Nguyễn Ngọc Bảo
Cập nhật:
2/03/2016
Đại Hội
Đảng lần thứ 12 (20-28/1/2016) của đảng CSVN đã tuyển chọn xong các thành phần
lãnh đạo cốt lõi để điều hành Việt Nam trong năm năm tới (2016-2021).
Từ
trái sang phải: Ông Nguyễn Phú Trọng, ông Trần Đại Quang, ông Nguyễn Xuân Phúc,
bà Nguyễn Thị Kim Ngân
Bộ tứ mới
gồm Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng CSVN và từ tháng 6/2016 trở đi ông Trần
Đại Quang sẽ là Chủ tịch Nước (hiện là bộ trưởng bộ Công An), Nguyễn Xuân Phúc
sẽ là Thủ Tướng (hiện là Phó Thủ Tướng) và Nguyễn Thị Kim Ngân sẽ là Chủ Tịch
Quốc Hội (hiện là Phó Chủ Tịch Quốc Hội). Đây là một hình thức nhân nhượng của
phe Trọng sau khi đã loại được đối thủ hàng đầu Nguyễn Tấn Dũng ra khỏi bộ tứ
và ra khỏi Bộ Chính Trị. Vì Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc được xem là thuộc
vây cánh Nguyễn Tấn Dũng.
Bộ tứ
này kém bộ tứ nhiệm kỳ vừa qua về chiều dài kinh nghiệm đối với quốc tế, cũng
như trong nội bộ đảng CSVN.
Từ Đại
Hội 8 (1996-2000) về trước, nội tình Đảng CSVN chưa lệ thuộc nhiều vào thế giới
bên ngoài về mặt phát triển kinh tế, giao thương dù Hoa Kỳ đã bãi bỏ cấm vận và
tái lập bang giao từ 1995, nên bề dầy trong đảng là yếu tố then chốt để leo lên
tột đỉnh của quyền lực và giàu sang.
Nhưng từ
Đại Hội 9 (2001-2005) đến nay, sự lệ thuộc vào thế giới bên ngoài ngày gia tăng
(Tổng số xuất nhập cảng gấp 2 lần / GDP 190 tỷ MK năm 2014, một tỷ lệ gấp đôi
Trung Quốc), khi CSVN đi theo hướng cởi mở kinh tế, giao thương thế giới tây
phương để sống còn.
Do đó,
bề dầy trong nội bộ đảng ngày càng bớt quan trọng trong bối cảnh thế giới hiện
nay so với khả năng điều hành quốc gia mang nặng tính kỹ trị (nắm vững các
nguyên tắc vận hành trong tương quan quốc tế, quản trị điều hành kinh tế hữu hiệu,
bảo vệ quyền lợi và chủ quyền của dân tộc. …).
Nhìn
vào Nghị Quyết của Đại Hội 12 với 6 nhiệm vụ lớn được đề ra, trong đó 2 nhiệm vụ
liên quan đến vấn đề chỉnh đốn đảng, đẩy lùi suy thoái tư tưởng và chống tham
nhũng được đưa lên đầu tiên và cho đó là nhiệm vụ quan trọng. Trong lúc vấn đề
phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền, 2 nhu cầu sinh tử của dân tộc chỉ ở mức độ
thấp hơn. Điều này nói
lên, lãnh đạo CSVN coi sự tồn vong của đảng cao hơn quyền lợi sinh tử của dân tộc.
Bộ tứ mới
sẽ phải giải quyết 3 vấn đề để đảng CSVN tiếp tục cầm quyền: 1) Vấn đề phát triển
kinh tế, trong bối cảnh gia nhập TPP, 2) Vấn đề chủ quyền trên Biển Đông trước
các hành động xâm lược tằm ăn dâu của Trung Quốc, 3) Vấn đề ảnh hưởng nặng nề
Trung Quốc trên guồng máy điều hành quốc gia ở mọi tầng.
Phát
triển kinh tế để ổn định chính trị
Hiện
nay tình hình phát triển kinh tế Việt Nam đang từ từ khựng lại ở mức 5-6% (sau
khi tăng trưởng ở mức trung bình 10% trong thập niên 2003-2013) cũng như nền
kinh tế Trung Quốc (từ 10% xuống dưới 7%, trên thực tế khoảng 3-4% theo những
nguồn thống kê hợp lý ngoài nhà nước Trung Quốc).
Vì dựa
chính yếu về xuất khẩu, dưới sự chủ đạo của các Tổng Công Ty nhà nước (lâm nghiệp,
dầu khí, xây tầu, xi măng, địa ốc...) và đầu tư ngoại quốc (FDI 95 tỷ MK
1996-2014), nên kinh tế Việt Nam tùy thuộc rất nhiều vào sự thay đổi về cạnh
tranh, giá cả trên thương trường và tình hình chính trị của thế giới (nông nghiệp
chiếm 18%, kỹ nghệ 38%, dịch vụ 44%). Trong lúc đó, Hà Nội không quan tâm đến
thị trường nội địa qua việc nâng cao mức sống của người dân.
Cả Bắc
Kinh và Hà Nội chủ trương kiểm soát khả năng vươn lên của kinh tế tư nhân, với
các giới hạn về thông tin (kiểm duyệt), ngăn cấm các hình thức công đoàn độc lập,
các hình thức sinh hoạt kinh tế ngoài khu vực quốc doanh, có thể đe dọa độc quyền
lãnh đạo của đảng CS.
Vì thế,
mặc dù lãnh đạo CSVN biết là muốn phát triển kinh tế cần phải dựa vào kỹ thuật,
đầu tư, thị trường bên ngoài như trường hợp Hà Nội đang mở rộng giao thương với
khối ASEAN, Liên Âu; nhưng vì sợ quyền lực kinh tế vuột khỏi tầm kiểm soát của
đảng nên tiếp tục duy trì quyền lực của các Tập đoàn kinh tế.
Vấn đề
hiện nay của lãnh đạo CSVN là làm sao duy trì các tập đoàn kinh tế, tổng công
ty thua lỗ hàng trăm triệu MK hầu nuôi dưỡng guồng máy bảo vệ chế độ. Mặt khác
tạo ra không gian kinh tế vừa đủ cho người dân kiếm sống, hầu làm giảm các áp lực
chống đối, vừa trung hòa các áp lực đòi mở rộng thêm về mặt chính trị và các
quyền tự do căn bản của con người.
Hiện
nay, áp xuất tự do thông tin rất mạnh qua sự phát triển vượt bực của mạng Internet
(50,1% dân Việt Nam có khả năng truy cập vào mạng, 35 triệu trương mục
Facebook) và các áp lực cạnh tranh đến từ giao thương với các thị trường bên
ngoài. Đây là những yếu tố khác biệt so với bối cảnh thế giới lúc xảy ra biến cố
Đông Âu vào năm 1989 (lúc đó mạng Internet chưa bùng nổ và áp lực giao thương từ
các thị trường bên ngoài không mạnh như vào thời điểm 2016).
Nhìn
vào thành phần tứ trụ, người ta không thấy ai có tầm vóc, kinh nghiệm để vạch
ra hướng phát triển cho Việt Nam, vừa tăng trưởng về mặt kinh tế với mức sống
khá hơn cho quảng đại quần chúng, vừa thanh lọc bộ máy nhà nước và bảo vệ chủ
quyền.
Nền
kinh tế Việt Nam hiện bước vào giai đoạn xã hội, kinh tế tương đương với các chế
độ CS Đông Âu trước khi sụp đổ (1990 TSL Đầu Người Ba Lan 1700 MK, Tiệp Khắc
3900 MK, Hung Gia Lợi 3300 MK, vào năm 2014 Việt Nam 2050 MK, 5200 MK nếu tính
theo PPP Purchasing Power Parity). Trong lúc xã hội, kinh tế Trung Quốc đã kinh
qua được giai đoạn bản lề đầu tiên này nhờ chính sách Hiện đại hóa thời Đặng Tiểu
Bình, nhưng hiện đang tồn đọng nhiều khó khăn chưa giải quyết và có nguy cơ
bùng vỡ trong tương lai.
Khác với
Nguyễn Tấn Dũng có 20 năm kinh qua hai trách vụ Phó Thủ Tướng và Thủ Tướng,
trong khi Nguyễn Xuân Phúc chỉ có 5 năm thực tập vai trò Phó Thủ Tướng nên người
ta không thấy một khả năng nổi trội nào về vấn đề phát triển kinh tế (ngoài
trách nhiệm Uỷ Viên Uỷ Ban Kinh Tế – Ngân Sách Quốc Hội Khóa XI (2004-2006).
Kinh nghiệm của Nguyễn Xuân Phúc đa phần là chuyên về nội bộ đảng như Phó Bí
Thư Đảng Ủy Đà Nẵng, Phó Bí Thư Ban Cán Sự Đảng.
Ngoài
ra, ông Phúc cũng từng được giao các trách nhiệm như Chủ Tịch Ủy Ban An Toàn
Giao Thông Quốc Gia, Phòng Chống bệnh HIV/AIDS, có nghĩa là những trách nhiệm
hoàn toàn phụ thuộc trong một guồng máy cầm quyền và cũng thất bại trong trách
vụ (tham nhũng trong giao thông, số người chết, bị thương về tai nạn gia tăng
vượt bực, AIDS vẫn gia tăng vì tệ nạn xã hội mãi dâm, băng đảng).
Trong
khi đó, Nguyễn Tấn Dũng, tuy đã bị đối thủ loại ra khỏi thượng tầng đảng qua Đại
Hội 12, nhưng gia đình và phe cánh đã có hơn 20 năm để bám rễ tại tỉnh Kiên
Giang, chia nhau các trách nhiệm trong các tổng công ty, dầu khí, điện lực,
khoáng sản, hàng không, ngân hàng cũng như đặt vây cánh trong thượng tầng đảng
để lo cho việc hạ cánh an toàn, bảo vệ các quyền lợi thâu tóm được một cách phi
pháp.
Trong
vòng đai thân cận Nguyễn Tấn Dũng, các ngân hàng, công ty được thành lập và hoạt
động theo kiểu mafia, hỗ trợ, bao che lẫn nhau dưới ô dù cùa Thủ Tướng. Con gái
Nguyễn Thanh Phượng thành lập Quỹ đầu tư Viet Capital, Nguyễn Thanh Nghị con
trai của Nguyễn Tấn Dũng (Bí Thư Tỉnh Kiên Giang) nhận thiết kế các công trình
xây dựng lớn.
Theo
đơn tố cáo của một đảng viên đảng CSVN mới đây, phe Nguyễn Tấn Dũng điều hành
Bitexco Group (Vũ Quang Hội), Ngân hàng Phương Nam (Trầm Bê), Ngân hàng An Bình
(Vũ Văn Tiền), Ngân hàng Đầu Tư BIDV (Trần Bắc Hà), Ngân hàng Á Châu (Nguyễn Đức
Kiên), Ngân hàng Sài gòn (Lê Quang Nhường Mười Rua), Lilama (Phạm Hùng), Tổng
công ty Hàng Không VN (Phạm Ngọc Minh), Vinacapital (Don Lam), Savico (Lê
Hùng), FPT (Trương Gia Bình), công ty Bình An Cần Thơ (Nguyễn Thị Diệu Hiền). Tổng
số Tài Sản Phi Pháp của gia đình Nguyễn Tấn Dũng lên đến hàng chục tỷ MK, đầu
tư trong nhiều lãnh vực chuyên chở, địa ốc, nhà thương,.. trong nước, cũng hàng
tỷ MK đầu tư tại các chợ tại Bá Linh, Nam California Hoa Kỳ.
Phe
Nguyễn tấn Dũng dù ở bên ngoài thượng tầng đảng nhưng nắm nguồn tài chánh, đầu
tư, vẫn nhúng tay can thiệp vào các lựa chọn, chuẩn bị vây cánh cho sự thay đổi
lãnh đạo sắp tới.
Phe
Nguyễn Phú Trọng sẽ tìm mọi cách để loại vây cánh Nguyễn Tấn Dũng trong guồng
máy công an, kinh tế qua việc lợi dụng các điều khoản trong Hiệp Ước TPP. Tung
ra nhiều chi tiết về thâm cung bí sử, tài sản phi pháp các thành phần lãnh đạo
đối thủ nhằm triệt hạ uy tín và thế lực đối thủ. Cuộc đấu đá trên mặt trận kinh
tế sẽ tiếp tục.
Nói tóm
lại, lãnh đạo CSVN không có tầm nhìn xa và không linh động về kinh tế như Trung
Quốc, nên kinh tế Việt Nam sẽ khựng lại, nhất là với một bộ tứ quá giáo điều
như hiện nay.
Sự đòi
hỏi được hưởng phúc lợi của người dân sẽ ngày càng gia tăng, cùng với tình trạng
tha hóa, tham nhũng, bòn rút của công của hệ thống đảng bất tài. Tình hình phát
triển bất quân bằng trước áp lực của thông tin và thị trường bên ngoài sẽ làm
gia tăng sự bất ổn định về xã hội và chính trị.
Vấn
đề chủ quyền trên Biển Đông
Hiện
nay chủ quyền của Việt Nam đã bị vi phạm trầm trọng từ hàng chục năm nay, từ
vùng biên giới phía Bắc, Ải Nam Quan, trên Cao Nguyên Trung Phần cho đến các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Lãnh đạo
CSVN từ thời Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng không hề dám lấy một
biện pháp cụ thể nào để bảo vệ ngư dân, chủ quyền trên biển đảo, đều bị Trung
Quốc khống chế, mua chuộc. Trong lúc Trung Quốc luôn xem việc xâm chiếm hoàn
toàn hay ở mức thấp hơn khống chế được Việt Nam, là một ưu tiên hàng đầu nhằm
làm bàn đạp xâm chiếm Biển Đông và vùng lãnh thổ giáp ranh phía Nam Trung Quốc.
Ngay
sau khi cất cánh về mặt kinh tế, Trung Quốc đã tối tân hóa hải quân nhằm mở đường
ra đại dương mà giai đoạn đầu là Biển Đông qua chính sách tằm ăn dâu. Qua những
diễn biến mới nhất, Trung Quốc đã đặt hỏa tiễn phòng không trên đảo Phú Lâm tại
Hoàng Sa, sau khi đã xây dựng các phi trường quân sự nhân tạo dài hơn 3 cây số
tại Đảo Chữ Thập, Vành Khăn tại Trường Sa.
Trung
Quốc quyết tâm tiến hành kế hoạch xâm chiếm Biển Đông, trước khi các lực lượng
đối kháng trở thành quá lớn, đặc biệt là nhằm vào hai quốc gia tuyến đầu Biển
Đông là Phi Luật Tân và Việt Nam.
Biết khả
năng quân sự, chính trị không có khả năng đối đầu với Trung Quốc, Phi Luật Tân
đã đưa vấn đề đường Lưỡi Bò 9 Điểm ra trước Tòa Trọng Tài Thường Trực
(Permanent Court of Arbitration PCA tại The Hague, Hòa Lan) từ tháng 19/2/2013,
trong lúc CSVN không dám kiện Trung Quốc trước Tòa PCA và cũng không dám công
khai hỗ trợ cho đơn kiện của Phi Luật Tân.
Sau khi
Tập Cận Bình lên cầm quyền (11/2012), các hành động xâm chiếm Biển Đông ngày
càng gia tăng với sự đụng độ, hầu như hàng tuần giữa tầu chiến Phi và tầu đánh
cá Trung Quốc tại vùng biển Tây Phi, bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham, các hành động
thăm dò dầu hỏa, khí đốt khiêu khích ngay trên thềm lục địa Việt Nam, rượt đuổi,
đâm vào tầu đánh cá Việt Nam, cùng việc xây dựng các công trình quân sự, phi
trường, trạm kiểm báo, cảng tiếp liệu cho hạm đội Nam Hải của Trung Quốc tại
Hoàng Sa.
Trung
Quốc đã thành lập Thành phố Tam Sa vào tháng 7/2012 (bao gồm quần đảo Hoàng Sa
(Tây Sa), quần đảo Trường Sa (Nam Sa), bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough
(Trung Sa) cùng vùng biển chung quanh), tăng số lượng lực lượng tuần duyên và
các tổ hợp đánh cá và cung cấp nhà ở cho khoảng hơn 1.000 dân đến ở trên các đảo
Trung Quốc chiếm được.
