Nguyễn
Công Trứ trong trật tự quyền lực của Minh Mệnh: ‘Chơi với vua như đùa với hổ’
18/01/2019 08:16
Có nhiều cách thức khác nhau để đánh giá vai
trò của Nguyễn Công Trứ trong lịch sử Việt Nam. Dù là cách nào đi nữa thì dấu ấn
và đóng góp của ông cho diễn trình lịch sử sơ kỳ hiện đại là không thể phủ nhận.
Bài này gợi ra một góc nhìn khác về vai trò của ông trong cuộc chơi quyền lực
và định hình chính trị ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX: Nguyễn Công Trứ trên bàn cờ
quyền lực của Minh Mệnh.
https://tiasang.com.vn/Portals/0/Nguyen%20Cong%20Tru%20A3.jpg
Nguyễn Công Trứ là
nhân vật được nghiên cứu phân tích rất nhiều. Trong ảnh: Hội thảo Nguyễn Công
Trứ với lịch sử, văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, do ĐHQG HN và tỉnh Hà
Tĩnh tổ chức ngày 24/11/2018. Ảnh: VNU.
Đây là câu chuyện về quyền lực và thực hành
chính trị ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Câu chuyện phản ánh cách thức sự thay đổi
vương triều dẫn đến việc tái cấu trúc quyền lực ở tầng bậc cao nhất của nhà nước,
làm thay máu hệ thống quan liêu trung ương và thay đổi cách thức điều hành nền
hành chính. Nhà vua Minh Mệnh lên ngôi năm 1820 với tham vọng tập trung hóa quyền
lực, ổn định xã hội, thống nhất lãnh thổ và hệ thống cai trị vùng miền. Nỗ lực
này thách thức giới quan liêu địa phương và các tướng lĩnh quân sự đầy quyền lực
từng phụng sự Gia Long, vì thế Minh Mệnh cần những gương mặt mới cho trật tự
quyền lực mà ông đang xác lập. Trong khung cảnh đó, ông tìm thấy Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ và trật tự quyền
lực của Minh Mệnh
Nguyễn Công Trứ gia nhập vào thế giới chính trị trong khung cảnh đặc biệt của
cá nhân, thời đại và triều đại. 41 tuổi ông mới tham gia quan trường. “Hài
lòng” với việc đứng hạng nhất ở trường thi Hương Nghệ An (1819), ông tuyên bố
trong chính bài thi rằng mình “may mắn sinh vào thời của thánh nhân, nguyện làm
nhà Nho quân tử” (Bài Văn sách của ông tại trường thi Hương Nghệ An). Dù đến
“muộn” trong thời đại của Gia Long, Nguyễn Công Trứ xuất hiện một cách hoàn hảo
trong thế giới của Minh Mệnh.
Sự thay đổi triều đại từ Gia Long đến Minh Mệnh chính là bước ngoặt quan trọng
làm nên vận mệnh chính trị của Nguyễn Công Trứ, biến ông thành một mắt xích
quan trọng trên bàn cờ quyền lực đầu thế kỷ XIX giữa một bên là Minh Mệnh và những
trí thức thân tín mới được đào tạo với một bên là thể chế vùng miền cùng các tướng
lĩnh quân sự và khai quốc công thần quyền uy. Thành công của ông là khả năng
can dự vào trật tự của Minh Mệnh, đặc biệt là trong thập kỷ cầm quyền đầu tiên
của nhà vua (1820-1831). Ông thể hiện mình là một trong những quan chức năng nổ
nhất của thập kỷ này. Tuy nhiên Công Trứ nhanh chóng mất đi ảnh hưởng ở thập kỷ
sau đó khi mà chính trường ở Huế trở nên chật chội, khi mà lớp tiến sĩ mới do
chính tay Minh Mệnh chọn lựa và đào tạo bắt đầu kiểm soát hệ thống quan liêu
thì một người với những ý tưởng táo bạo như Nguyễn Công Trứ đã không thể thâm
nhập sâu hơn vào hệ thống ngày càng quan liêu hóa (dù phẩm hàm của ông lên đến
nhị phẩm).
