Monday 12 November 2018

TRAO ĐỔI VỀ BÀI "HÃY CỨU THIÊN NHIÊN" (Nguyễn Đình Cống)




Nguyễn Đình Cống
11/11/2018

Ngày 10/11 trang Bauxite đăng bài “Hãy cứu lấy thiên nhiên Việt Nam!” của Mai An Nguyễn Anh Tuấn (NAT).

Bài báo mở đầu và kết thúc bằng tiếng kêu xé lòng: “Hãy cứu lấy Tài nguyên Thiên nhiên của Đất Nước chúng ta đang bị tận diệt”. Đó là tiếng kêu thống thiết của những trái tim và khối óc như bị lửa đốt, dao đâm trước thảm cảnh một phần đất nước đang bị hủy hoại. Tôi xin chân thành chia sẻ tấm lòng vì quê hương của tác giả, xin tỏ lòng cảm phục vì sự hiểu biết, sự dẫn giải và phân tích tình hình khá toàn diện trên thế giới và trong nước. Chỉ xin trao đổi về 3 vấn đề: cách thể hiện, nguyên nhân và biện pháp.

Về thể hiện. Nội dung phong phú là tốt, nhưng bài quá dài. Tôi nghĩ chỉ nên viết dài, trình bày nhận thức đa chiều, lập luận chính xác khi thể hiện kết quả nghiên cứu, nhằm mục tiêu học thuật. Còn những bài có tính thời sự cao nên viết ngắn, thật súc tích, đặc biệt đối với báo mạng. Tâm lý của nhiều người là ngại đọc bài quá dài. Nó dễ làm lẫn lộn các nội dung cơ bản với chi tiết minh họa.

Về nguyên nhân. Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản là sự vô cảm và ích kỷ, chỉ biết lợi mình mà xem thường việc hại người và để lại di họa cho con cháu.

Riêng ở nước ta, NAT viết: “Ở VN, sự trì trệ, bảo thủ, tầm nhìn hẹp, yếu kém về chuyên môn, cộng với tình trạng tham nhũng khoa học đã khiến Sự nghiệp Môi trường trở nên lạc hậu so với thế giới hàng thập kỷ, và là căn nguyên của một hệ thống chính sách sai lầm về các vấn đề Môi trường. Điều đó dẫn tới hệ quả là môi trường ô nhiễm tràn lan khủng khiếp chưa từng thấy, Tài nguyên (tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người) bị khai thác bừa bãi phung phí khiến những ai có lương tri và hiểu biết đều phải đau xót đến đứt ruột. Vấn đề Môi trường và Thiên nhiên bị tận diệt cũng đã nóng lên trong các phiên họp Quốc hội…”

Trình bày như trên không có gì sai nhưng chưa chính xác, chưa chỉ ra được sai lầm nghiêm trọng của lãnh đạo trong kế hoạch phát triển đất nước. Sau 1975 VN rơi vào thảm cảnh đói kém, kiệt quệ. Nguyên nhân một phần ít do chiến tranh, phần lớn do sai lầm trong đường lối. Đó là hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo tư sản, cấm chợ ngăn sông v.v… Để sửa sai, lãnh đạo đã nhảy từ thái cực cấm đoán sang thái cực phát triển kinh tế bằng bất cứ giá nào. Tuy rằng có đề ra phương châm “Phát triển ổn định”, nhưng thực tế lại vô cùng nóng vội, quá chạy theo sản phẩm vật chất, quá quan tâm làm giàu cá nhân và nhóm lợi ích, quá chạy theo hình thức về chỉ số tăng trưởng GDP v.v… mà làm xuống cấp đạo đức, gây nhiều oan trái, phá nát môi trường.

Phải chăng sự phát triển như thế là vì hạnh phúc của nhân dân? Đúng là đời sống vật chất của đa số nhân dân được cải thiện (trừ số dân oan), nhưng hạnh phúc thật sự thì không đáng kể. Điều mà lãnh đạo hết sức quan tâm là giữ chế độ độc tài toàn trị, giữ được lợi ích nhóm. NAT chỉ ra: “Ở VN, sự trì trệ, bảo thủ, tầm nhìn hẹp, yếu kém về chuyên môn…” Hỏi rằng ai trì trệ, ai bảo thủ…, vì sao trì trệ và bảo thủ đề làm gì? Phải chăng toàn dân VN, phải chăng trí thức tinh hoa của VN trì trệ, bảo thủ. Không phải.

Cần chỉ rõ ra rằng, trì trệ, bảo thủ là bản chất của lãnh đạo CS. Họ trì trệ vì kém trí tuệ, họ bảo thủ nhằm thực hiện chủ thuyết Mác Lê đã lỗi thời. Không những họ trì trệ, bảo thủ mà còn tìm mọi cách hủy diệt tinh hoa nếu có gì đó trái ý họ. VN đã từng có nhà khoa học lớn bị hành hạ cho đến chết ở trong tù, đó là TS Nguyễn Duy Xuân (thầy của GS Võ Tòng Xuân), là LS Nguyễn Mạnh Tường bị biến từ nhà trí thức lớn thành kẻ ăn mày, là Nguyễn Hữu Đang, một trí thức và nhà cách mạng tiền bối bị hủy hoại gần suốt cuộc đời trong tù ngục v.v… Đó là những kiến nghị, những phản bác về khai thác Bôxit, về Formosa, về nhiệt điện than v.v… bị vứt ngay vào sọt rác và những trí thức đưa ra các kiến nghị như vậy bị quy là thế lực thù địch, phản động.

Trực tiếp gây ô nhiễm, phá nát môi trường là một số cá nhân và tập đoàn, nhưng ai bảo kê, dung túng cho chúng nó, tại sao chính quyền bất lực. Phải chăng lực lượng vô cùng hùng hậu của công an, cảnh sát chỉ lo bảo vệ Đảng và chế độ và góp phần bảo vệ cho bọn phá hoại môi trường. Tôi cho rằng bọn trực tiếp phá môi trường là nguy hiểm, là kẻ thù nội xâm, nhưng bọn dung túng, hỗ trợ cho chúng nó nằm trong chính quyền và lãnh đạo còn nguy hiểm hơn, tội ác nặng hơn. Những tên đã lộ mặt, đã trốn tránh như Võ Kim Cự. Còn biết bao tên khác cần bị vạch mặt chỉ tên, bị xét xử và trừng phạt.

Về biện pháp. NAT có dẫn ra một số công trình của GS Đặng Huy Huỳnh, của TS Nguyễn Đắc Huy, các hoạt động của tổ chức Mơ Mộng, các cuộc thi Chúng em bảo vệ thiên nhiên, Trẻ em vì môi trường và nhiều hoạt động rời rạc khác rồi nhận xét: “xu thế xây dựng nền văn hóa bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường đã bắt đầu trở thành một nhu cầu tự bên trong, có tính cấp thiết của xã hội.”
Những điều NAT nêu ra đều có tác dụng tốt, nhưng chưa chỉ ra được nhiệm vụ cốt lõi. Vấn đề môi trường là cấp thiết của xã hội, quá đúng, nhưng liệu đối với lãnh đạo, đối với chính quyền có cấp thiết không? Họ phải làm gì? Phải chăng là ra vài nghị quyết rồi để đó, phải chăng phát hiện vài vụ, phạt vài chục triệu rồi cho qua, phải chăng tuyển thêm biên chế để lo về môi trường… Đó chỉ là một số biện pháp “gãi ngứa”. Cần dùng biện pháp mạnh từ phía chính quyền. Nhưng than ôi, chính quyền chỉ nói mồm chứ thật tâm chưa muốn, chưa thể, chưa dám dùng biện pháp mạnh. Còn phải đem toàn lực, toàn tâm, toàn trí để chổng đỡ chế độ toàn trị nằm bên bờ vực sụp đổ.