Mới đây
nhất, Trung Quốc đã đưa hỏa tiễn phòng không HQ-9, có tầm hoạt động 200 cây số,
bố trí tại đảo Phú Lâm, ngay trung tâm Biển Đông, nhằm đe dọa các phi cơ chiến
đấu Hoa Kỳ không cho bay đến gần (deny access, tháng 11/2015, Hoa Kỳ đã cho
oanh tạc cơ chiến lược B-52 bay ngang qua không phận Hoàng Sa, cũng như khu trục
hạm đi vào vùng lãnh hải 20 hải lý chung quanh đảo tại Trường Sa mà Trung Quốc
xâm chiếm). Đưa công binh đến xây dựng phi trường dài 3000 mét, đủ cho các vận
tải cơ hạng nặng đáp xuống đảo Chữ Thập (Trường Sa).
Việc
quân sư hóa sự hiện diện tại Hoàng Sa và Trường Sa sẽ cho Trung Quốc khả năng
áp đặt một Vùng Nhận Diện Phòng Không (ADIZ) ở Biển Đông như nước này đã từng
làm trên không phận đảo Điếu Ngư và lãnh hải thuộc chủ quyền Nhật và Đại Hàn
theo Công Ước về Luật Biển (UNCLOS 1982) vào cuối năm 2013. Các giới chức cao cấp
nhất của Hoa Kỳ, Úc, Nhật đều phản đối các hành động quân sự hóa và cố tình
chính thức hóa chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Các cuộc
tuần hành (FON Freedom Of Navigation) do Hoa Kỳ chủ trương đã diễn ra và sẽ diễn
ra theo các tuyên bố của Đô Đốc Harris, Chỉ Huy Trưởng Thái Bình Dương Hoa Kỳ.
Nhật, Úc, Ấn Độ cho biết cũng sẽ tổ chức các cuộc tuần thám hỗn hợp bằng chiến
hạm và chiến đấu cơ với Hoa Kỳ, ngay trong hải phận và không phận mà Trung Quốc
ngang nhiên tuyên bố chủ quyền.
Việc
Hoa Kỳ họp cùng với khối ASEAN tại Sunnylands trong đó vấn đề Biển Đông là chủ
đề nóng, cũng như sự hình thành của Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương
(TPP), trong đó Trung Quốc bị loại ra ngoài, càng làm cho tình hình tranh chấp
tại Biển Đông trầm trọng thêm và có thể dẫn đến các đụng độ bằng quân sự và một
sự đông lạnh lâu dài về mặt giao thương trên vùng Đông Nam Á, chừng nào mà thái
độ xâm lược của Trung Quốc vẫn tiếp diễn và nhà cầm quyền tay sai CSVN tồn tại.
Trong
lúc cần phải lấy các biện pháp mạnh trong tầm tay nhằm đối đầu với Trung Quốc,
các cấp lãnh đạo CSVN đều chỉ tuyên bố miệng và không dám chỉ thị đưa ra một biện
pháp cụ thể cho hải quân CSVN, từ việc bảo vệ các tầu đánh cá Việt Nam đang bị
săn đuổi, tầu bị húc chìm, ngư dân bị tuần duyên Trung Quốc đánh chết.
Những
hành động cụ thể bảo vệ chủ quyền (lên tiếng trên trường quốc tế, biểu tình phản
đối Trung Quốc, kêu gọi tẫy chay hàng hóa Trung Quốc,...) đều do các cá nhân
yêu nước, thành phần dân tộc dân chủ, các tổ chức xã hội dân sự, các đảng phái
đấu tranh cho tự do dân chủ tiến hành, trong lúc truyền thông trong luồng, các
tổ chức ngoại vi Đảng CSVN đều bị cấm đoán không được lên tiếng chỉ trích, lên
án Trung Quốc, từ chỉ thị của Ban Tuyên Giáo Trung Ương mà Nguyễn Phú Trọng từng
trách nhiệm.
Hiện
nay, thái độ đối kháng âm trầm trong hàng ngũ đảng viên và trong quân đội nhân
dân về bảo vệ chủ quyền, vẫn là một ẩn số lớn cho lãnh đạo, họ không lượng định
được mức độ trung thành của các đơn vị quân đội CSVN khi có đụng độ quân sự xảy
ra, có binh sĩ VN thiệt mạng hay tầu chiến bị bắn chìm.
Trong
thời gian qua một số nỗ lực hợp tác với nước ngoài và tân trang quan đội đã được
tiến hành, đối chiếu với sự yếu hèn của lãnh đạo CSVN. Hải quân CSVN đặt mua 6
tầu ngầm Kilo của Nga loại mới (Dự Án 636, đã nhận 5 chiếc, 2300 tấn, tầm hoạt
động hơn 400 hải lý khi lặn sâu dưới nước), có khả năng tuần thám sâu dưới đáy
biển, rất yên lặng, và khó bị khám phá, là một mối đe dọa tiềm tàng cho chiến hạm
Trung Quốc.
CSVN nhận
từ Nhật 6 tầu tuần duyên về ngư nghiệp (qua viện trợ ODA 14 triệu MK), đồng ý tập
trận chung và cho phép chiến hạm thuộc Hải Quân Tự Vệ Nhật ghé cảng Cam Ranh. Ấn
Độ sẽ xây trạm kiểm báo hải dương bằng vệ tinh tại trung tâm Việt Nam nhằm giúp
Việt Nam có được hình ảnh với cự ly 1 thước trên toàn Biển Đông, từ các vệ tinh
Ấn Độ, cũng như giúp tín dụng cho CSVN mua tầu tuần duyên, huấn luyện các thủy
thủ đoàn CSVN về tầu ngầm.
Chiến
lược tằm ăn dâu của Trung Quốc đã thất bại vì vấn đề Biển Đông đã được quốc tế
hóa với sự hợp tác của một liên minh gồm Hoa Kỳ, Ân Độ, Nhật, Úc nhằm ngăn cản
âm mưu chiếm trọn Biển Đông, đe dọa hải lưu quan trọng bậc nhất trên thế giới về
mặt vận tải hàng hóa, dầu hỏa cho cả vùng Đông Nam Á, cho Khối ASEAN, Nhật Bản,
Đại Hàn, Đài Loan.
Hiện
nay về mặt hải lực, dù có dồn hết các chiến hạm vào hạm đội Nam Hải, hải quân
Trung Quốc chưa phải là đối thủ của hải quân Hoa Kỳ, đó là chưa kể tới hải quân
Nhật và Đại Hàn, với các khu trục hạm loại Arleigh Burke, có khả năng phòng chống
hỏa tiễn liên lục địa, chống hỏa tiễn thiềm du (cruise missile).
Các giới
chức chính trị và quân sự cao cấp nhất của Hoa Kỳ, Úc, Nhật đều nhìn thấy rõ âm
mưu của Trung Quốc và thái độ yếu hèn, bán nước của lãnh đạo CSVN. Trong vòng
10 năm nữa, cán cân lực lượng có thể sẽ thay đổi có lợi cho Trung Quốc, nếu
không có quyết tâm từ các quốc gia Việt Nam, Phi Luật Tân ở tuyến đầu và các cường
quốc có quyền lợi chiến lược trên Biển Đông để ngăn chăn âm mưu này.
Chính
thái độ yếu hèn chỉ vì quyền lợi của gia đình, bè đảng của lãnh đạo CSVN sẽ làm
cho dân tộc Việt Nam suy vong, trước âm mưu bá quyền trên Biển Đông và khống chế
hoàn toàn Việt Nam của Trung Quốc, nếu chế độ bán nước này không bị chấm dứt kịp
thời.
Sự lệ
thuộc vào Trung Quốc
Trung
Quốc đã cho nhân sự thân tín xâm nhập vào trong nội đảng CSVN từ hàng chục năm
nay.
Hầu hết
các thành phần trong các Bộ Chính Trị các khóa đều bị mua chuộc, gài bẫy, áp lực
để đi theo khuynh hướng thân Trung Quốc. Nhu cầu khống chế Việt Nam luôn là một
ám ảnh của lãnh đạo CS Trung Quốc từ cả ngàn năm nay.
Từ sau
1975, với sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, Trung Quốc có điều kiện để mở rộng tầm
kiểm soát trên toàn Việt Nam, nhất là trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc
chủ quyền VNCH đến 30/4/1975. Nhiều người lầm tưởng là phe Nguyễn tấn Dũng chủ
trương đi với Hoa Kỳ, trong lúc vào tháng 4 năm 2009, chính Nguyễn Tấn Dũng,
lúc đó là Thủ Tướng, đã ra lệnh các bộ ban ngành phối hợp triển khai dự án
bauxite tại Tây Nguyên, từ đó Trung Quốc có điều kiện xây dựng căn cứ quân sự
ngay trên một vùng đất chiến lược, có khả năng cắt đứt Việt Nam ra làm hai.
Nhìn
qua tiểu sử của Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư trong nhiệm kỳ 2016-2021, ngoài
các trách vụ trong Trung Ương, Bộ Chính Trị, Tổng Bí Thư (8/1996 - 02/1998):
Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội, kiêm Trưởng Ban cán sự Đại học và trực tiếp phụ
trách Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội; 02/1998 - 01/2000: Phụ trách công tác tư
tưởng - văn hoá và khoa giáo của Đảng; 3/1998 - 8/2006: Phó Chủ tịch Hội đồng
Lý luận Trung ương (3/1998 - 11/2001); Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ
trách công tác lý luận của Đảng (11/2001 – 8/2006), người ta không thấy một sự
cởi mở, tinh thần dân tộc nơi một người chuyên về giáo điều, khô cứng về tư tưởng.
Với bộ
tứ này, sự lệ thuộc vào Trung Quốc sẽ gia tăng, trong lúc chủ quyền quốc gia
đang bị đe dọa ngay trong nội địa Việt Nam, với sự hiện diện của hàng trăm ngàn
công nhân Trung Quốc trá hình có khả năng biến thành nhanh chóng các đơn vị bán
quân sự, hỗ trợ cho sự xâm nhập các đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt Trung Quốc
để khống chế các vị trí chiến lược của Viêt Nam, vô hiệu hóa khả năng chống cự
của quân đội CSVN.
Từ nhiều
thập niên, tỷ lệ Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc về giao thương (28% tổng số
nhập cảng), tài chánh, về hàng tiêu dùng thường nhật nhập nội, về mặt ý thức hệ
rất cao, trong lúc sự lệ thuộc về mặt văn hóa, quốc phòng, xã hội thấp hơn.
Đảng
CSVN ngày càng lệ thuộc, chịu các áp lực ai khiến của Trung Quốc, nhất là từ
thượng tầng lãnh đạo, trong lúc phần lớn sự đối kháng ngày càng hiện rõ ở các tầng
bên dưới của đảng CSVN và nhất là âm thầm trong quân đội CSVN.
Có 3 hiện
tượng cho thấy Trung Quốc chưa khống chế được quân đội nhân dân, dù đa số các
thành phần lãnh đạo Bộ Chính Trị, Quân Uỷ Trung Ương, Bộ Trưởng Quốc Phòng, Tổng
Tham Mưu Trưởng đều đã bị Trung Quốc mua chuộc, khống chế. Hiện tượng thứ nhất
là quân đội CSVN và quân đội Trung Quốc không tập trận chung.
Hiện tượng
thứ hai là rất ít khi nào chiến hạm Trung Quốc ghé vào các hải cảng tại Việt
Nam. Hiện tượng thứ ba là quân đội CSVN chấp thuận thiết kế các hệ thống kiểm
báo, mua võ khí của Nga, Ấn Độ và không mua chiến hạm, phi cơ chiến đấu của
Trung Quốc, cũng như sẵn sàng nhận các viện trợ võ khí từ các đồng minh của Hoa
Kỳ như Nhật Bản.
Sự kình
chống giữa khuynh hướng tiến gần với Hoa Kỳ và khuynh hướng theo Trung Quốc sẽ
nổi cộm hơn với tầng thượng tầng lãnh đạo, tầng cán bộ, đảng viên trung tầng và
hạ tầng, quân đội CSVN; trong lúc quảng đại quần chúng xem Trung Quốc như là mối
đe dọa chính yếu cho Việt Nam về mọi mặt (kinh tế [hàng lậu]), an toàn thực phẩm
(thực phẩm tẩm chất độc), công trình xây cất (dưới mức an toàn tối thiểu),
chính trị (khuynh loát mọi guồng máy điều hành), văn hóa (bóp méo lịch sử, bôi
nhọ truyền thống đặc thù Việt Nam).
Qua diễn
biến vụ di dân (immigrant crisis) tại Liên Âu, qua làn sóng tỵ nạn đến từ các
vùng có tranh chấp Syria, Á Phú Hãn, Irak, Mali,..) với sự đóng cửa các biên giới
tại Liên Âu (Serbia, Croatia, Hungary,...) và ngưng áp dụng không gian Schengen
tại 8/28 quốc gia, tuyệt đại đa số cán bộ đảng viên CSVN biết là họ sẽ phải ở lại
khi tình hình Việt Nam xoay chuyển dù có phương tiện tài chánh.
