Người
Việt tự do có nên tự nhận mình là bên thua cuộc?
31
tháng 3, 2025
Lý
luận cần thiết nếu không muốn nói là quyết định. Một người đi lạc trong rừng
không có đầu óc lý luận để biết việc gì nên làm trước và việc gì nên làm sau có
thể phải chết trong rừng già.
Mục
tiêu trước mắt của người đi lạc là tồn tại chứ không phải là ra khỏi khu rừng.
Do đó, việc nên làm trước là bình tĩnh đi tìm chung quanh mình một con suối hay
ít nhất một khe nước thay vì hoảng sợ chạy tứ tung để tìm một lối thoát cho đến
khi tuyệt vọng quỵ xuống và chết trong đói khát.
Một
nhận xét tôi thường gặp trên Facebook “Nói hoài, nói mãi, vấn đề là làm gì”.
Người viết nhận xét đó thật ra không có ý khinh thường hay nặng lời với các tác
giả cặm cụi suốt ngày đọc và viết nhưng chứng tỏ tâm lý thất vọng trước các vấn
nạn của đất nước.
Lý
luận bắt đầu từ những khái niệm căn bản.
Qua
trung gian bạn bè tôi biết đến tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” khá sớm. Khi chưa đọc,
một người bạn hỏi tôi về cái tựa sách. Tôi nhớ mình đã trả lời “Không thích lắm
vì có vẻ hụt hẫng, phải chi có thêm vài chữ để chỉ rõ hơn nội dung mà tác phẩm
tập trung vào, “Bên thắng cuộc” thôi tổng quát quá.” Nhưng sau khi sách phát
hành, đọc và thấy có thêm hai tiểu đề “giải phóng” và “quyền bính” đánh dấu mốc
thời gian và chỉ rõ nội dung hơn, tôi nghĩ khác về tựa sách. Đảng Cộng sản Việt
Nam (CSVN) đúng là “bên thắng cuộc”.
Lịch
sử đảng CSVN chứng minh CS hóa miền Nam là cuộc cờ, là canh bạc của đời họ. Các
thế hệ lãnh đạo Cộng sản (CS) trước chiến tranh, trong chiến tranh và ngay bây
giờ đều xem dải đất hình cong chữ S là một bàn cờ. Duy trì quyền lực đảng là tối
thượng và tất cả nỗ lực, mọi hoạt động đều nhằm phục vụ cho các mục đích thắng
cuộc cờ của đảng.
Từ
1930 đến nay, đảng CS đưa ra nhiều văn bản chỉ đạo từ Luận Cương (10-1930) đến
Chính Cương của Đảng Lao Động Việt Nam (2-1951), Cương Lĩnh Xây Dựng Đất Nước
Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội (6-1991) và các văn bản khác nhưng nội
dung vẫn thống nhất. Đảng CS đã, đang và sẽ làm tất cả những gì cần để bảo vệ
cho được quyền cai trị của đảng.
Sau
hiệp định Geneva, nếu có tổng tuyển cử thì tốt. Họ sẽ chiếm miền Nam không cần
súng đạn. Nếu không có tổng tuyển cử cũng không sao. Họ vẫn chiếm miền Nam
nhưng bằng xương máu Việt Nam và súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách tuyên
truyền, gian lận hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, mục tiêu toàn trị vẫn
không thay đổi.
Đương
đầu với Mỹ, một cường quốc dư thừa bom đạn, các lãnh tụ CS biết nhiều triệu người
Việt sẽ phải chết, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại
có thể phải xảy ra. Biết thì biết nhưng đảng không hề bận tâm. Không có văn bản
nào cho thấy các lãnh đạo CS đặt số phận 20 triệu dân miền Nam lên bàn tính.
Khi cần có đàn anh bảo bọc, đảng bán nước không một chút đắn đo. Năm 1958, Mao
Trạch Đông chưa chính thức mở miệng đòi Hoàng Sa, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và
Bộ Chính Trị CSVN đã biết ý nên tặng trước để lấy lòng.