Điều này được lí giải vì Nguyễn Công Trứ là một quan chức cấp chiến thuật chứ
không phải chiến lược. Dù phẩm hàm cao, ông chưa bao giờ tham dự Nội các hay Cơ
Mật Viện, và được Minh Mệnh sử dụng chủ yếu trong các nhiệm vụ chiến thuật và
thử nghiệm chính trị, quân sự. Vì điều này, trong nhiều năm, Minh Mệnh tìm cách
giữ Nguyễn Công Trứ ở bên ngoài triều đình, phái ông vào các sứ mệnh hành chính
và quân sự địa phương, đồng thời sử dụng công cụ thăng, giáng liên tục để “kiềm
chế” cái “ngông” của ông và gắn ông với những điểm nóng và sự vụ đương thời.
Người điều phối các quân cờ này: Nguyễn Phúc Đảm sinh năm 1791, là hoàng tử thứ
4 của Gia Long, là con thứ phi tuy nhiên đến năm 1802, ông là người con trai lớn
tuổi nhất còn sống. Đây là diễn biến không ngờ của trật tự kế vị (ĐNLT, 2:
17b-19b; ĐNTL, I, 48: 6a). Từ vị thế số 4 (thậm chí là số 5, sau con trai của
hoàng tử Cảnh), Minh Mệnh trở thành một trong hai lựa chọn hàng đầu cho ngai
vàng. Cuộc chiến năm 1816 cho ngôi vị thái tử phủ bóng đen lên triều đình Huế với
cái chết của Nguyễn Văn Thành và sự tan rã của phe trí thức Bắc Hà. Tuy nhiên,
với vị vua này, cuộc chiến mới chỉ bắt đầu.
Trong nhiều năm, Minh Mệnh tìm cách giữ Nguyễn
Công Trứ ở bên ngoài triều đình, phái ông vào các sứ mệnh hành chính và quân sự
địa phương, đồng thời sử dụng công cụ thăng, giáng liên tục để “kiềm chế” cái
“ngông” của ông và gắn ông với những điểm nóng và sự vụ đương thời.
Khi bước vào điện Thái Hòa ngày 14/2/1802,
Minh Mệnh ở tuổi 30 và là một trong những ông vua được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất của
vương triều này, được những trí thức lớn như Đặng Đức Siêu, Ngô Đình Giới đào tạo,
và am hiểu lịch sử chính trị, hành chính Trung Hoa. Tuy nhiên, đối thủ và thử
thách đang chờ đón ông cũng không tầm thường. Lịch sử đã không diễn ra một cách
dễ dàng như Minh Mệnh hình dung. Sẽ phải mất 16 năm (tức ¾ toàn bộ thời kỳ trị
vì) để ông thực hiện dự án nhà nước và dự án đế chế của mình nhằm xác lập tập
trung quyền lực, thống nhất lãnh thổ, hành chính.
Nhà vua với những ý tưởng chính trị lớn, vì thế bị cô lập trên chính vương quốc
của mình và buộc phải đào tạo một thế hệ nho sĩ mới, những người trung thành với
ông và hiểu được những ý tưởng chính trị lớn mà ông sắp triển khai. Ông cũng cần
“gài người” vào các trung tâm quyền lực ở vùng châu thổ sông Hồng và sông
Mekong để từng bước kiểm soát hai hệ thống hành chính tự trị này. Nhà vua tìm
thấy Nguyễn Công Trứ một ứng viên sáng giá cho việc cử tới Bắc Hà. Lịch sử gia
đình, tuổi thơ, sự nghiệp học hành, các mối quan hệ cá nhân của Trứ là một lí lịch
hoàn hảo cho sứ mệnh này.
Tại sao là Nguyễn Công Trứ?
Ông có liên hệ mật thiết với hai nhóm trí thức ở Quỳnh Côi và Nghi Xuân. Cha
ông, Nguyễn Công Tuấn (1716–1800) từng làm tri huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) và
tri phủ Tiên Hưng (Thái Bình) (Lê Xuân Giáo, 1973: 3–4). Nguyễn Công Tuấn và
Nguyễn Nghiễm (1708–1775) đều từ Nghi Xuân, giữa hai gia đình vì thế có thể tồn
tại các mối liên hệ khi cùng làm quan ở châu thổ sông Hồng. Tuy vậy, khoảng năm
1790, Nguyễn Công Tuấn đưa Nguyễn Công Trứ về Nghệ An và bắt đầu một cuộc sống
nghèo khó. Những năm tháng này giúp Công Trứ có được góc nhìn, tầm vóc tri thức,
và kinh nghiệm xã hội từ giới tinh hoa cũng như cuộc sống gắn chặt với các làng
quê của người nông dân, đặc biệt là gắn liền với những biến động của vùng đất
Nghệ An thời Tây Sơn và Gia Long.
