có thể được giải
thích bằng một điểm quan trọng khác. Ngoài việc ngon ngọt, chúng còn có nhiều
chất xơ, vitamin và các loại khoáng chất.
Quả vả có nhiều chất xơ, vitamin và khoáng chất. BERNARD DUPONT/CC BY 2.0
Những lợi ích dinh dưỡng này đã được biết đến từ
lâu. "Quả vả rất bổ dưỡng," nhà triết học La Mã hồi thế kỷ thứ nhất
Pliny Già (Pliny the Elder) viết, "và là thứ thực phẩm ngon nhất mà những
người bị ốm bệnh lâu ngày có thể ăn."
Một ví dụ nổi tiếng về sức mạnh trị bệnh của cây vả
được nêu trong Kinh Thánh. Hezekiah, Vua vùng Judah, đã 'lâm bệnh đến chết'
nhưng đã khỏe trở lại sau khi những kẻ tôi tớ đắp quả vả nghiền nhuyễn lên da
ngài.
Khả năng trị bệnh của cây vả không chỉ nằm ở các quả
cây. Các loại thuốc được phát triển qua hàng ngàn năm đã sử dụng cả vỏ cây, lá
cây, rễ cây và cả nhựa cây nữa.
Việc dùng cây vả để chữa bệnh thậm chí còn có từ trước
khi loài người hình thành. Tổ tiên còn sống gần gũi nhất với chúng ta là tinh
tinh có vẻ như cũng biết cách dùng các loại cây này để chữa trị bệnh, cho thấy
tổ tiên chung của loài người và tinh tinh cũng biết làm vậy.
Các nhà nghiên cứu làm việc tại Uganda thỉnh thoảng
quan sát được các con tinh tinh ăn những thứ thức ăn khác thường, chẳng hạn như
vỏ cây hoặc lá cây vả dại. Những con tinh tinh này có lẽ đang tự chữa bệnh, các
nhà nghiên cứu kết luận. Các xét nghiệm cho thấy thành phần lá và vỏ cây vả có
tác dụng chống khuẩn, các loài ký sinh trùng, và các khối u.
Cây vả, cây sung không chỉ giúp cho các nền văn
minh, các nền văn hóa của con người phát triển. Chúng còn chứng kiến cảnh lụi
tàn nữa, và thậm chí còn giúp chôn vùi, che giấu những kết cục suy tàn đó.
Chẳng hạn như các thành phố vĩ đại của nền văn minh
lưu vực sông Ấn từng phát triển rực rỡ trong thời gian từ năm 3300 đến 1500 trước
Công nguyên, nhưng chúng đã biến mất khỏi lịch sử loài người cho tới tận năm
1827, khi một kẻ đào tẩu bỏ chạy khỏi Công ty Đông Ấn có tên là Charles Masson
phát hiện ra.
Những cây sống bám khổng lồ hiện lên sừng sững át hết
các loại cây khác. Những đống đổ nát nhô lên như những gò đống bí hiểm. Người
dân địa phương nói với Masson rằng đó là những vết tích còn lại của một xã hội
bị thần linh trừng phạt vì "những ham muốn và những tội lỗi của nhà
vua". Thực ra, chính là một trận hạn hán kéo dài đã khiến nền văn minh lưu
vực sông Ấn tàn lụi.
Các cây vả sống bám cũng thay thế chỗ của con người ở
những nơi bị nạn khô hạn xóa sổ, như các kim tự tháp của người Maya ở Tikal thuộc
Guatemala, hay các ngôi đền Khmer ở Angkor Wat của Campuchia.
Hình : https://ichef-1.bbci.co.uk/news/768/cpsprodpb/077F/production/_96691910_gettyimages-3435584.jpg
HULTON ARCHIVE/GETTY IMAGES
Trong các trường hợp kể trên, các cây vả đã giúp rừng
xanh trở lại, bao phủ lên các khối kiến trúc bị bỏ hoang. Các hạt cây nảy lên từ
các vết nứt trong tường đá. Rễ cây công phá các vết vữa và bao cuốn, bóp nghẹt
những bức tường. Cây vả thu hút vạn vật tới sinh sống, và rồi những sinh vật đó
lại đem hạt cây đi phát tán xa hơn. Cứ thể, rừng xanh dần lấn hết các khối công
trình do con người dựng lên.