Tiếng kêu của Nguyễn Anh Tuấn “Hãy cứu lấy thiên nhiên Việt Nam”, tuy là tiếng kêu xé lòng, nhưng cũng chỉ mới của một số người. Phải tích lũy từng tiếng kêu như thế để trở thành tiếng thét, thành sức mạnh tinh thần của toàn dân mới mong cứu được đất nước thoát cảnh tàn phá.

--------------------------

Mai An Nguyễn Anh Tuấn 
10/11/2018

Mai An Nguyễn Anh Tuấn 
(Nhà báo, Đạo diễn điện ảnh)

Một trong những mục đích chính và cấp thiết của tất cả người Việt Nam lúc này là: Hãy cứu lấy tài nguyên Thiên Nhiên của Đất Nước chúng ta đang có nguy cơ bị tận diệt!

Sự hòa hợp giữa Con người và Thiên nhiên là yếu tố cơ bản cho sự sinh tồn của chúng ta (1)
(Aurelio Peccei và Daisaku Ikeda)

1.
 Văn hào Nga Lev Tolstoi trong luận văn “Về cuộc sống,” đã trích làm đề từ một luận điểm của triết gia Kant nói rằng: một trong hai điều luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta bằng niềm ngạc nhiên và ngưỡng mộ luôn mới mẻ và ngày càng gia tăng, “bắt đầu từ điểm mà tôi đang chiếm giữ trong thế giới cảm tính bên ngoài”(2). Cái điều đó là gì, nếu như trước hết không phải là Thiên nhiên? Tolstoi đã xác quyết rõ rệt: “cuộc sống chân chính là đạt tới cái chân phúc không phụ thuộc vào mọi chuyển động hữu hình trong không gian và thời gian bằng sự quy phục trí tuệ” (3). Chân phúc, tức hạnh phúc đích thực và chân chính như vậy, theo văn hào, chỉ có thể đạt tới bằng vận dụng trí tuệ vào việc “quy phục, tuân thủ “ những quy luật của thiên nhiên. Bởi nếu không làm như thế, theo Tolstoi, “Tất cả những hoạt động sôi động phức tạp của con người với thương mại, chiến tranh, với phương tiện truyền thông, khoa học, nghệ thuật của họ phần lớn chỉ là cảnh chen lấn của một đám đông điên rồ bên cánh cửa của cuộc sống.”(4)

Tôi đã nhớ lại những điều mà L.Tolstoi nói đến từ những năm 70 của thế kỷ XIX, khi nhục nhã và đau đớn trước cảnh tượng hùng hổ tranh cướp ấn, hay cảnh hỗn loạn chen lấn của đám đông ở một số đình, chùa, giữa rác rưởi ô uế, giữa những con thú rừng bị thui đang há mõm như than khóc cho sự tận diệt thiên nhiên ở mức báo động Đỏ! Còn đâu một mẩu nào của ánh sáng trí tuệ như L. Tolstoi đòi hỏi ở một “đám đông điên rồ” đang góp phần làm thiên nhiên tan hoang tơi tả kia, để có thể rung động nổi với cảnh Bụt cần có và đã từng có: “Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái/ Ngẩn ngơ khe suối cá nghe kinh” (Chu Mạnh Trinh)?

Mấy năm qua, cứ mỗi lần biết được một sự tàn phá thiên nhiên tại VN, tôi tin rằng rất nhiều người cũng như tôi, đều tựa bị dao đâm, lửa đốt. Vì đâu nên nỗi? Thiên nhiên là một trong những Ngôi Đền thiêng liêng nhất của nhân loại từ xửa xưa, và của mỗi người dân Việt từ thưở ấu thơ, sao giờ lại là đối tượng bị tàn sát, bị truy đuổi một cách man rợ đến vậy ngay trên mảnh đất chữ S? Thù ghét thiên nhiên thì làm sao yêu được con người? Còn khi dửng dưng trước thân phận, nỗi đau của người khác thì thiên nhiên cũng sẽ chỉ là thứ xa lạ, bị ruồng bỏ, hoặc chỉ để lợi dụng nó. Rừng đặc dụng, rừng phòng hộ bị xẻ thịt không thương tiếc bởi không ít quan chức và văn nghệ sĩ có tên tuổi để phục vụ cho hưởng thụ cá nhân! Trong hệ thống giáo dục của ta – từ bậc tiểu học tới đại học, Thiên nhiên đã được dạy dỗ ra sao, để tới nay, số người hiểu biết thực sự về nó và bênh vực bảo vệ nó một cách hiệu quả còn quá ít ỏi, để lấn át đến nhức óc là những khẩu hiệu trơ trẽn hoặc những hoạt động với mục đích giải ngân về “Bảo vệ Thiên nhiên”! Tài nguyên Thiên nhiên với Môi trường có mối quan hệ thế nào, tầm quan trọng của Thiên nhiên đối với sức khỏe, y tế, đời sống dân sinh, văn hóa, kinh tế, giáo dục, v.v, ra sao, nhiều thầy cô giáo chưa có điều kiện hiểu rõ, và thậm chí nhiều quan chức các Bộ có liên quan mật thiết tới những vấn đề này chắc cũng ngắc ngứ… Tài nguyên Thiên nhiên VN đã/ đang bị tàn sát, bị đầu độc, dẫn tới biết bao bi kịch đau lòng chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Mỗi người Việt cần làm gì để cứu lấy tài nguyên Thiên nhiên VN?

2.
Cố GS Trần Văn Giàu đã dẫn ra 7 giá trị bản sắc văn hóa Việt Nam: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa(5). Xin được mạn phép bổ sung một bản sắc: lòng yêu thiên nhiên; nó là cái gốc của các giá trị, và thậm chí, là kết quả sau cùng, tinh hoa của các giá trị nói trên. Bởi, Thiên nhiên được phản ánh trong tâm lý & tập quán người VN từ ngàn xưa, xét cho cùng, cũng là một thành tố hữu cơ của bản sắc dân tộc. Nói bản sắc dân tộc Việt Nam tức là nói tới những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, sẽ tạo ra những giá trị văn hóa (Cultural value), hoặc là bản sắc văn hóa. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã từng đưa ra luận điểm độc đáo: “Văn hóa bốn F” để khái quát về văn hóa Việt Nam từ hàng ngàn năm qua (Fatherland, Family, Fate, Face – Tổ quốc, Gia đình, Thân phận, Diện mạo), và ông đã kể lại sự ngạc nhiên của nhiều học giả Pháp về mô hình làng xã kiểu Đông Nam Á mang đặc thù “văn hóa bốn F” đó gợi nhắc đến Thành bang cổ đại của Hy Lạp(6) – trong đó, sự bảo vệ thiên nhiên như một yếu tố hàng đầu, bởi lẽ chính con người VN vốn “thương người như thể thương thân” và đùm bọc lẫn nhau trong hoạn nạn cũng được công xã làng mạc và các lũy tre làng che chở. Đó là thứ văn hóa của những người yêu thiên nhiên tha thiết, đã dùng nhân nghĩa để đối xử tử tế với những kẻ thù đã đầu hàng : “Ai yêu như Người, cái lẽ hiếu sinh/ Một giọt nắng thanh bình/ Trên đầu ngọn lúa?” (Gửi Ức Trai – Lưu Trọng Lư). Và khi ông cha ta trông mong vào các lực lượng tự nhiên để bảo vệ cho mình trong cuộc sống nông nghiệp tự cung tự cấp, trong khi làm bạn với thiên nhiên và coi “người ta là hoa đất”, thiên nhiên cũng được tôn thờ, được thần thánh hóa (Như: Con cóc là cậu ông Trời…). Cái gốc của văn hoá Việt Nam là đạo Mẫu – thờ Mẹ xuất phát từ xa xưa, từ thời huyền thoại Âu Cơ và chảy mãi cho đến tận ngày hôm nay, nó có sức sống lâu bền ở chính nền tảng nông nghiệp lúa nước. Gắn với nền kinh tế lúa nước ấy, người phụ nữ đã trở thành biểu tượng của sự cần cù, hy sinh, chịu thương chịu khó, của sự cầu may hạnh phúc no đủ, và thiên nhiên trở thành người Mẹ bao trùm, lúc ẩn sâu lúc hiển hiện trong Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn, Mẫu Thoải… Danh nhân Nguyễn Văn Siêu trước cảnh vật Hồ Tây thời chưa bị ô nhiễm đã thốt lên: “Ôi, muôn vật trong trời đất, cái lớn nhất là con người, là sông núi, con người đã mất thì sông núi lại còn sao được! Chỉ có cái khí của trời đất, tích tụ chuyển vận bên trong, hun đúc nên con người. Con người được cái khí của sông núi mà thành; sông núi lại được cái khí của con người mà thể hiện ra, hợp thành cái khí bất diệt”(7).

Hầu như người Việt Nam nào cũng có một quê hương thi vị của tuổi ấu thơ in hằn trong tâm tưởng, xin đọc những dòng đẹp như thơ viết về thiên nhiên làng quê Bắc Bộ của cố GS địa lý học Lê Bá Thảo: “Từ thuở nhỏ, ai mà chẳng được sống trong lời ru của bà, của mẹ, mà âm điệu du dương của chúng mang bóng dáng của đất đai làng mạc đã tạo nền cho tình yêu quê hương đất nước thắm thiết lắng sâu vào tâm hồn… Những cảnh vật quen thuộc của đồng bằng đã đến với tuổi thơ bao thế hệ thông qua những câu ca dao ca ngợi lao động và tình yêu quê hương, những bài tập đọc trong sách giáo khoa, những bức tranh miêu tả những cánh đồng thẳng cánh cò bay, những thôn làng nằm yên ả sau luỹ tre, có giếng nước ao làng, có mái đình chùa rêu phong cổ kính, có những cây đa cổ thụ chơ vơ ngoài gò, ngoài bãi…”(8) Tình cảm gắn bó với quê hương, với lũy tre, với cây đa bến nước sân đình… từ thuở ấu thơ đã mau chóng trở thành tình yêu Đất Nước. Cha ông ta đã gọi giang sơn của mình là Non Nước; Nước & Non quấn quýt tình nghĩa trong cảm quan yêu nước của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu xét cho cùng xuất phát từ lòng yêu thiên nhiên trĩu nặng: “Nước Non nặng một lời thề/ Nước đi đi mãi không về cùng non”… Các danh nhân văn hóa – lịch sử nước ta đều có nhiều vần thơ, bài thơ thực rung động về thiên nhiên và chúng đều đạt tới vẻ đẹp cổ điển của văn chương- như thơ của Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Phạm Sư Mạnh, Cao Bá Quát, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, v.v. Trong số những câu thơ thuộc loại tuyệt đỉnh ở kiệt tác Truyện Kiều, không ít câu là viết về thiên nhiên: “Long lanh đáy nước in trời/Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng…”.

Ảnh: Một góc thiên nhiên hoang sơ của huyện Vân Hồ- tỉnh Sơn La

Có lần, từ trên máy bay tôi ngắm nhìn mê mải đồng bằng châu thổ vào mùa lúa chín. Câu ca xưa từ thuở mới cắp sách đến trường trở lại ngân nga: “Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng thấy mênh mông bát ngát/ Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng thấy bát ngát mênh mông/ Thân em như chẽn lúa đòng đòng/ Phất phơ giữa ngọn nắng hồng buổi mai”…

Tâm hồn dân gian mộc mạc và thi vị của người lao động đã vẽ nên bao cảnh đẹp say lòng của đồng bằng châu thổ, mảnh đất chôn nhau: “Làng ta phong cảnh hữu tình/ Dân cư đông đúc như hình con long”… Đã là người Việt Nam, ai mà chẳng đồng cảm với học giả Pháp Pierre Gourou khi nghe ông miêu tả cảnh làng quê Bắc Bộ: “Thoạt nhìn phong cảnh châu thổ có vẻ đơn điệu xám xịt, không có duyên, nhưng dần dần, nét nên thơ và vẻ đẹp của nó lộ ra trước mắt những ai chịu khó đi tìm cảm xúc, lần theo các con đê và những con đường đất nhỏ trong các mùa khác nhau, và đi vào các xóm làng… Mặt nước mênh mông, bằng phẳng và gợn sóng, trôi chầm chậm về phía chân trời, tuỳ từng lúc mà điểm tô màu đỏ xậm, hồng nhạt hoặc xám lam; một khóm tre, đám cỏ trên thân đê, bộ lông vàng của con bò làm nổi thêm giá trị của nước phù sa đỏ cạch; đôi khi những tương quan cực kỳ tinh vi được tạo ra giữa màu hồng của sông nước và những mái rạ màu xám cũ kỹ của một làng ven sông. Những phong cảnh mà ở đó màu sắc trùm lên hình thể, việc thay đổi các sắc thái lấn át đường nét: tóm lại những cảnh quan ấn tượng chủ nghĩa…” Đó quả là những bức tranh hội hoạ đặc sắc, là những khuôn hình điện ảnh kiểu mẫu, kèm theo lời chỉ dẫn pha màu cho hoạ sĩ hoặc cách phối màu sắc & ánh sáng cho nhà quay phim! Nhưng có lẽ, điều đặc sắc hơn cả trong công trình địa lý nhân văn của vị Uỷ viên thông tấn Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp nặng lòng yêu Việt Nam này là: ông đã đúc kết được một cách tài tình nền văn minh châu thổ, mà ông gọi là “Nền văn minh nông dân.” Nhà khoa học Pháp, vượt lên trên những sự kỳ thị của tầng lớp thực dân thống trị đương thời, đã hào hứng viết như sau: “Thật vậy, một trong những dáng vẻ đáng yêu nhất của châu thổ Bắc kỳ là sự hoà hợp hoàn toàn giữa con người với thiên nhiên. Từ bao thế kỷ, người nông dân đã biết tổ chức những mối quan hệ hài hoà với những cảnh quan quanh mình…”.  Sau khi so sánh với sự tiến bộ hiện đại ở phương Tây thực chất là một sự tách rời giữa con người với ngoại cảnh tự nhiên, là sự huỷ hoại thiên nhiên, P. Gourou đã có một ý tưởng đột xuất mà cho đến hôm nay càng chứng tỏ tính chất dự báo, tính chất thời sự nóng hổi không những đối với VN mà còn mang ý nghĩa toàn cầu, buộc tất cả chúng ta phải suy nghĩ và có thể vận dụng vào thực tế hôm nay: “Sự hài hoà cổ xưa giữa con người với thiên nhiên vẫn có thể gìn giữ được nếu như người VN, đặc biệt là những người thuộc tầng lớp thượng lưu ưu tú, nghĩ rằng đó là di sản quý báu nhất của nền văn minh của họ… Nếu có một tinh thần yêu nước VN, thì họ phải dành tất cả sự quan tâm vào việc giữ gìn sự hài hoà quý báu đó giữa thiên nhiên và con người, vì đó là vấn đề tiên quyết, là vấn đề chi phối mọi vấn đề khác dù là kinh tế hoặc chính trị…”(9).

Khi đi lang thang trong một vùng thiên nhiên còn hoang sơ của huyện mới Vân Hồ, tỉnh Sơn La, tôi đã bất giác nhớ đến những dòng viết về thiên nhiên làng quê Việt Nam của hai học giả Lê Bá Thảo và P. Gourou, rồi chợt thảng thốt: cái thiên nhiên kỳ diệu kia của vùng núi Tây Bắc nếu cũng bị phá tan nát như ở nhiều vùng quê Việt bây giờ, thì thực đau xót! Tôi đã bắt đầu có kế hoạch vận động một số nhà đầu tư có tâm huyết tới vùng huyện mới Vân Hồ làm Du lịch sinh thái hoang dã để góp phần bảo vệ kho báu tài nguyên thiên nhiên nơi này…

3.
Triết gia danh tiếng người Ấn Độ Krishnamurti từng nói nhiều đến thiên nhiên trong cái “cảm giác ngưỡng mộ”, “sự tôn kính những gì phát sinh từ cái đẹp vĩ đại” của thiên nhiên, nơi sẽ diễn ra quá trình tự chữa trị vết thương lòng kỳ diệu, và “việc chữa trị ấy sẽ dần xảy tới nếu bạn sống với thiên nhiên”(10). Những đề nghị trở về với đời sống thiên nhiên, để mong đạt tới sự thảnh thơi tự tại, sự “thuận thiên” của Trang Tử hiện đang làm thế giới tiêu dùng phương Tây và khắp thế giới phải sững sờ tìm hiểu(11).

Các nhà giáo dục lớn xưa nay trên thế giới là những người hơn ai hết hiểu rõ vai trò của thiên nhiên trong việc hình thành nhân cách trẻ thơ. Trong tác phẩm Emile hay là về giáo dục, nhà văn, triết gia người Pháp J.J. Rousseau thế kỷ 18 đã cho thấy hình ảnh của nhân vật Emile – sản phẩm giáo dục theo hình dung của ông là: vững chãi, độc lập trong tư duy, phán đoán và hành động. “Vấn đề là chỉ ra cho nó cần làm thế nào để luôn khám phá ra sự thật hơn là bảo cho nó biết một sự thật”. Và để khám phá ra sự thật, không gì bằng môi trường thiên nhiên. Mục tiêu giáo dục của Rousseau là, trước khi và trong khi dạy cho Emile sự hiểu biết, cần làm cho Emile hạnh phúc tối đa trong lứa tuổi của cậu ta, với những gì được thiên nhiên trao tặng. Hình ảnh một người trẻ, độ tuổi 15 mà Rousseau muốn tạo ra là: “trí óc đúng đắn và không thành kiến, tâm hồn tự do… Không phá rối sự an tĩnh của ai hết, nó đã sống hài lòng, hạnh phúc và tự do, hết mức mà thiên nhiên cho phép”(12).

Bác sĩ, nhà giáo dục người Ý Maria Montessori trong công trình Bí ẩn tuổi thơ đã có một khái niệm rất đáng quan tâm: “Đứa trẻ bị lệ thuộc” (cũng là một đề mục trong chương sách mang tên: “Những lệch lạc tâm thần”). Bà lo lắng rằng: nếu như không tạo ra một môi trường tốt cho đời sống tinh thần trẻ em, không gắn trẻ em với thiên nhiên, không có một phương pháp sư phạm đúng đắn, sẽ tạo ra những đứa trẻ thờ ơ, lãnh đạm, lười biếng. Và những ai có ý định “máy móc hóa” học đường, “robot hóa” trẻ thơ, tách trẻ thơ ra khỏi thiên nhiên cần tỉnh ngộ trước những lời cảnh báo của Montessori cách đây hơn một thế kỷ: “Tiến bộ về mặt vật lý, hóa học và sinh học, và sự cải thiện các phương tiện giao thông chỉ làm tăng nguy cơ của sự tàn phá, khốn khổ và sự xuất hiện của cái man rợ độc ác…”(13). Có một thực trạng nguy hiểm đang bắt đầu chiếm lĩnh tâm lý đám đông xã hội ở nước ta: tâm lý thích hành hạ thể xác & tâm hồn người khác, nó đang nảy nở như nấm sau mưa và không chừa lứa tuổi nào! Điều này cho thấy tình trạng «tê cóng», «bại liệt lòng nhân đức» của con người, mà có lẽ nguyên nhân sâu xa là thiên nhiên đã trở thành vật để mua bán, trục lợi, và tình yêu thiên nhiên chỉ còn chết đọng trong các câu chuyện cổ tích! (Các khái niệm nhân đức, tê cóng, bại liệt này tôi dùng lại theo Mạnh Tử)(14).

Đây là một phương pháp giáo dục gắn với thiên nhiên mà nước ta cần học hỏi: Ý tưởng nuôi dưỡng trẻ em nhỏ tuổi sống giữa thiên nhiên còn hoang sơ xuất phát từ Đức vào cuối thế kỷ 18. Sau đó nó nhanh chóng được người Bắc Âu đón nhận và phát triển. Hoa Kỳ, đất nước của những đứa trẻ mất kết nối với thiên nhiên cũng nhanh chóng nhập cuộc. May mắn nhất, những đất nước kể trên đều là các quốc gia bảo tồn tốt hệ sinh thái và những khoảng xanh của mình. Hiện nay, tại Đức có đến 700 trường mầm non trong rừng (chiếm khoảng 10% các trường mầm non trên toàn quốc). Số lượng các trường học theo mô hình này cũng chiếm tỉ lệ tương tự tại Hoa Kỳ… Các nhà khoa học Mỹ đã tiến hành nhiều nghiên cứu để tìm ra sự khác biệt mà trường học trong rừng mang đến cho những đứa trẻ… Đặc điểm lớn nhất của thiên nhiên chính là sự đổi thay từng ngày, từng giờ… Sự bất ngờ, những điều mới mẻ luôn là động lực tốt nhất tạo nên sự hứng thú và ham thích tìm hiểu ở những đứa trẻ. Vì thế, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những đứa trẻ học “trong rừng” có trí tưởng tượng tốt và phong phú hơn những đứa trẻ học “trong nhà”. Thêm vào đó, thiên nhiên rộng lớn và biến đổi liên tục chính là môi trường thuận lợi nhất để trẻ thực sự học được những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống.» (https://www.dkn.tv/doi-song/vi-sao-truong-mau-giao-trong-rung-duoc-cac-quoc-gia-van-minh-dac-biet-yeu-chuong.html).

Con người cần kết nối lại với thiên nhiên: đó lời kêu gọi khẩn cấp từ những nước phát triển! Một bài báo của nước Anh viết: «Một khảo sát gần đây đã nhận thấy một thực trạng đáng quan ngại là người dân đô thị đang dần mất đi sự kết nối với thiên nhiên, và cái giá phải trả ngày càng đắt… Chúng ta quên mất vẻ đẹp kỳ diệu của cây cối, không khí trong lành như thế nào, những loài động vật hoang dã cuốn hút ra sao, và khả năng làm giảm căng thẳng mà vùng nông thôn yên bình có thể mang lại cho con người… Có thể khẳng định rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ mà thiên nhiên bị “tước đoạt” nhiều nhất trong lịch sử. Một khảo sát mới đây của nước Anh chỉ ra rằng cứ 7 trong số 10 người nói rằng họ hoàn toàn đã “mất liên lạc” với tự nhiên… Mối liên hệ giữa con người và hệ động thực vật chính là động lực thôi thúc con người muốn bảo vệ tự nhiên… Con người lìa xa thiên nhiên sẽ khiến thiên nhiên dễ bị hủy diệt hơn”. (http://trithucvn.net/doi-song/con-nguoi-can-ket-noi-lai-voi-thien-nhien.html).

Báo Pháp Khoa học & đời sống từng viết về Tám hiểm họa môi sinh của thế kỷ XXI: 1/ Nhiệt độ tăng; 2/ Đất thoái hóa; 3/ Nước hết; 4/ Hóa chất làm ô nhiễm; 5/ Vùng biển bị khai thác quá mức; 6/ Phá rừng gây nên dịch bệnh mới; 7/ Mất cân đối dân số, nam nhiều hơn nữ, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt; 8/Đô thị hỗn loạn. Người ta giải thích thêm điểm cuối: nay là thời của những THỊ DÂN HUNG DỮ; cuộc sống vô cùng hỗn độn bởi một số dân quá đông cùng sống trong một diện tích quá chật chội. ( https://www.facebook.com/permalink.php?

Trong chương CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN của cuốn sách Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI, hai tác giả Ý và Nhật Bản viết những năm cuối thế kỷ trước mà như trực tiếp nói về những thảm họa môi trường sinh thái của nước ta gần đây, với sự phẫn nộ đanh thép:

«Chúng ta vật lộn nhau, tranh giành phần thắng; chúng ta vung dao lên để cướp lấy những lợi ích trước mắt, mặc ai bị thiệt hại, hoặc bất chấp việc vi phạm những chuẩn mực đạo đức. Hành động như thế, chúng ta đã phá hoại môi trường của mình… Sự hiểu biết và những quyền lực đó đã làm cho chúng ta trở thành tự phụ, ích kỷ, đến mức quên cả cảm thông với thiên nhiên… quên vai trò chủ yếu của thiên nhiên trong sự sinh tồn của mình» – ”Kho tàng phát sinh sự sống của thế giới được chế biến, phân hóa, hoàn chỉnh qua hàng chục hàng trăm triệu năm trong những phòng thí nghiệm của thiên nhiên, đang bị phá hủy, đảo lộn một cách tàn bạo. Những nơi cư trú cần thiết cho sự sống và sự tiến hóa của vô số giống loài đang bị hủy diệt vĩnh viễn. Vô số cơ cấu và hệ thống khác của sự sống tương đối đơn giản nhưng không thể thay thế, cần thiết cho sự cân bằng năng động và sự điều tiết của hệ sinh thái đang bị loại trừ không thương tiếc. Chỉ có sự ngu dốt hiện nay của chúng ta ngăn trở không cho chúng ta hiểu sự phân hóa kỳ lạ và đa dạng của thiên nhiên cần thiết cho sức khỏe của con người đến mức nào”(15) – ”chúng ta và con cháu chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt trong tương lai về sự giết hại sinh thái liên tục và tràn lan ấy. Chúng ta xem thường ý nghĩa của từ ngữ khi nói rằng đại dương và môi trường thiên nhiên là tài sản chung của nhân loại. Thực tế, tất cả chúng ta là tội phạm của sự cướp phá tài sản ấy, là tội phạm đồng lõa để cho người ta tàn phá, giết hại tất cả những hình thái của sự sống khác con người một cách vô độ…”(16). Còn F. Engels trước đó hơn một thế kỷ cũng đã từng cảnh báo: không thể thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài thế giới tự nhiên(17).

Trước cuộc sống hiện đại đang khiến cho xã hội lâm vào tình trạng hỗn loạn và đầy bất ổn, đã có không ít bài báo nước ngoài ca ngợi lối sống gắn với Mẹ Thiên Nhiên của người dân da đỏ, những người coi thiên nhiên là một món quà của thượng đế, và luôn tâm niệm rằng: cần phải tôn kính, quý trọng thiên nhiên… Họ truyền dạy con cháu: «bước khoan thai trên mặt đất, sống cân bằng và hài hòa» – «Chỉ khi cái cây cuối cùng chết đi và khi dòng sông cuối cùng bị đầu độc và con cá cuối cùng bị đánh bắt thì chúng ta mới nhận ra mình không thể ăn được tiền». Đặc biệt, có một bức thư của hai tù trưởng trả lời Tổng thống Hoa Kỳ là Franklin Pierce muốn người da đỏ nhượng bớt đất cho người da trắng, được coi là văn kiện hay nhất xưa nay nói về mối quan hệ thiêng liêng của các tộc người thiểu số đối với đất đai tiên tổ và quan niệm thâm thúy của họ về môi trường sống: “… Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong ký ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang trong đó ký ức của người da đỏ… Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng cho ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió thấm đượm hương hoa đồng cỏ… người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất này như những người anh em”. (http://tinhhoa.net/cuoc-song-tran-quy-me-thien-nhien-dang-kham-phuc-cua-nguoi-da-do.html).

Báo cáo “Sự gia tăng gần đây về áp lực của con người và mất rừng đe doạ nhiều Di sản Thiên nhiên Thế giới” đã được nhận giải thưởng Elsevier Atlas. “Hành động cấp bách rất cần thiết để cứu những nơi kỳ quan này trước khi quá muộn”, Tiến sĩ James Watson của trường UQ và Hiệp hội Bảo tồn Động vật Hoang dã nói, “Đó là tài sản thế giới, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như viên ngọc quý trên vương miện khi nó được đưa vào bảo tồn thiên nhiên, và nó đáng được bảo vệ cho toàn thể nhân loại” (https://cvdvn.net/2017/08/02/bao-cao-ve-thiet-hai-doi-voi-di-san-thien-nhien-the-gioi-thang-giai-quoc-te/).

Đại sư Shayalpa Tenzin Rinpoche đã ra thông điệp: «Theo thiển ý của tôi thì tất cả chúng ta ai cũng đều có trách nhiệm bảo vệ môi trường chung và cuộc sống sẽ có ý nghĩa nếu chúng ta tìm ra cách thức tôn trọng môi trường tự nhiên tốt nhất trong khả năng của mình. Muốn chăm sóc bảo vệ môi trường thì cần chăm sóc bảo vệ chính chúng ta về lâu dài vì đó là điều đem lại lợi ích cho thế hệ sau… Thực sự, điều quan trọng nhất là biết tôn trọng và yêu quý vẻ đẹp thiên nhiên» (http://www.bbc.com/vietnamese/culture-social-40793229).

Trước tình cảnh rừng Amazon sắp mất nửa số loài vì biến đổi khí hậu, và tình hình Trái đất đang trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết, 20.000 nhà khoa học đã ký vào một bức thư, đồng loạt cảnh báo về thảm họa diệt vong của nhân loại; bức thư có tựa đề: “Khoa học thế giới cảnh báo nhân loại: Lời cảnh tỉnh thứ hai” (Nguyên văn: World Scientists’ Warning to Humanity: A Second Notice). Đây là thông báo tiếp sau lá thư đầu tiên vào năm 1992 do Uỷ ban khoa học quan ngại (UCS) phát hành, nhằm cảnh báo về vận mệnh của nhân loại.

Có khá đông người trẻ ở Hồng Kông đang từ bỏ những cơ hội tìm công việc có lương cao để chọn những công việc lương thấp nhằm giúp bảo vệ môi trường, thường gây nhiều thất vọng cho các bậc cha mẹ truyền thống  (http://vietnam.ucanews.com/2016/08/29/gioi-tre-hong-kong-thich-bao-ve-thien-nhien-hon-kiem-tien/).

Những hoạt động tích cực của các nhà khoa học, các tổ chức xã hội- chính trị và khoa học khắp thế giới đang nhằm vào cái đích mà đất nước được mệnh danh là “Quốc gia hạnh phúc nhất thế giới” đã đạt tới: “Đó là khu bảo tồn sinh thái tốt nhất trên hành tinh của chúng ta…. Costa Rica cũng không chạy theo đồng đô-la của các viện bào chế thuốc tây Âu Mỹ hay của các tập đoàn khai thác năng lượng phương Tây để bán rẻ tài sản thiên nhiên của mình….” (http://suckhoedoisong.vn/costa-rica-quoc-gia-hanh-phuc-nhat-the-gioi-n4706.html).

Mơ ước tạo dựng nên những vùng đất hạnh phúc và đáng sống như thế, có biết bao «kẻ mộng mơ» từ Đông sang Tây hàng ngày cặm cụi, đơn độc làm công việc tưởng như «dã tràng xe cát» để đem lại dù chỉ một bóng cây, thậm chí có ông lão đã tạo nên cả một khu rừng nhiệt đới từ đám đất sỏi, có đôi vợ chồng già đã mất 15 năm để biến sa mạc thành ốc đảo… Và nhiều nhân vật có thực khác gây xúc động lòng người thấm thía trong bài báo ngắn của Phạm Thu Hương: “Đời luôn sẵn kẻ mộng mơ” (https://cvdvn.net/2018/03/15/doi-luon-san-ke-mong-mo/#comment-11007).

4.
Chúng ta tìm về thực trạng thiên nhiên VN giữa khi cả xã hội loài người đang xao xác tơi tả bởi những vấn đề Môi trường cùng các hệ lụy đau lòng bởi Môi trường bị tàn phá, Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, giữa khi con người trên khắp hành tinh đang bị Thiên nhiên trả thù đích đáng bởi sự thiển cận, độc ác, tham lam của chính mình… Vào giữa thế kỷ trước, mục sư Martin Luther King, nhà hoạt động nhân quyền Mỹ được giải Nobel Hòa bình đã cay đắng thốt lên trước các thảm họa môi trường: “Quá muộn rồi. Sau đây, chúng ta sẽ đi về đâu, sự hỗn loạn hay một cuộc sống cộng  đồng?”.

Bảo vệ môi trường lâu nay không còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà là vấn đề sống còn của toàn nhân loại. Từ ngày 5/6/1972 tại Stockhom (Thuỵ Điển), đã có Hội nghị môi trường thế giới lần đầu tiên để nhắc nhở “Con người hãy cứu lấy cái nôi của chúng ta”, lấy ngày 5/6 hàng năm là ngày Môi trường thế giới. Sau đó, tháng 6/1992 tại Braxin, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường thế giới diễn ra với tham dự của hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế, một lần nữa khẳng định tình trạng suy thoái môi trường nghiêm trọng, kêu gọi mọi quốc gia hãy hợp tác hiệp lực có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Nhưng cho đến nay, vấn đề ô nhiễm môi trường vẫn là vấn đề nóng bỏng của mỗi quốc gia. Ở VN, sự trì trệ, bảo thủ, tầm nhìn hẹp, yếu kém về chuyên môn, cộng với tình trạng tham nhũng khoa học đã khiến Sự nghiệp Môi trường trở nên lạc hậu so với thế giới hàng thập kỷ, và là căn nguyên của một hệ thống chính sách sai lầm về các vấn đề Môi trường. Điều đó dẫn tới hệ quả là môi trường ô nhiễm tràn lan khủng khiếp chưa từng thấy, Tài nguyên (tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người) bị khai thác bừa bãi phung phí khiến những ai có lương tri và hiểu biết đều phải đau xót đến đứt ruột. Trong một công trình nghiên cứu công phu, cuốn MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN(18), lần đầu tiên những vấn đề lý luận về Môi trường ở nước ta mới được đặt ra một cách hệ thống; ở đây, PGS.TS. Nguyễn Đắc Hy đã phân tích khá kỹ lưỡng hai nội dung khái niệm: “Tài nguyên Thiên nhiên” và “Tài nguyên Con người”, cùng khái niệm “Lượng giá trị của tài nguyên” và những vấn đề kinh tế học của Môi trường. Sau khi nói đến tình trạng khai thác bừa bãi vốn thiên nhiên, vốn con người suốt những năm qua (sự bất cập, phi lý trong chuyện khai thác khu công nghiệp, sân golf… dẫn tới mất đất nông nghiệp, trong việc đầu tư, xuất khẩu lao động bừa bãi…), tác giả thốt lên: vốn tài nguyên đó của Đất nước nếu không biết quý trọng, không biết khai thác, quản lý một cách khoa học và có lương tâm thì sẽ có tội lớn với Dân tộc! Ông bảo: ở nước ta, người nghiên cứu kinh tế thường chỉ quan tâm đến đồng tiền nhảy múa mà bỏ quên vấn đề Tài nguyên (Thiên nhiên và Con người). Theo ông, khi người ta mới làm chính trị về môi trường, chứ chưa làm môi trường thực sự, thì số phận thiên nhiên vẫn còn bị đe dọa!
Quả vậy, hiện tại ở VN, hàng ngày vẫn đang tràn ngập những câu chuyện tàn phá môi trường: Chất thải đổ ra biển, rừng bị tàn phá nặng nề, kênh rạch, sông hồ bị ô nhiễm… Ngoài việc đổ thuốc trừ sâu xuống các hồ tôm cá, thả chông và mảnh chai xuống ruộng, còn những “hành vi trả thù” tàn ác khác như đốt mía, đổ thuốc vào thân dừa, chặt chân trâu bò… Khủng khiếp nhất là thảm họa Formosa, rồi bãi chôn xỉ lấn biển của Formosa, chuyện các nhà máy thép DANA, chuyện phá rừng để nuôi bò và thi hoa hậu, các nhà máy gây ô nhiễm khắp nơi, sông chết, biển chết trên cả nước; Hà Nội, TP. HCM thi nhau chặt cây trong lúc đây là hai thành phố thuộc diện ô nhiễm nhất thế giới… Đau đớn nhất là chuyện những con chim bị khâu mắt, cột chân giữa nắng để làm mồi nhử đồng loại giữa quê hương đại thi hào Nguyễn Du!

PLO có bài: “Công ty hóa chất xả thải vượt chuẩn 800 lần ra Sông Hậu”: chủ dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 1 đã trình một bản báo cáo phân tích đáy biển Bình Thuận một cách dối trá, đơn vị tư vấn đã đưa ra một bản báo cáo khoa học ngụy biện và trí trá, mạo danh các nhà khoa học hàng đầu để bức tử môi trường biển (BBTBaoTiengDan@gmail.com ).

Báo chí trong nước đưa tin về các công ty nước ngoài đổ chất thải xuống biển, đã tự kiểm duyệt cụm từ “chất thải”, thay thế bằng cụm từ “vật liệu nạo vét”. Báo Thanh Niên cho biết, việc khai thác khoáng sản titan tràn lan ở Bình Thuận sẽ làm cạn kiệt nguồn nước ngọt tự nhiên… Báo Một Thế Giới có bài điều tra về nạn khai thác cát tặc đang hoành hành tại miền Tây, được chính quyền bảo kê, dẫn đến hiện tượng sạt lở khủng khiếp. Cũng báo Thanh Niên: “Việc Bộ Tài nguyên – Môi trường cấp phép nhận chìm gần 1 triệu m3 bùn thải xuống biển Bình Thuận, theo các chuyên gia, bản chất là xả thải. Nó sẽ hủy hoại vĩnh viễn cả một vùng biển giàu có và độc nhất vô nhị về nhiều mặt của Việt Nam”. Theo báo Sài Gòn giải phóng, người dân “Bất an với gần 1 triệu m³ chất thải “chôn” xuống biển”. Còn tại Tây Nguyên, dẫn lời quan chức tỉnh Đắk Nông, báo Tuổi trẻ cho biết, “người dân xã Nhân Cơ rất lo lắng trước hiện tượng chất bột màu trắng từ Nhà máy chế biến alumin Nhân Cơ phát tán và bám đầy trên cây trồng”.

