Friday, 7 January 2022

BIẾT THÊM TỪ “CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM” / PHẦN 1, PHẦN 2, PHÂN 3, PHẦN 4, (Nguyễn Đình Cống)

 


Biết thêm từ “Chính đề Việt Nam” (Phần 1)

Nguyễn Đình Cống

30/12/2021

https://baotiengdan.com/2021/12/30/biet-them-tu-chinh-de-viet-nam-phan-1/

 

1-Giới thiệu

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/12/1-23-696x928.jpg

Ảnh bìa sách “Chính Đề Việt Nam” – Tùng Phong

 

Sách “Chính đề Việt Nam”, tác giả Tùng Phong – Ngô Đình Nhu (có thông tin nói tác giả là ông Lê Văn Đồng), một người có vai trò quan trọng trong chính quyền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1963.

 

Sách được hoàn thành vào năm 1962 với sự thảo luận, đóng góp ý kiến của một số nhà chính trị và nhà khoa học. Sách chưa kịp in thì xảy ra chính biến tháng 11/1963, lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Năm 1964 sách được in ra tại Sài Gòn, nhưng chỉ lưu hành giới hạn trong các cán bộ lãnh đạo. Năm 1988, sách được in lại tại Nhà Xuất Bản Hùng Vương – Los Angeles – Mỹ.

 

Theo lời Nhà Xuất bản thì “Sách mở đầu bằng một lời vắn tắt của một đại văn hào Nhật Bản, Đức Phú Tô Phong, nói rằng: ‘Một dân tộc hùng cường là một dân tộc giàu chiến sĩ vô danh’. Phải chăng tác giả muốn ngụ ý rằng dân tộc VN cũng là một dân tộc hùng cường vì VN cũng giàu chiến sĩ vô danh”.

 

Tôi được biết về “Chính đề Việt Nam” từ rất lâu, nhưng chỉ mới ở dạng các bài giới thiệu hoặc tóm tắt. Gần đây mới có dịp nghiên cứu toàn văn. Hiện nay sách có thể tìm thấy tại Việt Nam Thư quán.

 

Trong những bài giới thiệu, tôi quan tâm nhiều đến bài của GS Tôn Thất Thiện (sinh năm 1924), viết năm 2009 với tựa đề “MỘT VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG, MỘT ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN”. GS Thiện là một học giả chuyên nghiên cứu vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến, ông cho rằng “Chính đề Việt Nam sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại…, là tài liệu xuất sắc nhứt mà ông đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua”.

 

Sách được viết trong thời kỳ chiến tranh lạnh với thế giới được chia thành hai phe (hai khối). Tạm gọi là A và B. Phe A tự cho mình theo đường lối XHCN, yêu hòa bình, chống áp bức bóc lột, chống xâm lược, gọi phe B là bọn tư bản, đế quốc, gây chiến, xâm lược. B tự cho là khối Thế giới Tự do, nơi người dân có dân chủ, nhân quyền, phát triển xã hội theo Kinh tế thị trường, họ gọi A là khối Thế giới Cộng sản, nơi sử dụng bàn tay sắt của chuyên chính vô sản để tước đoạt quyền tự do cá nhân và xóa bỏ tư sản.

 

Đứng đầu phe A là những người như Stalin, Mao Trạch Đông mà bên A ngợi ca là lãnh tụ thiên tài, còn B gọi là những tên độc tài khát máu. B không có người đứng đầu rõ ràng, chỉ có những người đóng vai trò rất quan trọng, đó là các Tổng thống Mỹ được bầu theo nhiệm kỳ.

 

Ngoài hai khối A và B thì một số nước họp với nhau thành “Thế giới thứ ba” gồm vài chục nước, mà chủ yếu là những nước thuộc địa cũ, chậm phát triển.

 

Ở Việt Nam, sau năm 1954 đất nước tạm chia hai, là hình ảnh thu nhỏ của A, B trên thế giới. Thông thường gọi là Hai miền, Bắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nam với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Gắn với chính trị thì A gọi chính quyền Miền Nam là Ngụy quyền; còn B tự xưng là phe Quốc gia, gọi Miền Bắc là Phe Cộng sản (CS).

 

Sau khi chia hai đất nước thì có sự tập kết. Quân đội và người làm việc cho bên nào thì về bên đó. Riêng dân thường thì có sự di cư từ Bắc vào Nam mà hình như không có theo chiều ngược lại. Năm 1955 có phong trào “Chống cưỡng ép di cư” ở toàn Miền Bắc. Ngoài ra, có một số đông theo Cộng sản nhưng được tổ chức cài đặt ở lại Miền Nam để dùng sau này. Hình như cũng có một số ít theo Quốc gia trốn lại Miền Bắc, nhưng nhanh chóng bị vô hiệu hóa.