Trong vòng 11 năm (1821-1832), Nguyễn Công Trứ được thăng từ Hàn lâm viện Biên
tu (7A) lên Tham Tri (2B) và Thự Tổng đốc Hải Yên (2A, 54 tuổi) (MMCB, 3: 122).
Chánh nhị phẩm (2A) cũng là phẩm cấp cao nhất trong sự nghiệp của ông. Quá
trình này không hề thua kém những “ngôi sao” chính trị hàng đầu thời Minh Mệnh.
Hà Tông Quyền đỗ Tiến sĩ 1822 (24 tuổi). Được cử đi làm Tri phủ Tân Bình, Tham
hiệp Quảng Trị trước khi rút về làm việc tại các bộ và sau đó là Nội các. Sau
sáu năm, đến 1828, Hà Quyền lên Hữu Thị lang Lễ bộ kiêm lĩnh Thái thường tự;
năm 32 tuổi làm thự Hữu tham tri Công bộ (hàm 2B). Phan Bá Đạt đỗ Tiến sĩ năm
1822 (29 tuổi), lên hàm 2B (tòng nhị phẩm) với chức Tham tri Hình bộ (38 tuổi)
và Tả phó đô ngự sử (39 tuổi).
Thành công của Nguyễn Công Trứ là dù “xuất phát chậm” nhưng có khả năng tiếp cận
nhanh vào hệ thống quyền lực ở Huế, đặc biệt là quá trình thăng tiến nhanh và
suôn sẻ trong thập kỷ đầu tiên phục vụ Minh Mệnh. Đó là khi vị Hoàng đế đang cần
một nhóm văn thần mạnh làm chỗ dựa cho cuộc cải cách chính trị, thay thế dần
quyền lực của giới quân sự. Sự chuyển giao thế hệ này là một cơ hội cho Nguyễn
Công Trứ bởi Minh Mệnh ưa thích những văn quan sẵn sàng xả thân. Chính trong nỗ
lực tìm kiếm các văn quan “dấn thân” này, Nguyễn Công Trứ xuất hiện. Minh Mệnh
gọi ông là “nho tướng” (儒將), tên gọi cho thấy kỳ vọng của Minh Mệnh vào Trứ và vị trí mà nhà vua
dành cho ông trên bàn cờ chiến lược, hành chính của mình (ĐNTL, II, 219: 21b).
Nguyễn Công Trứ như một cánh
tay nối dài của Minh Mệnh
Trên ngai vàng, chính sử mô tả vị hoàng đế là một ông vua tự tin, quyết đoán.
Tuy nhiên, trong hơn một nửa thời gian cầm quyền đầu tiên, nhà vua cho thấy một
gương mặt khác: bất an, thận trọng, thường xuyên bị ám ảnh bởi các thách thức
an ninh và quản trị quốc gia (ĐNTL, II, 104: 31a). Xuất thân của ông, cuộc chiến
ngai vàng, và cai trị giữa một thế giới các quyền thần để lại dấu ấn lên sự lo
lắng của nhà vua, đặc biệt là nỗ lực của ông nhằm tái cấu trúc hệ thống hành
chính, tập trung hóa nhà nước, lãnh thổ. Những gì diễn ra sau đó là ngày tháng
“mất ăn mất ngủ”, như chính nhà vua tuyên bố vào mùa đông 1833 với bạo loạn,
xâm lược của Siam và bùng bổ xung đột xã hội.
Nhà vua cần các quan chức có thể chia sẻ những ý tưởng này, không chỉ ở hoàng
cung, mà còn nơi chiến trường, những viên chức có thể đưa vào thử nghiệm các dự
án chính trị táo bạo, đặc biệt là những người có thể tạo ra sự thay đổi ở các địa
phương.
Đó là mùa thu năm 1825, vị hoàng đế đang tức giận với các viên chức phủ Thừa
Thiên, những người để trộm cắp lan tràn ngay tại kinh thành. Nguyễn Công Trứ được
chuyển từ Hình bộ về làm Phủ Thừa (hàm 4A) (ĐNTL, II, 34: 11a-b). Chúng ta
không biết gì nhiều về điều gì đã diễn ra, tuy nhiên, ba tháng sau, có vẻ như
ông đã tạo ra sự khác biệt, và làm hài lòng vị hoàng đế, vì thế được chuyển làm
Tham hiệp Thanh Hóa – một điểm nóng an ninh khác với sự nổi dậy của những người
ủng hộ nhà Lê và các nhóm dân miền núi dọc theo Thanh Hóa-Ninh Bình. Sau khi
Nguyễn Công Trứ nghỉ tang mẹ và quay lại nhậm chức, chính nhà vua tuyên bố:
“Trước kia hai trấn Thanh Nghệ trộm cướp nổi nhiều, vì trấn thần vỗ về chống giữ
có phương pháp, dân nhiều người ra sức, bắt được 8, 9 phần 10 kẻ phạm, như thế
thì dân ta có phụ gì triều đình đâu. Nay ngươi đến bảo rõ đức ý của triều đình,
chiêu tập những dân xiêu tán, tiễu trừ những đảng giặc sót để cho biên phương
yên lặng lâu dài, ấy là điều trẫm mong đợi” (ĐNTL, II, 41: 17b).
Trải nghiệm của Minh Mệnh, Nguyễn Công Trứ với
tư cách là các chính trị gia và người làm chính sách chắc chắn đã không chỉ dừng
lại ở thế kỷ XIX. Việc nhận diện thời cuộc, xây dựng dự án chính trị, quản trị
lãnh thổ, nhà nước, tương tác trung ương với địa phương, và sự giám sát của
chính quyền nhà nước đối với chính quyền vùng luôn là điều không dễ dàng trên mảnh
đất hình chữ S.
Đảm nhận hai chức vụ trong vòng 9 tháng, Ngyễn
Công Trứ đã chứng minh là một quan chức có năng lực dẹp loạn, bình định an
ninh. Ông cho thấy năng lực giải quyết được vấn đề ám ảnh hàng đầu của Minh Mệnh,
và là lí do của quá trình thăng tiến nhanh chóng. Mùa đông năm 1826, khi biết
tin ông bị ốm ở Quảng Trị, trên đường đi công cán, Minh Mệnh đã cử thái y đến
chữa bệnh (MMCB, 20: 112). Ông cũng được tặng bạc vào hai lần khác (1826, 1832)
mà không có lí do cụ thể (ĐNLT, 20: 8b-9a).
Tuy nhiên, điểm đến tiếp theo của ông là không
hề dễ dàng: Bắc Thành.
Lập lại trật tự ở Bắc Thành
Sau cái chết của Lê Chất (1826), vùng đất này đang
chìm trong bạo lực. Sau nhiều lần vỡ đê từ năm 1824, các cuộc bạo loạn quy mô
xuất hiện, đặc biệt là nổi dậy của Phan Bá Vành. Trong sứ mệnh này, Nguyễn Công
Trứ được phái ra Bắc, phụ trách Hình tào, tâm điểm của nền hành chính tha hóa.
Gần một thập kỷ sau đó, Nguyễn Công Trứ sẽ phục vụ như một cánh tay nối dài của
Minh Mệnh trong một dự án chính trị, quân sự lớn làm thay đổi toàn bộ cấu trúc
hành chính vùng châu thổ.
Những năm 1826 đến 1831 là cuộc chiến của Minh Mệnh ở Bắc Thành, nơi mà tính khốc
liệt không hề thua kém những gì ông đã trải qua ở Gia Định. Cướp biển ở miền
duyên hải, các nhóm dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Tây, trong khi các nhóm ủng
hộ nhà Lê chiếm giữ dải đất miền núi và trung du từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, âm
mưu thâm nhập vào vùng châu thổ. Hệ thống quản trị hành chính yếu kém của chính
quyền cấp thành ở Hà Nội làm cho tình hình trở nên tồi tệ với thiên tai, nạn cường
hào và lũng đoạn thuế khóa. Điều này đẩy hàng vạn dân đói, mất đất và nạn nhân
của các trận lụt ở “rốn lũ” Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình chạy xuống duyên hải
phía nam (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình), gây ra những sức ép kinh tế lớn và gia
tăng bạo lực xã hội.