Một số nhà nghiên cứu văn học cũng tạm rời văn chương để than thở cho thảm cảnh tận diệt thiên nhiên, như ông Vương Trí Nhàn: «Hiện nay rất nhiều đại gia bất động sản vì lợi ích trước mắt và ma lực của đồng tiền đang ra sức bào mòn, phá hoại tài nguyên quốc gia bất chấp những hệ quả mà người dân phải gánh chịu. Nổi bật trong đám đại gia ấy chính là Tập đoàn “Sun Group đi tới đâu sơn thần thổ địa ở đó hiện ra quỳ lạy rối rít”- chính là câu nói miêu tả chính xác cách phá hoại môi trường của tập đoàn này trên khắp cả nước. Sau khi phá nát đỉnh Fansipan, phá nát vườn quốc gia Hoàng Liên, xới tung Đà Nẵng, lấn biển Quảng Ninh, hiện Sun Group đang ngày đêm “xẻ thịt” hàng chục ha rừng phòng hộ tại Phú Quốc để phục vụ cho mục tiêu thu lợi khủng… Đáng buồn thay, Sun Group chỉ là một trong số những kiểu làm giàu siêu tốc, bất chấp lợi ích quốc gia và quyền lợi chính đáng của người dân, tại Việt Nam hãy còn rất nhiều mafia kinh tế khác: như Tập đoàn FLC sẵn sàng cướp đất của dân nghèo, đẩy dân vào cùng quẫn để làm giàu từ các dự án bất động sản… (Facebook Thiên Trang).

Một trong những tiếng nói thấm thía nhất về sự tàn phá môi trường là loạt ký sự: Sơn Trà ký sự – Kỳ 6: Khoa học của sự tôn kính thiên nhiên: «…Có thể nói, trong máu của người Đà Nẵng có linh khí của Sơn Trà. Đó không phải là thứ “linh khí” của niềm tin tôn giáo, mà là thứ linh khí có thật từ thảm thực vật và các loài sinh vật, trong đó có vô số dược liệu hấp thu nguyên khí của đất đai trời biển, lan tỏa theo nắng gió đến với con người… Đó là chưa kể đến việc khôi phục rừng tại Sơn Trà có ý nghĩa khoa học như thế nào đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học và khôi phục rừng trong cả nước và tác động quốc tế của nó, vì như đã nói, Sơn Trà có hội đủ các điều kiện dung trú hầu hết các loài thực vật trong cả nước và trên hành tinh… Sơn Trà không bị bom và chất độc hóa học, rừng nguyên sinh bị hủy diệt từ lòng tham và lợi ích thiển cận của con người» (Hoàng Hải Vân – Một Thế Giới).

Khi Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch Huỳnh Vĩnh Ái ký bừa để kỷ luật một người bảo vệ Sơn Trà (http://www.phapluatplus.vn/thu-truong-huynh-vinh-ai-toi-xin-loi-anh-huynh-tan-vinh-vi-su-co-dang-tiec-nay-d44982.html), ta có thể nhận thấy: đằng sau sự việc này là sự dửng dưng trước số phận Thiên nhiên của ông thứ trưởng, và đó là hệ quả đáng tiếc của cả một quá trình giáo dục mà ở đó, lòng yêu thiên nhiên không được coi trọng như các tiêu chí đạo đức khác.

Khi bệnh vô cảm và ích kỉ đã tràn lan khắp đất nước, đã có biết bao tiếng nói đau xót đến chảy máu mắt về thảm cảnh tàn phá thiên nhiên, như những tâm sự sau đây: “…hiện tại, U Minh Thượng hay U Minh Hạ, rồi Đất Mũi, tất cả rừng đước, sú, vẹt cả mấy trăm năm tuổi, thậm chí ngàn năm tuổi đang bị khai thác một cách vô tội vạ… Cả một cung đường dài từ Nam chí Bắc đều là cây cối trơ trọi. Thay vào đó là hàng quán, đi chừng 300 mét đã có quán thịt rừng, đặc sản rừng, khu nhà trọ, quán nhậu… Giờ có vẻ như Trường Sơn cũng chẳng còn bao nhiêu cây để chặt, người ta lại kéo về thành phố để chặt, mà đáng sợ nhất vẫn là chặt cây theo dự án! Có không biết bao nhiêu ngàn hecta rừng Trường Sơn bị chặt phá theo dự án thủy điện mà sự thật đằng sau cái dự án đó là bóng ma nhà buôn Trung Quốc…” (http://www.datviet.com/43-nam-va-bao-nhieu-nam-nua/#).

Vấn đề Môi trường và Thiên nhiên bị tận diệt cũng đã nóng lên trong các phiên họp Quốc hội. Theo Phó chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Đặng Thuần Phong, người dân Việt Nam hiện không thể an tâm khi nhiều nơi rừng đã hết, có chỗ biển gặp sự cố môi trường nặng nề, tài nguyên khoáng sản quốc gia cho các đời sau dần cạn kiệt… Đại biểu Phong quan ngại về tình trạng đưa công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường vào trong nước gây ô nhiễm môi trường. “Khi đất đã chết, sông chết, rừng sắp hết, biển gần chết… thì tiền có nhiều đến đâu đi nữa cũng không thể mua được môi trường tươi đẹp mà chúng ta đã mất và đang mất.”  (dai-bieu-quoc-hoi-neu-6-bat-an-cua-nguoi-viet).

5.
Tại VN, đã xuất hiện ngày một nhiều những «tổ chức Mơ Mộng», những “người Mơ Mộng”, những «hoạt động Mơ Mộng» sẽ có khả năng giúp cho tài nguyên Thiên nhiên và Môi trường sinh thái thoát khỏi nguy cơ rơi xuống vực thẳm. Như một vài nhà đầu tư đã dũng cảm tìm đến thiên nhiên còn nguyên sơ của huyện Vân Hồ làm du lịch sinh thái kết hợp với nông nghiệp xanh và quy trình công nghệ sinh học khép kín. Như Diễn đàn Nhà báo Môi trường đã từng cử nhà báo tới vùng lõi Tam Đảo đứng trước nguy cơ bị xẻ thịt để có dữ liệu phản biện một cách quyết liệt. (Người viết bài này là một trong hai nhà báo VN đầu tiên đã leo tới nơi xa xôi nguy hiểm nhất của Tam Đảo II để thực thi sứ mệnh trên của Diễn đàn). Như Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển cộng đồng (MCD), với Dự án “Thực tập sinh và đại diện cộng đồng chung tay nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng tại các khu dự trữ sinh quyển Việt Nam-Học hỏi và chia sẻ những bài học thực hành tốt giúp thúc đẩy sự tham gia của thanh niên trong thích ứng với BĐKH tại khu vực Vịnh Hạ Long”… Như Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường TP. Hồ Chí Minh được thành lập ngày 27/06, là một tổ chức quần chúng tự nguyện nhằm tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, phổ biến kiến thức về bảo vệ thiên nhiên và môi trường; thực hiện các hoạt động phản biện xã hội, tư vấn về công nghệ, sản xuất sạch trong lĩnh vực môi trường; đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thiên nhiên và môi trường… Như GS.TS Đặng Huy Huỳnh, nhà khoa học đầu tiên của VN vừa được ASEAN vinh danh Anh hùng đa dạng sinh học ASEAN khi ngồi hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án lớn đã phản đối hoặc đề nghị bỏ không làm nhiều dự án để bảo vệ môi trường tự nhiên… Như nhóm yêu quý và bảo vệ Cát Tiên tổ chức triển lãm ảnh Rừng Việt “Cát Tiên trong tôi”… Như các sinh viên khoa ngữ văn Anh (ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) đã bằng vật liệu cũ và tái chế thiết kế nhiều bộ trang phục thời trang độc đáo và bắt mắt trong cuộc thi trình diễn thời trang… Như Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường tỉnh Phú Yên đã đưa kiến nghị bảo vệ rừng trắc tại lưu vực suối Đá Bàn… Như Không Gian Chia Sẻ S.hub với định hướng tập trung vào hỗ trợ phát triển giáo dục, góp phần giúp giới trẻ kiến tạo tương lai, đã giúp mọi người vừa hưởng thụ thiên nhiên miễn phí vừa bảo vệ thiên nhiên (như Khám phá Sơn Đoòng qua trải nghiệm thực tế ảo)… Như Hội thi “Chúng em bảo vệ thiên nhiên, môi trường”- một trong những hoạt động giáo dục môi trường trong trường học, là một hợp phần thuộc Chương trình Trồng rừng được triển khai tại 4 trường THCS thuộc địa bàn vùng đệm VQG Ba Vì… Như 22 bạn trẻ đã đạt được giải thưởng lớn nhất trong Cuộc thi Tê giác hoang dã (Wild Rhino Competition) từ 1.500 bài dự thi và được tham quan Nam Phi 5 ngày để trải nghiệm thiên nhiên hoang dã… Như Hội chợ triển lãm quốc tế về Sản phẩm sinh thái (EPIF 2008) tại Hà Nội, sau đó Việt Nam tiếp tục đăng cai tổ chức EPIF 2017 tại Thành phố Hồ Chí Minh với chủ đề “Công nghệ và sản phẩm xanh- Hành động cho tương lai”… Như tổ chức cuộc thi vẽ tranh “Trẻ em với môi trường”, ghép tranh cổ động về môi trường, chương trình chiếu phim về khoa học và môi trường, thi tìm hiểu về sản phẩm sinh thái và công nghệ môi trường… Như nhiều bậc phụ huynh đang kiên trì dạy con bảo vệ thiên nhiên môi trường, tìm cách kết nối con trẻ với môi trường tự nhiên, rồi chia sẻ giúp các phụ huynh khác khơi gợi tình yêu thiên nhiên ở trẻ… Như các nhà giáo, các nhà làm chương trình giáo dục đang vắt óc tìm cách lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường trong các bài giảng, trong các chương trình đào tạo giáo viên các cấp… Như hoạ sĩ Văn Ngọc, người đã tìm mọi cách đưa thiên nhiên vào khung cảnh sống của gia đình mình ở Vũng Tàu – trong đó có cả những thứ phế phẩm như mẩu gỗ cháy dở, thanh côp-pha nham nhở vữa bỏ đi, nồi gốm sứt mẻ, ống thoát nước đất nung bị loại, v.v. Thế rồi, những con ong bay về tìm đến các hộp gỗ đục lỗ để làm tổ; dây leo cây dại mọc tự nhiên trên những hòn đá được bày làm ghế ngồi quanh sân…