 

Miền Bắc lo thiết lập thời kỳ quá độ lên CNXH với cải cách ruộng đất, hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo Công thương nghiệp, thành lập các nông trường, làm một số công trình, nhà máy, mở mang trường học. Những việc về kinh tế như cải cách, hợp tác, cải tạo v.v… chủ yếu là thất bại do làm trái quy luật tự nhiên chứ không bị một sự phản khàng nào đáng kể của “thế lực thù địch”. Về chính trị có nổi lên nhóm Nhân văn đòi tự do dân chủ, nhưng bị đàn áp ngay. Tuy có một số toán biệt kích từ Nam ra quấy phá và một vài phản ứng lẻ tẻ ở một số nơi, nhưng tất cả đều bị tiêu diệt nhanh chóng. Đồng thời với việc đưa Miền Bắc theo XHCN là tiến hành các công việc cần thiết để tiến tới “giải phóng Miền Nam”, thống nhất đất nước. Ý đồ Tổng tuyển cử vào năm 1956 đã không thành.

 

Hồ Chí Minh cho rằng, đã có chủ nghĩa Mác – Lê soi sáng, có Stalin và Mao Trạch Đông vạch đường, nên ông và Đảng của ông không cần sáng tạo gì thêm, xem Mác – Lê là kim chỉ nam, là đuốc soi đường, chỉ tìm cách thực hiện nó cho phù hợp với hoàn cảnh và nhận sự viện trợ của phe XHCN, mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Quốc.

 

Về phía Miền Nam, sau khi đưa tiễn đội quân của Pháp ra khỏi đất nước và dẹp tan được các giáo phái chống đối, Ngô Đình Diệm muốn xây dựng một Miền Nam thành hình mẫu của Thế giới Tự do, ngăn cản sự bành trướng của khối CS. Nhưng công việc này bị cản trở bởi lực lượng CS nằm vùng và của Miền Bắc với quyết tâm đánh đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Tình thế đó làm cho ông Diệm càng quyết tâm chống Cộng. Trong lúc Miền Bắc dựa vào Liên Xô và Trung Quốc thì ông Diệm phải dựa vào khối Thế giới Tự do mà chủ yếu là Mỹ. Trong hoàn cảnh này, Tùng Phong cùng các cộng sự nghiên cứu và viết ra Chính đề Việt Nam.

 

Không thấy rõ vai trò ông Ngô Đình Diệm trong việc nghiên cứu này, mặc dù Tùng Phong là người thân thiết với ông.

 

Đọc Chính đề Việt Nam tôi cảm phục Tùng Phong đã thể hiện lòng yêu nước Việt, thương dân tộc Việt, muốn tìm con đường đúng đắn để chấn hưng, để phát triển, đồng thời ông có những nhận định sáng suốt. Tuy vậy, tôi không hoàn toàn nhất trí với mọi ý kiến của ông, không đề lên quá cao sách của ông (như GS Thiện) mà sẽ có những ý kiến phản biện.

 

Tôi sẽ trình bày các loại ý kiến sau: Một là, những ý của Tùng Phong mà tôi thấy bình thường thì chỉ thuật lại mà không có nhận xét gì, phần lớn là loại này. Hai là, những điều trước đây tôi chưa biết, chưa nghĩ tới, nay nhờ Tùng Phong mà biết được, tôi ghi chú bằng chữ (ý mới, mới đối với tôi nhưng chắc sẽ không mới với một số người khác). Ba là, những ý kiến tương đối khác lạ với suy nghĩ bình thường của nhiều người, tôi cũng đã nghĩ tới, một số đã viết ra, nay thấy Tùng Phong đề cập, mới biết rằng mình cũng chỉ là một trong những người đồng thời nghĩ ra vấn đề đó, được ghi chữ (trùng ý). Bốn là, một số ý của Tùng Phong mà tôi chưa tán thành. Những điều này cần được suy nghĩ và chiêm nghiệm kỹ hơn, được ghi chữ (phản biện). Tôi sẽ lần lượt theo nội dung sách mà trình bày các ý kiến. Viết ra những điều như thế với mong ước được trao đổi với những ai quan tâm để có thể hoàn thiện được tư tưởng và may ra có thể đóng góp được gì đó cho cộng đồng.

 

Viết bài này cũng gần như tôi tóm tắt sách “Chính đề VN”.