Trải
qua nhiều thời kỳ, có khi đảng phải tự diễn biến để thích nghi với những đổi
thay trên thế giới hay làm dịu lòng căm phẫn của người dân nhưng bộ máy công
an, nhà tù, các biện pháp đàn áp, trừng phạt, các bản án dành cho những người
chống lại các chính sách hà khắc của đảng CS không hề thay đổi.
Năm
1990, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị kết án 20 năm tù vì đòi hỏi CSVN phải tôn trọng
nhân quyền. Năm 2017, anh Lê Đình Lượng đòi hỏi CSVN tôn trọng nhân quyền nên bị
kết án 20 tù. Hai mươi bảy năm nhưng giá một người Việt Nam yêu chuộng tự do phải
trả không bớt được một ngày.
Ba chữ
“đảng CS” khắc trong tim, hòa trong máu của các thế hệ lãnh đạo CSVN.
Không
ai trong số 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài ngày 17 tháng
6, 1930 tại Yên Báy đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”. Ngược lại, không
ai trong số các lãnh tụ CS bị xử bắn tại Hóc Môn ngày 28 tháng 8 năm 1941 như
Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến v.v.. đã hô “Việt Nam muôn
năm.”
Báo
đảng CS viết về cái chết của Võ Văn Tần, Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ thuộc đảng CS Đông
Dương: “Trước lúc hy sinh, tất cả các đồng chí đã giật tung mảnh vải bịt mắt và
hô vang khẩu hiệu: “Đảng Cộng Sản Đông Dương muôn năm”, “Cách mạng Việt Nam
thành công muôn năm” (Cách mạng đây là cuộc cờ, canh bạc của đảng CS).
Báo
đảng CS viết về cái chết của Nguyễn Thị Minh Khai, Bí thư Thành Ủy Sài Gòn Chợ
Lớn: “Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và
bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn ngày 26 tháng 8 năm 1941. Trước khi bị xử tử,
bà đã khẳng khái lên án tội ác thực dân Pháp và hô to: “Đảng Cộng sản Việt Nam
muôn năm!”, thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà.”
Lê
Hồng Phong không bị xử bắn. Ông ta bị bịnh và chết ngoài Côn Đảo. Trước khi qua
đời, ông Phong không nhờ các bạn tù thắp nén hương trên mộ mẹ hay chào vĩnh biệt
nơi chôn nhau cắt rốn, không, theo các báo đảng, ông nhắn nguyên văn thế này:
“Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng: Tới giờ phút
cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.
(Cách mạng đây là cuộc cờ, canh bạc của đảng CS)
Di
chúc Hồ Chí Minh, bản do đảng CSVN công bố có 22 chữ “đảng” và 1 chữ “dân tộc”.
Giống
như Võ Văn Tần, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và các lãnh tụ CS khác, Hồ
Chí Minh sống là lãnh tụ CS và chết cũng về với các lãnh tụ CS khác: “Vì vậy,
tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị
cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp
nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.”
Tóm lại tất
cả lãnh tụ CS chết vì bị xử tử, chết già, chết bịnh đều chỉ nghĩ tới đảng,
không ai trong số họ nghĩ tới dân tộc Việt.
Nhưng
sau khi tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” được phát hành, một phong trào gồm những người
dễ dãi bắt đầu dùng chữ “Bên Thua Cuộc” để chỉ phía Việt Nam Cộng Hòa nói riêng
và khối người Việt yêu tự do nói chung.
Đảng
CS tự đánh cuộc với chính họ. Người Việt tự do không đánh cuộc nên không “thua
cuộc” ai cả.
Dân
tộc Việt Nam không ký vào Hiệp Định Geneva 1954. Đây là dây thòng lọng của các
cường quốc quấn trên cổ dân tộc Việt. Dân tộc Việt phải chấp nhận để sống cho đến
khi đủ lớn mạnh.