Điểm sơ qua những việc, những người Mơ Mộng như thế để thấy: xu thế xây dựng nền văn hóa bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường đã bắt đầu trở thành một nhu cầu tự bên trong, có tính cấp thiết của xã hội.

6. Tạm kết.

Một học giả Mỹ nghiên cứu sâu về phương Đông đã tâm đắc với nhà phê bình phân tâm học Pháp nổi tiếng G. Bachelard khi bàn về chất thơ của không gian trong thiên nhiên có tầm quan trọng thế nào đối với cuộc sống, «Không gian có một ý nghĩa tình cảm hoặc thậm chí một ý nghĩa duy lý do một loại tiến trình mang tính thơ (a kind of poetic process)»(19). Nếu không gian con người mất đi cái «chất thơ» này, sẽ xảy ra hiện tượng đau lòng và khủng khiếp mà học giả người Nga B.I.Kozlov đã cảnh báo: có thể dẫn đến «sự sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa nhân văn và dứt khoát loại bỏ Homo Sapiens ra khỏi vũ đài lịch sử» – «Và khi đó, điểm cuối cùng sẽ được xác định: Máy móc sẽ là cái duy nhất trong vũ trụ mang Tinh thần và Lý trí»(20).

Rất nhiều nhà khoa học có lương tâm trên thế giới đã lên tiếng gay gắt trước nguy cơ chủ nghĩa vị kỷ độc ác hủy diệt Thiên Nhiên và Môi Trường sinh thái, và họ nhấn mạnh tới chủ nghĩa nhân đạo mang tính toàn cầu trong sự nghiệp cứu vãn trái đất cả «phần xác» lẫn «phần hồn»; xin dẫn ra một tiếng nói khá tiêu biểu giúp cho những người VN đang lo lắng cho vận mệnh Đất nước cùng suy ngẫm: «Quả Đất Mẹ còn vô số những vấn đề chưa được giải quyết… Trước tiên, cần giải quyết những vấn đề mà chúng ta phải chịu trách nhiệm do quan hệ tồi tệ của chúng ta đối với Thiên Nhiên trên hành tinh này gây ra. Thiên Nhiên là phần thân thuộc của chúng ta, là nguồn thường xuyên và thiết yếu của sự sống. Cải thiện mối quan hệ đó là mục đích chính của chúng ta»(21).

Còn một trong những mục đích chính và cấp thiết của tất cả người Việt Nam lúc này là: Hãy cứu lấy tài nguyên Thiên Nhiên của Đất Nước chúng ta đang có nguy cơ bị tận diệt!

_______________________________________

Chú thích :

1. Aurelio Peccei (Italia) và Daisaku Ikeda (Nhật). Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI, Trương Chính & Đông Hà dịch. Nxb Chính trị Quốc gia, HN 1993, tr.25.

2. L.Tolstoi. Đường sống-Văn thư nghị luận chọn lọc, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch, giới thiệu, chú giải (với sự tham gia của một số người khác). Nxb Tri thức, H 2015, tr.171.

3. Đường sống… Sđd, tr.226.

4. Đường sống… Sđd, tr.200.

5. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, HN, 2011.

6. Phan Ngọc. Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên, HN, 1999, tr.359-366.

7. Phương Đình văn loại. Trần Lê Sáng dịch. Nxb văn học HN 2001, tr.34.

8. Lê Bá Thảo. Thiên Nhiên Việt Nam, Nxb KH &KT, HN 1978.

9. Pierre Gourou. Người nông dân châu thổ Bắc kỳ- Nghiên cứu địa lý nhân văn, nhiều người dịch. Nxb Trẻ, tpHCM 2003.

10. Krishnamurti tinh yếu. Nguyễn Ước dịch. Nxb Văn học, HN 2002.

11. Trang Tử và Nam Hoa kinh. Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú dịch. Nxb Văn hóa-Thông tin, HN 1994.

12. J.J. Rousseau. Emile hay là về giáo dục. Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương dịch. Nxb Tri
Thức, HN 2008, tr. 273 & 277.

13. Maria Montessori. Bí ẩn tuổi thơ. Nghiêm Phương Mai dịch. Nxb Tri Thức, HN 2014, tr.281 & 326.

14. Francois Jullien. Xác lập cơ sở cho đạo đức- Đối thoại của Mạnh Tử với một nhà triết học Khai sáng, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu. Nxb Đà Nẵng, 2000, tr.132.

15. Tiếng chuông cảnh tỉnh… Sđd, tr.30.

16. Tiếng chuông cảnh tỉnh… Sđd, tr.62.

17. Mác Ăng-ghen toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, HN 1994, tr. 655.

18. Nguyễn Đắc Hy. Môi trường và con đường phát triển, Nxb Công an nhân dân, HN 2011.

19. Edward Wadie Said. Đông phương luận, Nxb Tri thức, HN 2014, tr.101.

20. Lương Việt Hải & I.K.Lixiev đồng chủ biên. Hiện đại hóa xã hội và sinh thái, Nxb KHXH, HN 2008, tr. 211.

21. Tiếng chuông cảnh tỉnh… Sđd, tr. 84.

M.A N.A.T.
Tác giả gửi BVN






No comments:

Post a Comment

View My Stats