 

Ghi chú: Để phân biệt với câu văn do tôi viết ra, mọi câu trích dẫn của Tùng Phong hoặc của người khác đều được in nghiêng và đặt trong dấu ngoặc kép “…”. Thỉnh thoảng tôi có chen vào vài điều bình luận để trình bày ý kiến cá nhân, ngoài những nhận xét hoặc phản biện đã viết.

(Còn tiếp)

 

                                                                 ***

 

Biết thêm từ “Chính đề Việt Nam” (Phần 2)

Nguyễn Đình Cống

31/12/2021

https://baotiengdan.com/2021/12/31/biet-them-tu-chinh-de-viet-nam-phan-2/

 

2- Bối cảnh của vấn đề

 

Mở đầu sách là những trình bày về: Vị trí của VN trong thế giới hiện tại (1962), hình ảnh lịch sử của cộng đồng, Quốc gia, Cộng sản và sự phân chia lãnh thổ, Đường lối phát triển của dân tộc.

 

Tùng Phong chia cộng đồng làm hai phần: Thiểu số và đa số (trùng ý) và gán cho thiểu số làm lãnh đạo và đa số được lãnh đạo. Điều này chỉ đúng một phần vì có những cộng đồng mà thiểu số là thống trị, độc tài, còn đa số là bị trị. (Phản biện). Từ đây trở xuống tôi chỉ gọi họ là Thiểu số và Đa số, chỉ khi nào cần nhấn mạnh mới kèm thêm định ngữ lãnh đạo hoặc thống trị và bị trị).

 

Tùng Phong nhận định, “VN là nước nhỏ về dân số, về lãnh thổ, kinh tế kém phát triển và không có đóng góp gì đáng kể vào văn minh nhân loại. Chúng ta bị chi phối bởi sự vô trách nhiệm của các nước lớn, luôn bị đe dọa nạn ngoại xâm”. Tôi chỉ tán thành một phần vì cho rằng VN không thuộc loại dân số ít (không những bây giờ, năm 2022 mà cả vào thời năm 1962), lãnh thổ không đến nỗi bé, hơn nữa có vị trí địa lý khá tốt. VN không có đóng góp gì vào văn minh nhân loại vì kém phát triển, vì yếu, chứ không phải vì nước nhỏ, VN luôn bị đe dọa nạn ngoại xâm chủ yếu là từ dã tâm của Đại Hán chứ không còn từ phương Tây. Bị chi phối bởi sự vô trách nhiệm cùa các nước lớn cũng vì ta yếu kém chứ không thể đổ lỗi cho ai được. (Một số người Việt tự hào là đóng góp lớn cho nhân loại bằng cách mạng giải phóng thuộc địa, lập chính quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Xin chưa bàn đến điều này đúng sai đến đâu).

 

Tôi tán thành với Tùng Phong rằng, sự yếu kém của cộng đồng do thiểu số lãnh đạo kém phẩm chất là chủ yếu (trùng ý). Nguyễn Trãi viết: “Như nước Đại Việt ta…Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau mà hào kiệt đời nào cũng có”. Mạnh là khi hào kiệt được trọng dụng, lúc đó dân tộc sẽ đoàn kết, mạnh lên, yếu là khi hào kiệt bị thiểu số thống trị loại bỏ, dân tộc sẽ bị phân tán và có nguy cơ tan rã. Tùng Phong đã viết rất đúng rằng, thiểu số lãnh đạo cần có được NHÂN, DŨNG, LƯỢC và thấu triệt được vấn đề của cộng đồng. Từ đó mới chọn được đường lối đúng.

 

Đa số, dù được lãnh đạo hoặc bị trị, là những người dân, lý do sống là vì cá nhân, nhưng điều kiện sống là thuộc cộng đồng (ý mới). Hai điều này thường phù hợp nhưng nhiều khi xảy ra mâu thuẫn, lúc này người dân phải chấp nhận một sự hy sinh nào đó. Vậy đa số cũng cần phải thấu triệt được vấn đề của cộng đồng. Thiểu số có nhiệm vụ giúp đa số làm việc này (đó là nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí).

 

Giữa thống trị và bị trị thường xuyên có mâu thuẫn. Giữa lãnh đạo và được lãnh đạo cũng có những lúc phát sinh mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn chủ yếu trong cộng đồng. Để giải quyết mâu thuẫn thì thiểu số lãnh đạo cần phải; 1- Tôn trọng tinh thần dân chủ, là một lợi khí sắc bén, 2- Phát huy sự hiểu biết của đa số đối với vấn đề cần giải quyết của quốc gia để củng cố tinh thần dân tộc.

 

Khi đất nước bị chia cắt, sự tranh giành ảnh hưởng giữa phe Quốc gia và phe Cộng sản đã làm tan rã dân tộc. Chống Cộng mà chỉ nhằm vào việc loại bỏ cá nhân và tổ chức, dù có quyết liệt đến đâu cũng chỉ là chống một cách tiêu cực. Cần vạch ra rằng, CS chỉ là một lý thuyết tranh đấu ngoại lai, nó sẽ đưa dân tộc vào con đường đen tối. Chống Cộng tích cực phải trên cơ sở thực trạng của Quốc gia và có giải pháp để thay thế.

 

Bình luận: Ai cũng nói rất giỏi về việc đánh giá đúng thực trạng, về vấn đề cần giải quyết, nhưng nói thì dễ, làm được rất khó vì bị chi phối bởi chủ nghĩa này, học thuyết kia, lãnh đạo nọ. Vậy để có một đánh giá tương đối đúng về thực trạng, có thể tin được, cần phải có sự điều tra toàn diện của một tổ chức trung lập, một cách khách quan, trung thực, không bị chi phối bởi bất kỳ học thuyết, chủ nghĩa hoặc sự lãnh đạo nào cả (ngưng bình luận).

 

Phần cuối của mục “Bối cảnh…”, Tùng Phong viết về vai trò cá nhân, rằng ông luôn đứng ở vị trí lịch sử để nhìn tất cả các vấn đề mà không bao giờ đứng ở vị trí tôn giáo. Ông còn đưa ra và giải thích cách hành văn trong quyển sách, chủ yếu dùng nhiều danh từ hơn động từ, nhằm diễn tả rõ, hết, các tư tưởng một cách bao quát, vững chắc (ý mới).

 

3- Phần I: Nhận định về thế giới

 

Từ giữa thế kỷ 20, về chính trị thế giới chia thành hai phe như đã mô tả ở trên, mỗi phe có cách lãnh đạo riêng.

 

Về văn hóa, thế giới lại chia ra 5 vùng. Một là vùng Âu – Mỹ, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy La. Hai là vùng Arập, Trung Đông, chịu ảnh hưởng của đạo Hồi. Ba là vùng Đông Á chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa cổ đại. Bốn là vùng Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Năm là vùng châu Phi.

 

Về khoa học kỹ thuật thì khác. Nền khoa học kỹ thuật và văn minh phương Tây đã chinh phục toàn bộ.

 

Tùng Phong đi đến nhận xét: “Vì vậy cho nên ngày nay trên thế giới vấn đề Tây phương hóa (TPH) là một vấn đề thiết yếu cho các quốc gia muốn tồn tại, mặc dầu TPH theo kiểu khối tự do hay TPH theo kiểu khối CS. Và đó cũng là vấn đề thiết yếu cho nước VN”.

 

Bình luận: Cách nhìn của Tùng Phong có phần đúng nhưng quá thiên lệch về khoa học kỹ thuật, khác với cách nhìn của sách “Tại sao các quốc gia thất bại”, cho rằng sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thể chế kinh tế và thể chế chính trị (ngưng bình luận).

 

Về CS: Tùng Phong nhận đình rằng, CS ở Tây phương, ở Nga Xô và ở châu Á là khác nhau. “Ở Tây phương, thuyết CS là một phương thuốc được đề nghị để chữa căn bệnh cho xã hội trong một giai đoạn phát triển cam go, về sau các nhà lãnh đạo của họ lại tìm được phương thuốc khác (và họ đã loại bỏ CS)… Nga Xô chỉ xem thuyết CS là một phương tiện và chỉ có giá trị là một phương tiện… Nhưng sang châu Á thuyết CS chỉ còn là một phương tiện để đánh kẻ xâm lăng và một phương hướng phát triển… Một số lãnh tụ CS châu Á hoàn toàn lầm lẫn khi họ say mê mà tôn thờ thuyết CS như là một chân lý… Mao Trạch Đông đã nhìn thấy rõ các điểm trên đây. Sự khác biệt giữa các phương pháp CS ở Nga và Tàu là một bằng cớ”.

 

                                                      ***

 

Biết thêm từ “Chính đề Việt Nam” (Phần 3)

Nguyễn Đình Cống 

01/01/2022

https://baotiengdan.com/2022/01/01/biet-them-tu-chinh-de-viet-nam-phan-3/

 

 

4- Phần II (A): Vị trí của VN trong khung cảnh thế giới trình bày ở phần trước

 

Tùng Phong đưa ra 4 điểm:

 

1- VN là nước nhỏ kém mở mang.

2- Theo truyền thống văn hóa, VN thuộc xã hội Đông Á.

3- VN thuộc khối các nước châu Á vừa thoát khỏi ách thực dân, đế quốc.