Sự
phân cực tự do và CS sau Thế chiến Thứ Hai không chỉ diễn ra trong phạm vi ý thức
hệ mà còn diễn ra về địa lý tại một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Không một
người Việt Nam nào muốn đất nước phải chia đôi và lòng người ly tán, nhưng phải
chấp nhận và thuận theo hướng đi của thời đại mà phát triển cho đến một cơ hội
thích hợp để đoàn viên dân tộc.
Một
lãnh đạo sáng suốt là lãnh đạo biết vận dụng chính sách đối ngoại của các cường
quốc và đi theo hướng đi của thời đại.
Konrad
Adenauer của Đức là một chính trị gia yêu nước và thức thời. Mục đích trước mắt
của Thủ tướng Adenauer sau 1945 không phải là thống nhất nước Đức mà xây dựng
Tây Đức thành một quốc gia độc lập, dân chủ, có chủ quyền và một cường quốc được
thế giới công nhận.
Chỉ
10 năm sau Thế Chiến thứ Hai, 1955, Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) trở thành
hội viên của NATO hùng mạnh. Chỉ 12 năm sau Thế Chiến thứ Hai, 1957, Tây Đức trở
thành một trong những quốc gia lãnh đạo của Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu.
Tương
tự, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ
cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến
tranh. Sau một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực
dân, mục đích trước mắt của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được
cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.
Dân
chủ là một tiến trình chứ không phải là một cái máy cày hay máy xay lúa được nhập
từ nước ngoài và xử dụng giống nhau dù ở Mỹ, Pháp hay Việt Nam.
Trong
quá trình xây dựng nền dân chủ, nước Mỹ đã phải hy sinh trên bảy trăm ngàn
thanh niên trong Nội Chiến Hoa Kỳ 1861-1865. Miền Nam Việt Nam cũng có những vấn
đề riêng của một quốc gia đang tìm cách vươn lên sau thời kỳ bị lệ thuộc quá
dài. Tuy nhiên, đó là chuyện riêng của VNCH, không dính líu hay liên can gì đến
chế độ CS ở miền Bắc.
Nhưng
đảng CS không tha.
Tháng
5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động (CS) sau khi biết rằng việc chiếm
miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành, đã quyết định đánh chiếm miền
Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh nói. Gần hết
đồng bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến “giải phóng dân tộc” và hàng triệu
người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường “chống Mỹ cứu nước” nên bỏ thây
trên khắp hai miền.
Suốt
20 năm, quân dân miền Nam đã phải chiến đấu trong cuộc chiến tự vệ mà họ không
chọn lựa. Miền Nam Việt Nam là nạn nhân của đảng CSVN chứ không “thua cuộc”.
Hàng
ngàn người dân vô tội chết ở Huế trong Tết Mậu Thân không “thua cuộc” với ai cả,
họ chết vì bị chôn, trong nhiều trường hợp bị chôn sống.
Các
em bé chết trong tay mẹ ở nhà hàng Mỹ Cảnh không “thua cuộc” với ai cả, các em
bị giết bằng bom của đặc công CS tối 25, tháng 6, 1965.
Những
em bé học sinh tuổi mới lên mười ở trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường không
“thua cuộc” với ai cả, các em chết oan ức vì đạn pháo kích sáng ngày 9 tháng 3,
1974.
Những
bà mẹ che đạn cho con bằng chiếc nón lá và những bà mẹ gánh con chạy giặc trên
“Đại Lộ Kinh Hoàng” 1972 không “thua cuộc” với ai cả, nước mắt của các mẹ là
máu chảy nhiều năm.
Việt
Nam Cộng Hòa là một quốc gia bị CS cưỡng chiếm và một ngày sẽ được phục hồi.
Ngày phục hồi không chỉ Miền Nam thôi mà cả nước Việt Nam sẽ yên vui dưới chế độ
Cộng Hòa.
No comments:
Post a Comment