Vì hiện
nay không còn có quốc gia nào có khả năng nhận người tỵ nạn nữa, khi tình hình
kinh tế vẫn gặp biến đổi không ngừng, đang chuyển đổi từ tự do giao thương
thành những biện pháp bảo vệ hàng hóa quốc gia, chuyển dời các hãng xưởng với
các kỹ thuật tiền tiến về lại trong nước nhằm giữ các bí mật kỹ nghệ. Do đó, họ
cần lấy một thái độ chừng mực hơn trong guồng máy của chế độ, để chuẩn bị mai hậu
khi đất nước xoay chuyển.
Từ lòng
tự ái dân tộc và nhu cầu bảo vệ chủ quyền sinh tồn của dân tộc, chắc chắn một số
đông đảng viên, cán bộ đảng CSVN trong guồng máy hành chánh, kinh tế, quân đội
Nhân Dân sẽ phải suy nghĩ lại sự lệ thuộc vào ý thức hệ lỗi thời của một đảng
đã biến thành một đảng mafia, bán nước.
Kết
luận
Bộ tứ mới
sẽ làm cho Việt Nam lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Giúp cho Trung Quốc có
nhiều khả năng để chi phối, ảnh hưởng lên tình hình Việt Nam, nhờ vào có nội
gián, tay sai ngay trong Bộ Chính Trị, Quân Uỷ Trung Ương. Nhưng hiện nay, thái
độ chống đối các hành vi xâm lược của Trung Quốc ngày càng biểu lộ rõ ngay
trong hàng ngũ đảng viên, quân đội nhân dân CSVN, ngày càng phổ quát trong quảng
đại quần chúng.
Sự phản
ứng đột phá của công nhân đối với các công ty vốn Trung Quốc trong vụ dàn khoan
Hải Dương 981 trong vùng Bình Dương cho thấy phần nào phản ứng quyết liệt bảo vệ
chủ quyền của người dân Việt Nam.
Phản ứng
sẽ biểu lộ hơn trong những giờ phút chủ quyền đất nước thật sự bị xâm chiếm bằng
một cuộc xâm lăng võ trang của Trung Quốc.
Người
dân Việt Nam cần khai dụng các phương tiện thông tin hiện đại để thông tin, nối
kết rộng rãi, giúp nhận thức thật rõ về thảm họa mất chủ quyền, chuyển đến nhau
những hành động khả thi nằm trong tầm tay mọi người để gia tăng sức mạnh của quần
chúng.
Trong bối
cảnh kinh tế hiện nay, người dân cần dành lại sự chủ động về kinh tế qua số
đông (tẩy chay đồng loạt, bất tín nhiệm hành chánh, thay đổi cách tiêu thụ,...),
gia tăng sức liên kết xã hội, để ảnh hưởng lên chính trị, lãnh đạo Đảng CSVN vốn
cần phát triển kinh tế để có được sự ổn định về chính trị.
Muốn bảo
vệ chủ quyền để tồn tại như một dân tộc có độc lập, tự chủ, nhân dân Việt Nam cần
chấm dứt chế độ tay sai hiện nay, về mặt đối ngoại cần chọn lựa đối tác chiến
lược về kinh tế, chính trị, quân sự (Hoa Kỳ, Nhật, Ấn Độ) để cân bằng áp lực và
sức mạnh của Trung Quốc.
Về đối
nội, cần nhanh chóng phát triển nước, phát huy những giá trị tinh thần, văn hóa
đặc thù của dân tộc Việt Nam, nhằm thoát khỏi sự khống chế của Trung Quốc. Gia
tăng tân trang quân đội, nhất là về hải quân nhằm đối đầu với hải quân Trung Quốc,
bảo vệ ngư dân, vùng lãnh hải thuộc chủ quyền hơn 1.500.000 cây số vuông trên
Biển Đông, cũng như các tài nguyên dầu hỏa, khí đốt, đất hiếm (rare earth).
Mất chủ
quyền trên Biển Đông, dân tộc Việt Nam sẽ mất ưu thế chiến lược để phát triển đất
nước nhanh chóng thành một cường quốc trong tương lai hậu cộng sản.
Nguyễn Ngọc Bảo
No comments:
Post a Comment