4- VN đang cần Tây phương hóa để bảo vệ độc lập, phát triển kinh tế, hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.

 

Về điểm 1: Là nước nhỏ kém mở mang nên lâm vào tình trạng: 1- Thiếu kỹ thuật, 2- Lợi tức quốc gia kém, 3- Mức sống nhân dân thấp, 4- Việc mưu sinh chiếm hết nhiều thời gian, 5- Sự sáng tác kém giá trị và không có đóng góp gì cho văn minh thế giới. Những điều này tạo nên vòng luẩn quẩn. Phải tìm cách phá bỏ vòng đó.

 

Về điểm 2: VN thuộc xã hội Đông Á. Vì lý do địa lý và lịch sử nên TPH sẽ gặp trở ngại. Phải nhận rằng TPH không làm mất bản chất dân tộc.

 

Về điểm 3: VN vừa thoát khỏi ách thực dân, đế quốc. Họ có hai loại. Đế quốc kiểu Anh nghĩ tới ngày trả lại độc lập cho bản xứ nên quan tâm đào tạo người thay thế. Đế quốc kiểu Pháp, Hà Lan, Bỉ không nghĩ như thế, không làm thế. VN đã phải chịu tai họa đó. Vì vậy sau khi giành độc lập, người Việt, trừ một số rất ít đã tự học hỏi để chế ngự ngành hoạt động của mình, còn số đông là những người mang nặng các khuyết điểm như kiến thức rời rạc, kém khả năng tổng hợp, tâm lý vô trách nhiệm, chỉ quen làm tay sai, quan liêu.

 

Vì bị làm thuộc địa, rồi đấu tranh giành độc lập nên VN lâm vào cảnh “Lãnh đạo quốc gia bị gián đoạn”. Khi lãnh đạo QG được liên tục do chuyển giao trong hòa bình thì mới có thể gìn giữ, nối tiếp những bí mật, những truyền thống tốt đẹp, rất cần để phát triển (ý mới). “Chế độ độc tài hay quân chủ chuyên chế hoàn toàn bất lực trong việc bảo đảm một sự lãnh đạo QG liên tục”.

 

Về vấn đề tình trạng bị gián đoạn hoặc liên tục của lãnh đạo quốc gia, Tùng Phong đã viết khá dài những nhận định chung, tình trạng của VN và của một số nước như Anh, Nga, và đặc biệt là Nhật, Thái Lan, Trung Quốc.

 

Khi thay đổi đường lối lãnh đạo quốc gia (chúng ta gọi là đổi mới tư duy), Tùng Phong cho rằng “Người lãnh đạo (LĐ) phải thay đổi tư tưởng hay là phải thay đổi người LĐ. Kinh nghiệm chỉ ra rằng không bao giờ người LĐ thay đổi tư tưởng trong lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ phải mất rất nhiều thì giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lý chính trị mà họ chủ trương… Vì vậy, cho nên yêu cầu một người LĐ thay đổi tư tưởng khi đang hành động là một việc không bao giờ thực hiện được… Như vậy chỉ còn cách là thay đổi người LĐ” – (Trùng ý).

 

Bình luận: Tôi cũng từng nghĩ như Tùng Phong, không thể yêu cầu người LĐ thay đổi tư tưởng. Với mỗi người “đổi mới tư duy” là do họ, sau khi tiếp nhận những tư tưởng mới, tự biết mình đang lạc hậu, tự mình thay đổi, chứ không ai thay đổi được họ. Với tổ chức thì “đổi mới tư duy” là dùng người có tư duy mới thay cho người có tư duy cũ, không nên tin vào lời nói của một số người rằng “Tôi xin hứa sẽ đổi mới tư duy”.

 

Tuy vậy, tôi cũng nhận thấy một số trường hợp rất đặc biệt là người LĐ, do một tác động đột xuất và mạnh mẽ nào đó mà “NGỘ” ra được những sai lầm của triết lý đang theo đuổi. Phải chăng ông Trường Chinh trước Đại hội 6 của Đảng CSVN là một thí dụ. Thế rồi Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã triệt hạ Trần Độ và Trần Xuân Bách. Phải chăng đất nước đang gặp vận Thiên Địa-Bỉ. (Ngưng bình luận).

 

Vì người LĐ quốc gia không thỏa mãn được những yêu cầu cấp thiết của cộng đồng nên đẩy xã hội đến tan rã. Đó là một trạng thái khắc nghiệt.

 

Về điểm 4: VN cần Tây phương hóa để phát triển dân tộc

Tùng Phong đã điểm qua sự TPH của Nhật, Nga. Về Ấn Độ, một thời gian Ghandi bài xích Tây phương, nhưng rồi họ cũng tiến hành TPH để phát triển.

 

Tùng Phong đi đến kết luận: “Công cuộc phát triển dân tộc chúng ta bằng cách TPH là một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy ra, dân tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai… Tất cả mọi người VN chúng ta đều phải quả quyết tin rằng chúng ta cần phải dốc hết nổ lực để thực hiện công cuộc phát triển dân tộc, bằng cách TPH xã hội chúng ta một cách toàn diện mà không do dự”. Tùng Phong còn cho rằng, TPH phải toàn diện vì TPH có giới hạn nhất định sẽ thất bại.

 

Bình luận: Kết luận như vậy có phần cực đoan, nhất là về hình thức. Khi nói “Tây Phương” thì ngụ ý nhiều đến con người hơn là địa lý. TPH có nghĩa là học và làm theo người Tây phương. Đức Phật có dạy “Y PHÁP BẤT Y NHÂN” có nghĩa là học theo PHÁP chứ không theo NGƯỜI. Cách nói “Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa” hơi dài mà cũng chưa bao quát, phải chăng gọi ngắn gọn là “Hiện đại hóa” là tạm ổn vì trong đó bao gồm nhiều lĩnh vực. Cho rằng không có lối thoát thứ hai và TPH có giới hạn nhất định sẽ thất bại cũng là vội vàng. Mà nhấn mạnh TPH thì còn phải tìm cách tháo gỡ đặc điểm của xã hội Đông Á, có nền văn hóa đặc thù – (Ngưng BL).

 

Tùng Phong có đưa ra những lập luận để chứng minh rằng, đã TPH thì phải toàn diện, ở mức đủ cao, tuy vậy những chứng minh đó chưa hoàn toàn chặt chẽ.

 

Tùng Phong đưa ra ví dụ về nước Nga, trước đây tuy Nga có TPH được phần nào về khoa học kỹ thuật nhưng không toàn diện nên may nhờ có dân đông mới trụ vững. Mãi sau này Nga mới hiểu được để TPH toàn diện, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Ông viết: “Nhiều người lầm tưởng rằng chỉ thu nhập được kỹ thuật mới của Tây phương là đủ bảo vệ nền văn minh cũ”. Không phải như vậy, mà: “Nếu chúng ta thâu nhập một kỹ thuật mới của Tây phương thì chúng ta phải thâu nhập toàn bộ kỹ thuật của họ”. Đầu tiên là khả năng sáng tạo kỹ thuật.

 

Tây phương hóa đến mức độ đủ cao là thiết yếu, nhưng vô cùng khó khăn, “nó đòi hỏi ở toàn dân những nỗ lực lớn lao và những hy sinh nặng nề”.

 

Về độc lập dân tộc: Đã có nhiều hy sinh để giành độc lập, nhưng theo Tùng Phong thì: “Độc lập không phải là mục đích cuối cùng mà chỉ là một điều kiện khẩn thiết… để có thể phát triển được dân tộc” – (ý trùng). Mà phát triển dân tộc không gì hơn là TPH. Ông nhận xét rằng, một số dân Việt tập hợp lại dưới cờ Cộng sản chính là vì độc lập dân tộc và đặt câu hỏi: “Khi bước sang giai đoạn phát triển dân tộc, sự quy tụ dưới cờ CS có phải là một hành động lợi ích cho dân tộc không?”

 

Bình luận: ĐCSVN lãnh đạo toàn dân đấu tranh để được độc lập và thống nhất phải chăng là để đem học thuyết của họ áp đặt lên toàn bộ dân tộc, việc họ nói vì tự do và hạnh phúc của nhân dân chỉ là để tuyên truyền – (Ngưng bình luận).

 

Tùng Phong nêu vấn đề: “Nếu chúng ta phải thực hiện cuộc TPH toàn diện và đến mức độ cao thì liệu bản chất dân tộc chúng ta có tồn tại nữa không? Và nếu sau cuộc TPH mà bản chất dân tộc bị mất thì nó có đáng để chúng ta theo đuổi… và như vậy thì chúng ta TPH để bảo vệ cái gì?”

 

Nêu ra như thế rồi, ông lần lượt chứng minh là TPH chủ động không thể làm mất bản sắc dân tộc. Còn nếu bị ép buộc TPH thì có thể mất cả bản sắc dân tộc mà có nguy cơ mất cả độc lập.

 

                                                        ***

 

Biết thêm từ “Chính đề Việt Nam” (Phần 4)

Nguyễn Đình Cống

02/01/2022

https://baotiengdan.com/2022/01/02/biet-them-tu-chinh-de-viet-nam-phan-4/

 

5- Phần II (B): Một ví dụ lịch sử

 

Ngày xưa các nước nằm trong đế quốc La Mã đều bị La Mã hóa trên mọi lĩnh vực, trừ tôn giáo và những phần văn hóa sáng tạo. Ngày nay các dân tộc ở châu Âu đều sống trong một nền văn minh kỹ thuật chung nhưng tất cả sáng tạo trong mọi ngành của mỗi dân tộc đều khác, văn hóa Nga Xô vẫn mang tính dân tộc Nga. Sau hơn một trăm năm TPH dân tộc Nhật vẫn giữ nguyên văn hóa của họ.

 

Để làm chủ được TPH phải chế ngự được khả năng sáng tạo, nó bắt nguồn từ nền văn minh với hai trụ cột cơ bản là chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Tùng Phong đề lên rất cao hoạt động của lý trí, nó được khởi sắc từ thời kỳ Phục Hưng. Phải dựa trên lý trí mới có thể suy luận chính xác. Ông phê phán các suy nghĩ của người phương Đông có phần dựa vào trực giác nên dễ bị mơ hồ.

 

Chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức không phải chỉ trong khoa học kỹ thuật mà phải là từ mọi việc nhỏ nhặt của đời sống. TPH không phải chỉ của một nhóm người mà phải là của toàn dân tộc, do đó phải chú ý đến nông thôn, dồn vào đó sức lực cần thiết.

 

Mục đích của TPH là để phát triển dân tộc. Tôn giáo ảnh hưởng lớn đến phát triển dân tộc nhưng không ảnh hưởng đến TPH.

 

Tùng Phong viết: “Ít hay nhiều, công cuộc phát triển dân tộc sẽ diễn ra trong không khí khổ hạnh cho mọi người… Trong trường hợp như vậy cố nhiên là tín đồ của các giáo lý, thuộc loại thứ nhất, sẵn sàng tham gia một công cuộc phát triển dân tộc”. Ông đã dẫn ra và phân tích những trường hợp khác nhau của nước Nhật, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Hoa để nói lên những thuận lợi và khó khăn giữa tôn giáo và TPH.

 

6- Phần II (C): Phát triển dân tộc và tôn giáo ở VN

 

Việt Nam chịu ảnh hưởng của Trung Hoa với Tam Giáo: Nho, Lão, Phật. Đạo Phật tuy có quan tâm đến “Nhập Thế” nhằm giúp chúng sinh, nhưng chủ yếu là “Xuất Thế” để tìm sự cứu rỗi cho bản thân. Tùng Phong cho rằng: “Nhưng rồi thiểu số tín đồ Thiên Chúa Giáo sẽ đóng góp một tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc”.

 

Tùng Phong nêu ra hai cơ hội phát triển dân tộc (và đã dài dòng thuyết minh thế nào là cơ hội và điều kiện).

 

Cơ hội thứ nhất là vào khoảng những năm 30 thế kỷ 19, lúc mà giữa các cường quốc Phương tây có mâu thuẫn lớn. Nhật Bản lợi dụng được cơ hội này, còn VN, vì các lãnh đạo đất nước tự xem là thuộc quốc của Trung Hoa nên đã bỏ lỡ và đẩy dân tộc vào đường nô lệ.

 

Cơ hội thứ hai là sau sự xuất hiện của Nga Xô theo chủ nghĩa Mác. Ban đầu Mác cũng hấp dẫn được các đảng CS châu Âu, họ tưởng rằng CS là một phương thuốc chữa được căn bệnh xã hội. Nhưng rồi nhiều nước châu Âu tìm ra phương thuốc khác, hữu hiệu hơn. Cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa Nga Xô và phương Tây tác động đến các nước thuộc địa. Nga giúp họ đấu tranh còn phương Tây tìm cách trả độc lập cho họ và giúp họ phát triển. Ấn Độ đã không theo Nga. Trung Quốc, tuy bề ngoài là CS nhưng có phần chống lại Nga. Việt Nam đã không lợi dụng được mâu thuẫn giữa Nga và Tây phương để phát triển mà lại lọt vào vòng mâu thuẫn đó.

 

Tùng Phong cho rằng, lãnh đạo Nga Xô (và kể cả Mao Trạch Đông) chỉ xem lý thuyết CS như là một lợi khí để chiến đấu với Tây phương. Ông dẫn câu của Mao: “Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết của Các Mác không phải vì nó tốt đẹp gì, cũng không phải nó chứa đựng một phép thần diệu để trừ ma quỷ. Nó không đẹp, cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi” – (ý mới). Thế mà lãnh đạo CS Bắc Việt lại tôn lên thành giáo lý, họ say mê thuyết CS, cho rằng nó là chân lý tuyệt đối (trùng ý).