Sức mạnh này cũng đã được chứng kiến tại các núi lửa
như Krakatoa, nơi trận núi lửa phun trào hồi 1883 đã hủy diệt toàn bộ sự sống
trên đảo. Các cây vả tái chiếm những nơi vốn chỉ còn mỗi lớp nham thạch, khởi đầu
cho sự hình thành của những khu rừng mới.
Ở khắp các khu vực nhiệt đới, các khoa học gia nay
đang dựng lại hiệu ứng này với việc trồng các cây vả để tăng tốc tái phát triển
rừng ở các nơi cây cối đã bị đốn mất gần hết do nạn chặt phá bừa bãi.
Và điều này đồng nghĩa với việc cây vả có thể đem lại
hy vọng cho tương lai trong bối cảnh có tình trạng biến đổi khí hậu.
Cây vả cũng có thể giúp chúng ta thích nghi được với
những điều kiện khắc nghiệt.
Ở vùng đông bắc Ấn Độ, người dân nắn rễ cây vượt
sông, tạo thành những cây cầu sống dày dặn, vững chắc, giúp việc qua lại được dễ
dàng trong những mùa mưa lũ.
Tại Ethiopia, cây vả giúp nhà nông thích nghi với nạn
khô hạn bằng việc cung cấp bóng râm vô cùng cần thiết cho hoa màu, và thức ăn
khô cho dê. Đây là những tác dụng có thể có ích cho cả những vùng khác nữa.
Nhìn chung, cây vả có thể giúp chúng ta hạn chế bớt
tình trạng thay đổi khí hậu, bảo vệ tính đa dạng sinh thái, và cải thiện đời sống
nếu như chúng ta tiếp tục trồng và bảo vệ chúng, điều mà nhân loại đã làm từ cả
ngàn năm qua.
Trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, việc chặt hạ
các cây thuộc chi họ sung, như cây đa, cây đề, là điều cấm kỵ.
Câu chuyện lịch sử dài lâu của loài cây đặc biệt này
nhắc nhở cho chúng ta rằng chúng ta chỉ mới xuất hiện trên Trái Đất này thôi,
so với quá trình 80 triệu năm tồn tại của chúng. Tương lai của chúng ta sẽ an
toàn hơn nếu như chúng ta đưa những loài cây đặc biệt này vào kế hoạch đồng
hành với chúng ta tới tương lai.
Bài
tiếng Anh đã đăng trên BBC
Earth.
---------------------------------------------------
Bồ
đề hay còn gọi cây đề, cây
giác ngộ (danh pháp khoa học: Ficus religiosa) là một
loài cây thuộc chi Đa đề (Ficus) có nguồn gốc ở Ấn
Độ, tây nam Trung Quốc và Đông Dương về phía đông tới Việt Nam.
Nó là một loài cây rụng lá về mùa khô
hoặc thường xanh bán
mùa, cao tới 30 m và đường kính thân tới 3 m.
.
Cây sung hay ưu đàm thụ hoặc tụ
quả dong (danh pháp hai phần: Ficus racemosa,
đồng nghĩa Ficus glomerata Roxb., 1802)
.
Cây
đa (tên khác: cây đa đa, dây
hải sơn, cây dong, cây da) có danh pháp hai phần (theo Bailey năm 1976) là Ficus
bengalensis, một loài cây thuộc họ Dâu tằm (Moraceae), nó có thể phát triển thành
loài cây khổng lồ mà tán của nó che phủ đến một vài nghìn mét vuông.
Giống như nhiều loài cây thuộc chi Ficus khác
như si (Ficus
stricta), sanh (Ficus benjamina), vả (Ficus
auriculata), quả vảhoặc vô hoa quả (Ficus carica), đa lông (Ficus drupacea), gừa(Ficus microcarpa), trâu cổ (Ficus pumila), sung (Ficus
racemosa), bồ đề hay đề (Ficus
religiosa) v.v. Đa có phương thức sinh trưởng không bình thường.
.
.
No comments:
Post a Comment