Sunday 7 February 2021

THUYỀN CHIẾN TRIỀU NGUYỄN QUA MÔ TẢ TRONG SÁCH HẢI QUỐC ĐỒ CHÍ (Phạm Hoàng Quân)

 


THUYỀN CHIẾN TRIỀU NGUYỄN QUA MÔ TẢ TRONG SÁCH HẢI QUỐC ĐỒ CHÍ    

Phạm Hoàng Quân 

03/02/2021

https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/thuyen-chien-trieu-nguyen-qua-mo-ta-trong-sach-hai-quoc-do-chi

 

THUYỀN CHIẾN TRIỀU NGUYỄN QUA VÀI TƯ LIỆU XƯA (1)

 

THUYỀN CHIẾN TRIỀU NGUYỄN
QUA MÔ TẢ TRONG SÁCH 
HẢI QUỐC ĐỒ CHÍ

 

Phạm Hoàng Quân

                                                                                               

   

Tên sách Hải quốc đồ chí (của Trung Quốc) khá quen thuộc đối với học giới Việt Nam qua một địa đồ vẽ vùng biển Đông Nam Á được trích dẫn nhiều lần trong những bài viết về lịch sử địa lý Biển Đông. Trong bộ sách gồm 100 quyển này, ngoài bức địa đồ “Sự thay đổi địa danh các nước Đông Nam Dương” in ở quyển 3, còn nhiều ghi chép liên quan đến lịch sử địa lý Việt Nam nằm rải rác ở một số quyển khác, và khá đặc biệt là đã lưu giữ một tài liệu lược tả về mô hình thuyền chiến thời Minh Mạng. Mảng tư liệu này có thể bổ túc phần nào cho các nghiên cứu về lịch sử tàu thuyền Việt Nam, một đề tài đang thiếu hụt loại tư liệu mô tả cụ thể về kết cấu, về quy cách hay những đồ hình tổng thể hoặc các bộ phận tàu thuyền mà chúng vốn là những yếu tố kỹ thuật quan trọng không chỉ trong nghiên cứu lịch sử lý thuyết mà còn rất quan trọng trong việc phục dựng mô hình trực quan.

 

I. Tóm lược về tác giả, tác phẩm, ấn bản Hải quốc đồ chí.

 

Ngụy Nguyên (魏源, 1794-1857), người huyn Thiu Dương tnh H Nam, còn có tên Vin Đạt (遠達), t Mc Thâm (默深). Tiến sĩ triu Đạo Quang, tng nhm Ni các Trung thư, ri nhn li mi ca Tun ph Giang Tô lo vic quy hoch, đốc sut thi công h thng thy li và vn ti đường sông. Sau Chiến tranh nha phiến (1840), Ngụy Nguyên nhận ủy thác của Tổng đốc Lưỡng Quảng Lâm Tắc Từ, thu thập tài liệu trong và ngoài nước, kết tập thành sách Hải quốc đồ chí. Ngoài Hải quốc đồ chí, tác phẩm tiêu biểu của Ngụy Nguyên có Hoàng triều kinh thế văn biên (1826, cùng Hạ Trường Linh), Thánh võ ký (1842), Cổ Vi Đường tập (1878),  Nguyên sử tân biên (1905).

 

Hải quốc đồ chí (海國圖志) có 3 bn in, bn in ln đầu 50 quyn vào năm 1842, ln hai 60 quyn (1847) và ln ba 100 quyn (1852), ni dung chính viết về lịch sử, địa lý, chính trị các nước trên thế giới và khoa học kỹ thuật hải quân phương Tây. Khoảng năm 1838, Khâm sai đại thần kiêm Tiết chế Thủy sư Quảng Đông Lâm Tắc Từ – người chủ xướng “ học kỹ thuật phương Tây để đối phó phương Tây ” (sư Di chi trường kỹ dĩ chế Di / 師夷之長技以制夷) tp hp mt s trí thc tiến b Qung Đông biên dch bộ Encyclopædia of Geography, a Description of the Earth, physical, statistical, civil, and political (London, 1834) của tác giả người Anh Hugh Murray, bản dịch được đặt tên tiếng Trung Hoa là Tứ Châu chí (四洲志) (Ghi chép v Bn châu) 1. Tháng 3 năm 1839, Lâm thực hiện chiến dịch tiêu hủy nha phiến ở Quảng Châu, tháng Giêng năm 1840 nhậm Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhưng do áp lực của phe chủ hòa, đến tháng 10 thì bị cách chức. Năm 1841, trước khi phải thuyên chuyển về phía bắc, Lâm Tắc Từ đã giao bản thảo Tứ Châu chí cho Ngụy Nguyên, với mục đích tăng bổ soạn tập lại để nó thành bộ sách có thể đánh động dư luận, cảnh báo nguy cơ mất nước do tình trạng ngu muội và sáo rỗng của phần lớn quan lại và trí thức đương thời. Trên cơ sở bản dịch sơ thảo Tứ châu chí, Ngụy Nguyên kết tập thêm và tăng bổ rất nhiều, làm thành bộ Hải quốc đồ chí.