 

Tùng Phong nhận xét: “Đưa một phương tiện chiến đấu của người ta làm chân lý của mình là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bậc đối với các lãnh tụ CS quốc tế và tự biến mình thành nô lệ tri thức cho người sử dụng. Vì vậy cho nên trong những hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc lý thuyết CS được để lên trên quyền lợi của dân tộc… Do các lý lẽ trên đây có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phương Bắc vẫn chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa dân tộc, và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục”.

 

Và rồi cơ hội thứ hai cũng sẽ bị bỏ qua.

 

Bình luận: Kết thúc đại chiến 2 là một cơ hội lớn. Hồ Chí Minh và Việt Minh đã lợi dụng được cơ hội này, nhưng chủ yếu là để giành chính quyền cho CS chứ không phải vì lợi ích cho sự phát triển lâu dài của dân tộc. Liên Xô sụp đổ cũng là một cơ hội, nhưng Trần Độ, Trần Xuân Bách, những người muốn từ bỏ CS đã bị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười nhanh chóng loại bỏ. Phải chăng số mệnh của dân tộc xui ra như thế, vận nước còn trong thời bỉ cực.

 

7- Phần II (D): Chỉnh đốn nội bộ

 

Đó là nội bộ của hai bên kình địch nhau là phương Tây và Nga Xô. Với phương Tây, họ phát hiện ra rằng mâu thuẫn giữa các nước làm họ bị suy yếu trong việc chống CS, vì thế họ đã tìm cách thỏa hiệp để tạo ra Liên minh châu Âu. Nga Xô phải đồng thời xử lý hai mối quan hệ, với Tây phương và với các nước theo CS. Dân chúng càng ngày càng tỏ ra thích Tây phương, lãnh đạo đề ra đường lối “Chung sống hòa bình” để ve vãn.

 

Bình luận: Vào năm 1962 Tùng Phong chưa có được dự đoán việc Liên Xô sẽ tan rã, chỉ mãi sau này Brzezinski mới dự đoán được chuyện đó.

 

8- Phần III (A): Điều kiện nội bộ

 

Phần này trình bày về nội bộ của Việt Nam và quan hệ với các nước Đông Á.

 

Với Trung Quốc và các nước, Tùng Phong nhận định (trích từng đoạn ghép lại): “Suốt gần một ngàn năm lịch sử, Trung Hoa lúc nào cũng muốn xâm chiếm VN, lấy lại phần đất mà họ coi như bị tạm mất… Ngay bây giờ ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải toàn bộ VN thì ít ra cũng là Bắc phần… Họa xâm lăng đe dọa chúng ta đến nỗi, trong suốt ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi tâm lý thuộc quốc… Vì vậy cho nên chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của VN… Để chống xâm lăng chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả, về phương diện hữu hiệu và chủ động là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt… Đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện bảo vệ Quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của nó là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một cái máy hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển, dễ đặt để và dễ sử dụng. Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn bản của Quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền… Một chính thể chuyên chế hay độc tài là một lợi khí cho kẻ ngọai xâm”.

 

Bình luận: Nhiều người Việt rất lo ngại hiểm họa bị Trung Cộng xâm chiếm. Tùng Phong thấy rõ hiểm họa đó và nhiều lần viết trong sách này. Thế nhưng nhiều lãnh đạo CS không thấy mà còn đàn áp những người con ưu tú của dân tộc khi thể hiện thái độ chống dã tâm của Trung Cộng. Về chuyên chế và độc tài, ông phản đối nó, nhưng có nhiều thông tin cho rằng chính thể của ông là “gia đình trị”, chuyên chế, độc tài. Không biết sự thật đến đâu. Về tự do, ông quan tâm đến tự do của nhân dân, tự do cho mọi người. Hồ Chí Minh nói “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhưng chủ yếu là cho Quốc gia. Mà tự do cho Quốc gia phải chăng là tự do cho những người lãnh đạo. Câu “Một chính thể chuyên chế hay độc tài là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm” là một ý mới (ngưng bình luận).

 

VN có lịch sử Nam tiến, ngoài ý đồ mở mang bờ cõi thì cũng vì áp lực của Trung Hoa. Tùng Phong viết: “Nếu, đối với Trung Hoa chúng ta là thuộc quốc thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc….” Rồi ông kể lại tương đối chi tiết các giai đoạn của việc Nam tiến và kể ra các hậu quả (mà nhiều người đã biết).





No comments:

Post a Comment

View My Stats