Đáp lại, Minh Mệnh tự mình xem xét hàng trăm vụ án ở Bắc Thành với số phạm nhân
lên tới 800-900 người. Năm 1826 chẳng hạn, có 490 án, 930 người bị giam (ĐNTL,
II, 40: 18b-19a). Tình trạng quan chức tha hóa là nỗi ám ảnh của nhà vua. Ông
phàn nàn trong một đạo dụ rằng “Gần đây nghe nói viên ty và thư lại các tào bắt
chước nhau, liên kết bè đảng, nhiều người ăn của lót mưu lợi riêng, công việc tự
ý mình làm nặng mà nhẹ, mà Hình tào càng tệ hơn” (ĐNTL, II, 43: 3b).
Không như kỳ vọng của nhà vua, các viên chức ông cử tới gặp vấn đề lớn trong việc
xâm nhập vào hệ thống hành chính địa phương, từ cấp tào cho đến dinh trấn, phủ
huyện. Thất bại của các nỗ lực này ở Nam Định là một ví dụ rõ ràng (ĐNTL, II,
45: 2b). Ít nhất có ba lần năm 1827, nhà vua yêu cầu các quan chức Bắc Thành gửi
báo cáo mật trực tiếp về hoàng cung về tình hình quân sự, quan lại, và dân
chúng (ĐNTL, II, 43: 16b, 25a-b). Minh Mệnh đang cần những nhân vật có khả năng
kiểm soát vấn nạn chính trị quan liêu này và xác lập lại trật tự tại địa
phương. Nguyễn Công Trứ là một trong số ít có đủ khả năng chia sẻ được những ý
tưởng của nhà vua, đặc biệt là giúp ông giải quyết các điểm nóng trên vùng châu
thổ, như ông đã làm ở Thừa Thiên và Thanh Hóa.
Nhiệm vụ của Nguyễn Công Trứ tập trung vào việc xử lí tệ nạn ở Hình tào, dẹp loạn
Phan Bá Vành, giải quyết dân lưu tán ở Thái Bình, Nam Định, tổ chức khai hoang,
sắp đặt lại vùng ngập Hải Dương, và cuối cùng là quản lí hệ thống an ninh vùng
duyên hải. Lời dụ của Minh Mệnh cho Nguyễn Công Trứ đầu năm 1827 viết, “sau này
có việc gì khẩn yếu, cho được làm tờ nói thực, niêm phong tâu thẳng” (ĐNTL, II,
43: 24b).
Được nhà vua ‘bật đèn xanh’, Nguyễn Công Trứ đã thực hiện một cuộc thí điểm
chính trị quan trọng ở vùng đông nam châu thổ sông Hồng, trong đó tập trung vào
ba khía cạnh chính:
Thứ nhất, thúc đẩy một chính quyền mạnh tay với những kẻ nổi loạn, như chính
ông đã thực hiện ở Thừa Thiên, Thanh Hóa, Nam Định, và Hải Dương.
Thứ hai, ông coi “lại dịch tham ô” là căn nguyên của nền hành chính yếu kém. Giải
pháp của ông có thể làm những người làm chính sách ở Việt Nam hiện tại ngỡ
ngàng: “thải bỏ những người hèn kém bớt đi một nửa, và cho thêm lương, để giữ
thanh liêm” (ĐNTL, II, 51: 8a-b). Cùng với cường hào lũng đoạn làng xã, ông coi
đây là nguyên nhân căn bản của bạo lực xã hội Bắc Kỳ.
https://tiasang.com.vn/Portals/0/Nguyen%20Cong%20Tru%20A2.jpg
Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ từ 12 đến 14/11 âm lịch tại
huyện Kim Sơn, Ninh Bình. Nguồn ảnh: Đài phát thanh truyền hình Ninh Bình.
Thứ ba là một dấu ấn lớn của Nguyễn Công Trứ
trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XIX: khai hoang, xác lập làng cho dân lưu
tán. Ông nhận thức lưu dân là vấn nạn lớn ở châu thổ trong nhiều thập kỷ, đặc
biệt như ông chứng kiến ở Nam Định, Hải Dương, Thái Bình. Ông đã nhìn thấy tình
trạng dân lưu tán là căn nguyên của nhiều vấn nạn xã hội và tìm cách xác lập họ
trong những vùng mới khai hoang. Trong địa hạt này, ông đã tìm thấy tiếng nói
chung với Minh Mệnh, nhờ đó hàng nghìn gia đình được xác lập dọc theo duyên hải
đông nam châu thổ sông Hồng (ĐNTL, II, 51: 11a-b).
Trớ trêu là sự năng nổ và các ý tưởng táo bạo của Nguyễn Công Trứ đã tạo ra chướng
ngại cho chính ông trong việc gia nhập vào trung tâm của hệ thống quan liêu ở
Huế.
Minh Mệnh và các quan chức tán đồng với phân tích tình hình của Nguyễn Công Trứ,
bao gồm vấn đề dẹp loạn, cường hào, khai hoang. Mặc dù vậy việc can thiệp sâu rộng
vào các làng xã dường như quá mạo hiểm đối với Huế. Hệ thống quan liêu ở Huế rất
cảnh giác với các làng xã Bắc Hà, nơi có những cư dân “không thân thiện” với
triều đình. Theo họ, những vấn đề ông nêu chỉ là cá biệt, do người thực thi chứ
không phải tại hệ thống, vì thế không cần thiết xác lập thêm các thiết chế mới.
Minh Mệnh tỏ ra tỉnh táo hơn. Ông chia sẻ với Nguyễn Công Trứ nỗi ám ảnh về
tình hình an ninh, và vì thế bảo trợ cho vị quan này trong nhiều sáng kiến hành
chính. Tuy nhiên nhà vua là một người cẩn trọng, không muốn có bất cứ sự xáo trộn
lớn nào về mặt chính sách, vì thế đồng ý cho tiến hành những thử nghiệm quy mô
nhỏ, mức độ vừa phải.
Cuối cùng, ý nghĩa lớn nhất của câu chuyện về Nguyễn Công Trứ không nằm ở chỗ
vinh danh hay tán dương quá khứ mà là điều chúng ta có thể học được từ tiền
nhân trong cách thức quản trị nhà nước và xã hội trong những năm tháng mà một
lãnh thổ Việt Nam thống nhất mới được định hình. Trải nghiệm của Minh Mệnh,
Nguyễn Công Trứ với tư cách là các chính trị gia và người làm chính sách chắc
chắn đã không chỉ dừng lại ở thế kỷ XIX. Việc nhận diện thời cuộc, xây dựng dự
án chính trị, quản trị lãnh thổ, nhà nước, tương tác trung ương với địa phương,
và sự giám sát của chính quyền nhà nước đối với chính quyền vùng luôn là điều
không dễ dàng trên mảnh đất hình chữ S. ¨
-----------
Tham khảo
[ĐNLT]. (n.d.). Đại Nam Liệt Truyện,
chính biên. Tokyo: Keio Institute of Linguistic Studies, reprint, 1963, Bản Dịch
(Huế: Thuận Hóa, 1995).
[ĐNTL]. (n.d.). Đại Nam Thực Lục. Tokyo: Institute of Cultural and
Linguistic Studies, Keio University, 1961-1977, Bản dịch (Hà Nội: Giáo dục,
2004).
[MMCB]. (n.d.). Châu bản triều Nguyễn, triều Minh Mệnh, 1820-1841. Trung
tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.
Vũ Đức Liêm. Nguyễn Công Trứ và việc nhận thức các vấn đề thời đại. Hội
thảo Nguyễn Công Trứ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 24/12/2018.
Vũ Đức Liêm. ‘Chơi với vua như đùa với hổ’: Nguyễn Công Trứ trong trật tự
quyền lực của Minh Mệnh, trong Nguyễn Công Trứ và Sự nghiệp lập thân kiến
quốc, biên tập: Nguyễn Công Lý, Đoàn Lê Giang, Lê Quang Trường, Nguyễn Ái Học
(Hà Nội: KHXH, 2018): 157-187.
Vũ Đức Liêm và Dương Duy Bằng, “Phe phái, lợi
ích nhóm, và quyền lực ở Việt Nam Đầu Thế Kỷ XIX” Nghiên cứu Lịch sử, Số 9
(2018).
----------------------------
TIN LIÊN QUAN
Một
cái nhìn đa chiều và nhất quán về Huế và Triều Nguyễn
Thế
hệ trí thức thời đại Minh Mệnh
Phe
phái và cạnh tranh quyền lực ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX
Kỷ
niệm 150 năm ngày mất của Nguyễn Công Trứ: CÒN NHIỀU ĐIỀU VỠ LẼ VỀ ÔNG ĐANG CHỜ
PHÍA TRƯỚC…
No comments:
Post a Comment