 

Nội dung của 3 bản in (qua 3 lần in) Hải quốc đồ chí tóm tắt như sau :

 

       * Hải quốc đồ chí 50 quyển (1842), Quyển 1 là phần “ Trù hải thiên – Nghị thủ ” (Kế sách phòng vệ biển — Luận về phòng thủ) do Ngụy Nguyên soạn. Quyển 2 là phần bản đồ, gồm : bản đồ thế giới, bản đồ các khu vực, bản đồ bờ biển Trung Hoa, bản đồ một số nước (trong đó có An Nam đồ), trong đó, các bản đồ thế giới và khu vực thì sao chép của phương Tây, giữ y hình trạng địa lý và kinh vĩ độ, dịch địa danh Tây sang chữ Hán. Các quyển còn lại về cơ bản là nội dung Tứ Châu chí, phân chép về các nước, những quyển viết về mấy nước Đông Nam Á, Đông Bắc Á thì phối hợp sử liệu Trung Hoa với tư liệu dịch, còn những quyển khác thì chủ yếu là dịch. Tình hình các nước được chép bao quát các mặt : địa lý, lịch sử, chính trị, xã hội, phong tục, khoa học kỹ thuật. Nói thêm, cũng theo cách phiên dịch sách Tây để tìm hiểu bên ngoài, năm 1844, Tuần phủ Phước Kiến Từ Kế Dư làm xong bản sơ thảo Doanh hoàn khảo lược. 2

 

    * Hải quốc đồ chí 60 quyển (1847), trên cơ sở bản in 1842, tăng thêm các phần viết về kỹ thuật tàu chiến phương Tây, sưu tập một số tấu sớ kiến nghị đóng tàu chiến mô phỏng theo kiểu tàu chiến phương Tây. Nói thêm, năm 1847, Từ Kế Dư bổ sung hoàn thiện Doanh hoàn khảo lược, làm thành bộ Doanh hoàn chí lược 10 quyển, năm 1848 khắc in.

 

    * Hải quốc đồ chí 100 quyển (1852), trên cơ sở bản 60 quyển, ở đầu sách tăng thêm 1 quyển “ Trù hải thiên ” (xếp thành quyển 1-quyển 2), trước đây chỉ Nghị thủ, nay thêm phần Nghị chiến (Luận về giao chiến) và Nghị khoản (Luận về hòa hoãn) ; kế đến là tăng thêm số lượng bản đồ các nước (xếp thành quyển 3-quyển 4) ; còn mấy chục quyển sau là tăng thêm các phần : các tôn giáo trên thế giới, sưu tập các bài viết bàn về địa thế Trung Hoa, sưu tập các bài viết về kế sách phòng vệ biển (Trù hải tổng luận), cập nhật thông tin về tình hình các nước phương Tây, dịch nhiều sách về kỹ thuật chế tạo súng máy, đại bác, thuốc súng, bom mìn, thủy lôi, thuyền máy hơi nước, cách xây dựng pháo đài của phương Tây… (đa số có kèm đồ hình), lịch pháp và thiên văn học phương Tây. Ngoài việc thêm mới 40 quyển, thì trong nhiều quyển đã viết trước cũng bổ sung thêm thông tin khác, từ sử liệu Trung Hoa và tin tức Trung-Tây đương thời, nối theo ở cuối quyển.

 

    Nhìn chung, Hải quốc đồ chí được thực hiện trên tinh thần muốn nắm rõ tình hình bên ngoài Trung Hoa, chú trọng về địa lý và khoa học kỹ thuật. Trong lãnh vực khoa học kỹ thuật thì mục tiêu chính là tập trung vào kỹ thuật quân sự mà chủ yếu là hải quân.

 

    Bản Hải quốc đồ chí 100 quyển sau lần in đầu (1852) lại được khắc in nhiều lần ở Trung Quốc, bản in đầu cùng với Doanh hoàn chí lược du nhập Nhật Bản vào năm 1853 và có ảnh hưởng rất lớn đối với chính giới và học giới nước này (tại Nhật Bản sau cũng khắc in lại). Phần chúng tôi đề cập trong bài khảo sát này là bài viết “ An Nam chiến thuyền thuyết ” (thuộc quyển 84) chỉ có trong bản 100 quyển. Bài viết và bản dịch “ An Nam chiến thuyền thuyết ” căn cứ theo bản Cổ Vi Đường khắc in năm Hàm Phong nhâm tý (1852), được ảnh ấn trong cuốn 47 của bộ tùng thư Trung Quốc binh thư tập thành do Giải Phóng Quân xuất bản xã và Liêu Thẩm Thư Xã liên kết xuất bản năm 1992 [gọi tắt là bản Cổ Vi Đường 1852] ; cũng đối chiếu với bản có Lời Tựa của Tả Tông Đường đề năm ất hợi 1875, do Ngụy Quang Thọ (cháu nội Ngụy Nguyên) in lại năm Quang Tự thứ hai (1876) tại đạo Bình Khánh tỉnh Cam Túc, bản này hiện lưu tại Thư viện Đại học Waseda, KH: 1. 3176 [gi tt là bn Cam Túc 1876].

 

XEM TIẾP >>>>  

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats